Tại sao phải đầu tư cho trách nhiệm xã hội (CSR)?
Khái niệm trách nhiệm xã hội đang phát triển liên tục do sự tương tác với những ảnh hưởng bên trong và bên ngoài. Silberhorn và Warren (2007) cho rằng khái niệm trách nhiệm xã hội phát triển để đáp ứng với sự tương tác giữa các giá trị tổ chức và ảnh hưởng bên ngoài. Các giá trị quan trọng của một tổ chức có thể được mô tả như là tài nguyên, văn hóa và cấu trúc của nó (Wheelen và Hunger, 2002).
Một số nghiên cứu đã đề xuất rằng mặc dù các yếu tố bên trong đã được thảo luận ở trên, các tổ chức chủ yếu phản ứng đối với trách nhiệm xã hội từ áp lực bên ngoài chứ không phải bên trong để xác định trách nhiệm xã hội (L’Etang, 1994; Vogel, 2005). Ví dụ, trong môi trường xã hội và kinh doanh hiện tại, có một nhu cầu ngày càng tăng của công chúng đối với các nhà lãnh đạo của tổ chức bao gồm các vấn đề xã hội như là một phần trong chiến lược của họ (Lantos, 2001). Các nhà quản lý thường xuyên phải chịu áp lực từ các bên liên quan khác nhau trong việc phân bổ nguồn lực tài chính cho các hoạt động trách nhiệm xã hội. Các áp lực đến từ các bên liên quan như: người lao động, người tiêu dùng, cộng đồng và các nhóm môi trường (McWilliams và Siegel 2001) được thảo luận dưới đây:
1. Áp lực từ người lao động
Những áp lực từ các nhân viên được thảo luận bởi Musah (2008) bao gồm sự nhìn nhận ngày càng tăng của công chúng về các quyền lợi nhất định của nhân viên tại nơi làm việc, không phân biệt đối xử trong tuyển dụng, sa thải và thăng cấp. Matten và Moon (2008) cho rằng trách nhiệm xã hội đã giải quyết rõ ràng các vấn đề như tiền lương công bằng, giờ và điều kiện làm việc, chăm sóc sức khỏe, dự phòng và bảo vệ chống lại sa thải bất công. Các ví dụ quan trọng khác về áp lực từ người lao động được xem như là chỉ số uy tín của trách nhiệm xã hội (KLD). Các khía cạnh bao gồm các vấn đề tại nơi làm việc và “nhân viên là quan hệ lao động”, quyền lợi nhân viên và nhân viên tham gia. KLD sử dụng các vấn đề về người lao động cho mục đích đo lường trách nhiệm xã hội (Graves và Waddock, 1994; Sharfman, 1996; Turban và Greening, 1997).
Các nước phát triển như Anh và Đức có nhiều mối quan tâm về sức khỏe của người lao động, an ninh xã hội và sự đóng góp vào dịch vụ y tế quốc gia của họ thông qua thuế (Matten và Moon, 2008). Phân tích của Aguilera và cộng sự (2007) cho thấy nhận thức về trách nhiệm xã hội định hình thái độ và hành vi của nhân viên đối với công ty và nhấn mạnh rằng làm thế nào nhân viên có thể thúc đẩy các công ty tham gia vào các sáng kiến trách nhiệm xã hội. Trên thực tế, sự công bằng trong nhận thức ở bất kỳ môi trường làm việc nào đều có một tác động lên phúc lợi của nhân viên (sự hài lòng trong công việc, căng thẳng và cảm xúc) cộng với sự cân nhắc của tổ chức như sự vắng mặt và cam kết của nhân viên (Colquitt, 2001). Trên thực tế, khi một tổ chức tạo một môi trường làm việc không thiên vị, nhân viên rất vui và rất chăm chỉ.
⚒ Xem thêm: Khái niệm trách nhiệm xã hội
Khi người lao động hạnh phúc thì không khó để thuyết phục họ tham gia làm tình nguyện viên cho các hoạt động trách nhiệm xã hội của công ty – gọi là nhân viên tình nguyện. Trung tâm công dân doanh nghiệp tại Đại học Boston (1999) kết luận rằng nhân viên tình nguyện cung cấp nhiều lợi ích theo ba cách (1) cho các công ty, (2) cho người lao động và (3) là cộng đồng. Theo Hahn (2003) những lợi ích của hoạt động tình nguyện “cải thiện mối quan hệ với cộng đồng xung quanh, cải thiện hình ảnh công cộng, xây dựng một lực lượng lao động gắn kết và năng động, làm tăng hiệu quả và năng suất lao động, giúp thiết lập và nâng cao uy tín hoặc thương hiệu của công ty trong các thị trường mới hoặc hiện tại”.
Ở đây điều quan trọng để thảo luận về sự cần thiết của các tổ chức thực hiện phương pháp trách nhiệm xã hội để tránh đình công hoặc tỷ lệ lao động có thu nhập cao, cải thiện quan hệ với người lao động và duy trì các thị trường tiêu dùng của các tổ chức. Collier và Esteban (2007) trong lời giải thích của họ về vai trò của trách nhiệm xã hội trong việc nâng cao động lực và cam kết của người lao động, cho rằng “việc cung cấp hiệu quả của các sáng kiến trách nhiệm xã hội và môi trường của công ty phụ thuộc vào phản ứng của nhân viên. Đối với nhân viên để thỏa mãn yêu cầu trách nhiệm xã hội, họ phải có động lực và cam kết khắc phục những thách thức và đạt được các mục tiêu của hành vi trách nhiệm công ty”.
2. Áp lực từ người tiêu dùng/khách hàng
Tương tự, áp lực từ người tiêu dùng/khách hàng bao gồm kỳ vọng rằng công ty sẽ sản xuất các sản phẩm an toàn và cung cấp thông tin cho người tiêu dùng nhiều hơn (Musah, 2008). Các tổ chức cần phải nhận thức được những nhu cầu của người tiêu dùng và hành động vì các nhu cầu của họ như một phần trong chiến lược kinh doanh của mình; ví dụ, các dịch vụ sau khi bán hàng, và các dịch vụ bảo vệ khách hàng.
Nói chung, khách hàng yêu cầu một khoảng thời gian bảo hành cho sản phẩm mà họ mua, các dịch vụ gia tăng giá trị và khả năng trả lại bất kỳ sản phẩm đã được mua, nếu nó không đáp ứng được kỳ vọng của họ (Maignan và cộng sự, 2005). Nếu tổ chức không xem xét nhu cầu của khách hàng, nó sẽ mất thị phần. Do đó, áp lực từ khách hàng ảnh hưởng đến rủi ro thị trường của tổ chức. Các tài liệu học thuật và quản lý đã ít cung cấp hướng dẫn để giúp các nhà tiếp thị tích hợp các sáng kiến khác nhau vào một chương trình quan trọng có thể bao gồm một loạt các trách nhiệm của công ty. Ví dụ, người ta cho rằng đáp ứng nhu cầu của khách hàng và động viên người lao động để thỏa mãn sự kỳ vọng của công ty (George, 2003). Nghiên cứu các bên liên quan cho thấy việc đối xử với khách hàng và nhân viên có ảnh hưởng nhiều lên hiệu quả tài chính (Berman và cộng sự, 1999). Vì vậy, cách tốt hơn để cải thiện việc đối xử với khách hàng là áp dụng trách nhiệm xã hội như một chiến lược tiếp thị (Maignan và cộng sự, 2005).
✨ Định nghĩa trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR)
Smith và Langford (2009) đã chỉ ra rằng “kinh doanh có thể mang lại lợi ích trách nhiệm xã hội, đặc biệt là lợi ích thương mại do tác động của trách nhiệm xã hội lên hành vi và thái độ của người tiêu dùng” (p.100). Bhattacharya và Sen (2004) kết luận rằng người tiêu dùng sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho các sản phẩm của các tổ chức có trách nhiệm xã hội. Tuy nhiên, nếu công ty bỏ qua nhu cầu tiêu dùng của họ, hoạt động tẩy chay có thể dẫn đến kết quả xấu và trở thành một vấn đề lớn. Đây là một trong những biểu hiện của áp lực từ người tiêu dùng. Smith (2003) cho rằng thông điệp tẩy chay sản phẩm có liên quan đến những phản ứng tiêu cực lớn trên thị trường chứng khoán. Smith (2003) giải thích rằng “tẩy chay có thể là một ví dụ rõ ràng nhất của một hiện tượng lớn hơn về hành vi tiêu dùng chịu ảnh hưởng bởi nhận thức trách nhiệm xã hội sai lầm của tổ chức”.
3. Áp lực từ cộng đồng
Ngoài việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ, xã hội hy vọng rằng các tổ chức sẽ cung cấp sự an toàn, cải thiện đời sống, việc làm, cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi trường mà không ảnh hưởng đến hoạt động và lợi ích văn hóa (Agarwal, 2008). Sự mong đợi của xã hội đối với việc cải thiện đời sống bao gồm sự phát triển của giáo dục, y tế, tôn giáo, chính trị và công nghệ hiện đại. Idemudia và Ite (2006) nói rằng các công ty thực hành trách nhiệm xã hội chủ yếu nhắm đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo, công tác phòng chống vi phạm quyền con người và bảo vệ môi trường. Những kỳ vọng này khác nhau đối với từng nền văn hóa. Mong đợi của xã hội và mong đợi của tổ chức khá khác nhau. Sự không phù hợp này đặt áp lực lên các tổ chức, vì nếu những mong đợi của người tiêu dùng không được thỏa mãn, cộng đồng có thể cấm sản phẩm của công ty và thực thi nhiều chế tài. Tuy nhiên, Idemudia và Ite (2006) nói rằng ngay cả khi các công ty tham gia vào các hoạt động trách nhiệm xã hội tốt như đầu tư cho hoạt động từ thiện và xã hội, phân bổ thêm nguồn vốn cho phát triển cộng đồng, người dân vẫn tham gia vào các cuộc xung đột với các tổ chức. Newell (2005) đã chứng minh bằng trường hợp của các ngành công nghiệp khai thác mỏ, lý do các cuộc xung đột là thiếu sự đại diện của cộng đồng trong việc thiết lập các quy tắc và quy định.
4. Áp lực từ môi trường
Hoạt động của các công ty gây ô nhiễm môi trường và thậm chí gây ra các cuộc khủng hoảng. Các nhà nghiên cứu khác (Brown và cộng sự, 1989; Clark, 1989; Pryde,
1992) thảo luận về các thiệt hại môi trường như sự suy giảm ozone do CFC, sự nóng lên toàn cầu gây ra bởi ô nhiễm công nghiệp trong khí quyển, mưa axit, ô nhiễm không khí đô thị, chất thải độc hại và hạt nhân, sự tuyệt chủng các nguồn tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học (Shrivastava, 1995). Đồng thời, các tổ chức sử dụng các tài nguyên thiên nhiên đang suy giảm như dầu, nước và khí đốt trong quá trình sản xuất của họ. Shrivastava (1995) cho rằng việc duy trì một môi trường sạch sẽ là một trách nhiệm lớn đối với các tổ chức.