LA03.107_Các yếu tố tác động đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam
2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu cơ bản của Luận án là xác định rõ các yếu tố tác động đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp và khuyến nghị nhằm thúc đẩy của TNVN khởi sự kinh doanh.
2.2. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, Luận án sẽ tìm ra giải đáp cho các câu hỏi nghiên cứu chính yếu sau:
Thứ nhất, nhóm các câu hỏi liên quan đến các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến dự định KSKD của thanh niên:
(1) Thái độ đối với tiền bạc ảnh hưởng như thế nào đến dự định KSKD của TNVN?
(2) Thái độ đối với KSKD của bản thân có ảnh hưởng như thế nào đến dự định KSKD của TNVN?
(3) Chuẩn mực chủ quan ảnh hưởng như thế nào đến dự định KSKD của TNVN?
(4) Nhận thức kiểm soát hành vi ảnh hưởng như thế nào đến dự định KSKD của TNVN?
(5) Nhu cầu thành tích ảnh hưởng như thế nào đến dự định KSKD của TNVN?
(6) Kinh nghiệm KSKD của bản thân tác động như thế nào tới dự định KSKD của TNVN?
(7) Giáo dục khởi sự kinh doanh tác động như thế nào tới dự định KSKD của TNVN?
(8) Hỗ trợ của chính phủ ảnh hưởng như thế nào đến dự định KSKD của TNVN?
Thứ hai, nhóm các câu hỏi liên quan đến mối quan hệ giữa các nhân tố trong đo lường ảnh hưởng đến dự định KSKD của thanh niên:
(9) Thái độ có phải là biến trung gian trong mối quan hệ giữa kinh nghiệm về KSKD và dự định KSKD của TNVN.
(10)Thái độ có phải là biến trung gian trong mối quan hệ giữa giáo dục về KSKD và dự định KSKD của TNVN.
2.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Tổng quan nghiên cứu và xây dựng cơ sở lý thuyết về các nhân tố ảnh hưởng đến dự định KSKD của TNVN.
– Đo lường mức độ ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của các nhân tố đến dự định KSKD của TNVN.
– Phân tích và đề xuất khuyến nghị, giải pháp thúc đẩy dự định KSKD của TNVN.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các yếu tố tác động (bản thân, giáo dục KSKD, môi trường) đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
– Về không gian: Luận án nghiên cứu về dự định KSKD của thanh niên trong độ tuổi từ 18 – 30; tại thành thị (Hà Nội, Đà Nẵng, Tp Hồ Chí Minh – là trung tâm kinh tế của 3 miền Bắc, Trung, Nam; tập trung đông thanh niên sinh sống, làm việc; có hoạt động khởi sự kinh doanh sôi động trong những năm vừa qua, có một số chính sách cụ thể ở cấp địa phương hỗ trợ thanh niên khởi sự kinh doanh) và nông thôn (Hải Dương, Bắc Giang, Nghệ An, Bình Định, Đồng Tháp, Bến Tre – là các địa phương có đông thanh niên nông thôn, tiêu biểu cho các vùng kinh tế, thổ nhưỡng của vùng đồng bằng sông Hồng, trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, duyên hải Nam Trung bộ, đồng bằng sông Tiền và đồng bằng sông Hậu; đây cũng là những địa phương mà hoạt động khởi sự kinh doanh của thanh niên trong thời gian qua diễn ra khá sôi động) để đảm bảo tính đại diện vùng, miền, đô thị, nông thôn; tương đương 9 tỉnh, thành phố ở 3 miền Bắc, Trung, Nam.
– Về thời gian: Luận án nghiên cứu về dự định KSKD của TNVN từ năm 2011 cho đến năm 2018. Dữ liệu sơ cấp thông qua điều tra được thu thập trong năm 2018 và xử lý trong năm 2019, dữ liệu thứ cấp được thu thập trong khoảng thời gian từ 2011- 2018.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để trả lời các câu hỏi nghiên cứu, Luận án sử dụng kết hợp cả hai phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng; và theo quy trình cơ bản gồm 2 bước chính là nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu chính thức, trong đó:
– Nghiên cứu sơ bộ bằng tổng quan tài liệu và phỏng vấn ý kiến chuyên gia để từ đó đề xuất mô hình nghiên cứu và thang đo, tiếp đến tiến hành khảo sát thử để hoàn thiện phiếu điều tra;
– Nghiên cứu chính thức thông qua điều tra bằng bảng hỏi và xử lý dữ liệu để tiến hành kiểm định đối với các giả thuyết nghiên cứu đã được đề xuất trong mô hình nghiên cứu.
5. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được kết cấu gồm 5 chương gồm:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về khởi sự kinh doanh và chính sách thúc đẩy khởi sự kinh doanh. Chương này tập trung vào tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến khởi sự kinh doanh. Ngoài ra, Chương 1 cũng tổng quan các nghiên cứu liên quan đến các chính sách thúc đẩy khởi sự kinh doanh ở Việt Nam. Trên cơ sở đó nghiên cứu đã chỉ ra khoảng trống của nghiên cứu đã thực hiện và làm cơ sở để thực hiện nghiên cứu này.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết về dự định khởi sự kinh doanh và các yếu tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh. Chương 2 chủ yếu phân tích lý thuyết cơ bản và phân tích các nghiên cứu về các nhân tố tác động đến dự định khởi sự kinh doanh. Trên cơ sở đó đề xuất mô hình và các giả thuyết nghiên cứu.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu. Chương này tập trung vào thiết kế nghiên cứu, gồm các nội dung về quy trình nghiên cứu, các bước thiết kế điều tra, xây dựng thang đo các nhân tố ảnh hưởng đến dự định KSKD của thanh niên và phân tích số liệu khảo sát.
Chương 4: Phân tích các yếu tố tác động đến thực trạng dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam. Chương 4 tập trung phân tích thực trạng và các nhân tố tác động đến khởi sự kinh doanh của Thanh niên từ kết quả khảo sát qui mô lớn trên 9 tỉnh đại diện ba Miền ở Việt Nam. Một số giải thiết được ủng hộ, nhưng một số khác thì chưa được ủng hộ từ kết quả của nghiên cứu này.
Chương 5: Bàn luận về kết quả nghiên cứu và đề xuất giải pháp thúc đẩy thanh niên Việt Nam khởi sự kinh doanh.
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ……………………………………………………………………………………………..i MỤC LỤC ……………………………………………………………………………………………………… ii DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT …………………………………………………………………………….v DANH MỤC BẢNG, BIỂU, HÌNH…………………………………………………………………..vi DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ……………………………………………………………….. viii MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………………………………….1
1. Sự cần thiết của nghiên cứu ………………………………………………………………………..1
2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu …………………………………………………2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ……………………………………………………………….4
4. Phương pháp nghiên cứu ……………………………………………………………………………4
5. Kết cấu của luận án…………………………………………………………………………………….5
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ KHỞI SỰ KINH DOANH VÀ CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY KHỞI SỰ KINH DOANH …………………………………….6
1.1. Tổng quan nghiên cứu về khởi sự kinh doanh và các yếu tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh ……………………………………………………………………………6
1.1.1. Các nghiên cứu ngoài nước…………………………………………………………………….6
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước …………………………………………………………………..12
1.2. Tổng quan nghiên cứu về chính sách thúc đẩy khởi sự kinh doanh ………….14
1.2.1. Hướng nghiên cứu về cơ chế, chính sách thúc đẩy KSKD ở Việt Nam ………14
1.2.2. Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng chính sách thúc đẩy khởi sự kinh doanh ….17
1.3. Khoảng trống nghiên cứu……………………………………………………………………….23
CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ DỰ ĐỊNH KHỞI SỰ KINH DOANH VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN DỰ ĐỊNH KHỞI SỰ KINH DOANH ……….27
2.1 Các khái niệm liên quan đến khởi sự kinh doanh của thanh niên ……………..27
2.1.1 Thanh niên…………………………………………………………………………………………..27
2.1.2 Khởi sự kinh doanh và dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên…………….28
2.1.3 Vai trò khởi sự kinh doanh của thanh niên ………………………………………………33
2.2 Các lý thuyết cơ bản liên quan đến dự định và khởi sự kinh doanh ………….35
2.2.1. Lý thuyết hành động hợp lí (Theory of Reasoned Action – TRA)………………35
2.2.2 Lý thuyết hành vi có kế hoạch (Theory of Planned Behavior – TPB) ………….36
2.2.3 Lý thuyết sự kiện khởi sự kinh doanh (The Entrepreneurial Event – SEE) …..39
2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh …………………………42
2.3.1 Nhóm các nhân tố thuộc bản thân thanh niên …………………………………………..42
2.3.2 Nhóm các nhân tố từ môi trường bên ngoài……………………………………………..49
iii
2.4. Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết …………………………………………………….54
2.4.1 Mô hình nghiên cứu ……………………………………………………………………………..54
2.4.2 Giả thuyết nghiên cứu …………………………………………………………………………..55
CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU………………………………………………57
3.1. Quy trình nghiên cứu……………………………………………………………………………..57
3.2 Phát triển thang đo và phiếu điều tra ………………………………………………………58
3.2.1. Thang đo Dự định khởi sự kinh doanh …………………………………………………..58
3.2.2. Thang đo Thái độ đối với tiền bạc …………………………………………………………58
3.2.3. Thang đo Thái độ đối với khởi sự kinh doanh …………………………………………59
3.2.4. Thang đo chuẩn mực chủ quan ……………………………………………………………..59
3.2.5. Thang đo Nhận thức kiểm soát hành vi ………………………………………………….60
3.2.6. Thang đo Giáo dục khởi sự kinh doanh ………………………………………………….60
3.2.7. Thang đo Kinh nghiệm khởi sự kinh doanh…………………………………………….60
3.2.8. Thang đo Chính sách hỗ trợ của Chính phủ đối với khởi sự kinh doanh …….61
3.2.9. Thang đo Nhu cầu thành tích ………………………………………………………………..62
3.3 Điều tra sơ bộ …………………………………………………………………………………………63
3.4 Nghiên cứu chính thức…………………………………………………………………………….63
3.4.1. Thiết kế phiếu điều tra………………………………………………………………………….64
3.4.2. Xác định mẫu điều tra ………………………………………………………………………….65
3.4.3 Phân tích dữ liệu………………………………………………………………………………….67
CHƯƠNG 4 PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỰC TRẠNG DỰ ĐỊNH KHỞI SỰ KINH DOANH CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM……………………73
4.1 Thực trạng khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam ………………………..73
4.2 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khởi sự kinh doanh của thanh niên
Việt Nam ……………………………………………………………………………………………………..79
4.2.1 Đặc điểm của mẫu nghiên cứu ……………………………………………………………….79
4.2.2 Kiểm định thang đo………………………………………………………………………………81
4.2.3 Phân tích thống kê mô tả các thang đo trong mô hình……………………………….89
4.2.4. Phân tích sự khác biệt về dự định khởi sự kinh doanh theo một số đặc điểm cơ bản của thanh niên Việt Nam …………………………………………………………………….93
4.2.5 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam ……………………………………………………………………………………………100
CHƯƠNG 5 BÀN LUẬN VỀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY THANH NIÊN VIỆT NAM KHỞI SỰ KINH DOANH …..114
5.1. Bình luận kết quả nghiên cứu ……………………………………………………………….114
5.1.1 Các giả thuyết chưa được khẳng định ……………………………………………………114
iv
5.1.2 Các giả thuyết được ủng hộ………………………………………………………………….118
5.2. Đề xuất các giải pháp thúc đẩy thanh niên Việt Nam khởi sự kinh doanh 121
5.2.1 Nâng cao nhận thức, thái độ của thanh niên về KSKD, hình thành thái độ tích cực của TNVN đối với hoạt động KSKD, giúp thanh niên nuôi dưỡng và phát triển ý định KSKD……………………………………………………………………………………………..122
5.2.2 Nâng cao nhận thức kiểm soát hành vi của TNVN………………………………….125
5.2.3 Quan tâm, đầu tư vào hoạt động giáo dục KSKD cho thanh niên, phát triển mô hình giáo dục khởi nghiệp từ trong hệ thống giáo dục phổ thông. …………………….126
5.2.4 Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách thúc đẩy KSKD phù hợp với sự phát triển của thị trường và nhu cầu hỗ trợ của các đối tường thanh niên tham gia KSKD.
…………………………………………………………………………………………………………………127
5.3 Một số đóng góp và hạn chế của nghiên cứu …………………………………………..130
5.3.1 Những đóng góp mới của luận án …………………………………………………………130
5.3.2 Những hạn chế của luận án ………………………………………………………………….131
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………………….132
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN ……………………………………………………………………………………………135
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………………..136
PHỤ LỤC …………………………………………………………………………………………………….149
v
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Ý nghĩa
1 CFA Phân tích nhân tố khám phá
2 DN Doanh nghiệp
3 DNNN Doanh nghiệp nhà nước
4 DNTN Doanh nghiệp tư nhân
5 DNKN Doanh nghiệp khởi nghiệp
6 DNVVN Doanh nghiệp vừa và nhỏ
7 DDK Dự định khởi sự kinh doanh
8 ĐMST Đổi mới sáng tạo
9 EFA Phân tích nhân tố ảnh hưởng
10 KD Kinh doanh
11 KSKD Khởi sự kinh doanh
12 GDP Tổng sản phẩm quốc nội
13 GEM Hiệp hội khởi nghiệp toàn cầu
14 OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
15 R&D Nghiên cứu và phát triển
16 TNVN Thanh niên Việt Nam
17 TNCS Thanh niên Cộng sản
18 UNFPA Quỹ dân số Liên hợp quốc
vi
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, HÌNH
Bảng 2.1: Tổng hợp nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến dự định KSKD ………..52
Bảng 2.2: Các giả thuyết nghiên cứu ……………………………………………………………….55
Bảng 3.1: Giải thích Giá trị Hệ số Alpha của Cronbach……………………………………..68
Bảng 4.1: Mức độ sẵn sàng khởi nghiệp của Việt Nam ……………………………………..78
Bảng 4.2. Đặc trưng của mẫu khảo sát …………………………………………………………….79
Bảng 4.3. Kết quả phân tích độ tin cậy của thang đo “Dự định khởi sự kinh doanh – DDK” dựa vào Cronbach’s Alpha…………………………………………………….81
Bảng 4.4. Tổng hợp kết quả phân tích độ tin cậy thang đo các nhân tố trong mô hình.82
Bảng 4.5. Kiểm định KMO và Bartlett’s Test của biến phụ thuộc DDK ………………83
Bảng 4.6. Kiểm định KMO và Bartlett’s Test của các biến độc lập……………………..83
Bảng 4.7. Ma trận nhân tố xoay cho tất cả các biến quan sát ………………………………85
Bảng 4.8. Bảng ma trận nhân tố đã xoay ………………………………………………………….87
Bảng 4.9. Kết quả tính Độ tin cậy tổng hợp và Tổng phương sai trích …………………89
Bảng 4.10. Tổng hợp kết quả thống kê mô tả các biến quan sát của thang đo yếu tố
trong mô hình nghiên cứu………………………………………………………………..90
Bảng 4.11. Thống kê mô tả với các biến quan sát của thang đo dự định khởi sự kinh doanh (DDK) …………………………………………………………………………………92
Bảng 4.12. Kiểm định sự khác biệt trong dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên theo đặc điểm giới tính ……………………………………………………………………93
Bảng 4.13. Kiểm định sự khác biệt trong dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên theo trạng thái nghề nghiệp ……………………………………………………………..94
Bảng 4.14. Kiểm định sự khác biệt trong dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên theo nhóm trình độ chuyên môn……………………………………………………….95
Bảng 4.15. Kiểm định sự khác biệt trong dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên theo các nhóm kinh nghiệm làm việc………………………………………………..96
Bảng 4.16 Kiểm định sự khác biệt trong dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên theo vùng miền ………………………………………………………………………………98
Bảng 4.17. Kiểm định sự khác biệt trong dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên theo nghề nghiệp của bố, mẹ ……………………………………………………………99
Bảng 4.18. Kết quả ước lượng mô hình SEM (mô hình ban đầu) ………………………..101
Bảng 4.19. Bảng hệ số hồi quy của mô hình SEM điều chỉnh …………………………….102
Bảng 4.20. Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa hai mô hình bất biến và khả biến .104
Bảng 4.21. Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa hai mô hình theo nhóm tình trạng nghề nghiệp …………………………………………………………………………………106
vii
Bảng 4.22. Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa hai mô hình theo nhóm trình độ
chuyên môn …………………………………………………………………………………108
Bảng 4.23. Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa hai mô hình theo các nhóm nghề
nghiệp của bố……………………………………………………………………………….110
Bảng 4.24. Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa hai mô hình theo nhóm nghề nghiệp của mẹ…………………………………………………………………………………………112
viii
Biểu đồ:
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ
Biểu đồ 1.1: Tỉ lệ GDP hàng năm chi cho R&D của một số quốc gia trong OECD …21
Biểu đồ 4.1. So sánh điểm trung bình biến dự định KSKD theo vùng miền ……………97
Biểu đồ 4.2. So sánh đánh giá về giá trung bình biến Dự định KSKD chung của thanh niên theo các nhóm nghề nghiệp của Bố và Mẹ ………………………………..99
Hình vẽ:
Hình 2.1: Thuyết Hành động Hợp lý (Theory of Reasoned Action – TRA) ………….36
Hình 2.2: Thuyết hành vi có kế hoạch (Theeory of Planned Behavior – TPB) ………37
Hình 2.3: Thuyết sự kiện khởi sự kinh doanh (The Entrepreneurial Event – SEE) ..39
Hình 2.4: Mô hình nghiên cứu của Luận án ……………………………………………………..55
Hình 3.1: Khái quát hóa quy trình nghiên cứu ………………………………………………….57
Hình 4.1. Kết quả phân tích mô hình ước lượng chuẩn hóa………………………………..88
Hình 4.2. Kết quả phân tích mô hình SEM đã chuẩn hóa (mô hình ban đầu)………100
Hình 4.3. Kết quả phân tích mô hình SEM (điều chỉnh) đã chuẩn hóa……………….102
Hình 4.4. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến – nhóm nam ………………………………..104
Hình 4.5. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến – nhóm nữ …………………………………..105
Hình 4.6. Kết quả mô hình cấu trúc khả biến với nhóm là sinh viên ………………….106
Hình 4.7. Kết quả mô hình cấu trúc khả biến – nhóm đã đi làm ………………………..107
Hình 4.8. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến – nhóm trung cấp …………………………108
Hình 4.9. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến – nhóm cao đẳng………………………….109
Hình 4.10. Kết quả mô hình bất biến – nhóm trình độ Đại học và sau Đại học ……..109
Hình 4.11. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến – nhóm có bố tự kinh doanh ………….110
Hình 4.12. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến – nhóm có bố làm nhân viên KD trong doanh nghiệp ……………………………………………………………………………….111
Hình 4.13. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến- nhóm có bố hoạt động trong lĩnh vực nghề nghiệp khác ………………………………………………………………………….111
Hình 4.14. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến – nhóm có mẹ tự kinh doanh …………112
Hình 4.15. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến – nhóm có mẹ làm nhân viên hoặc quản lý trong doanh nghiệp……………………………………………………………………113
Hình 4.16. Kết quả mô hình cấu trúc bất biến – nhóm có mẹ hoạt động trong lĩnh vực nghề nghiệp khác ………………………………………………………………………….113
ix
DANH MỤC PHỤ LỤC
Phụ lục 2: Kết quả phân tích độ tin cậy các thang đo bằng hệ số Cronbach’s alpha……….153
Phụ lục 3: Kết quả phân tích EFA với tập biến quan sát………………………………………158
Phụ lục 4: Kết quả phân tích CFA…………………………………………………………………….165
Phụ lục 5: Phân tích Post Hoc Test giữa các nhóm trình độ chuyên môn……………….171
Phụ lục 6: Phân tích Post Hoc Test giữa các nhóm vùng/miền……………………………..171
Phụ lục 7: Phân tích Post Hoc Test giữa các nhóm nghề nghiệp của Bố………………..172
Phụ lục 8: Phân tích Post Hoc Test giữa các nhóm nghề nghiệp của Mẹ ……………….172
Phụ lục 9: Mô hình cấu trúc (SEM) ban đầu ………………………………………………………173
Phụ lục 10: Mô hình SEM điều chỉnh ……………………………………………………………….175
Phụ lục 11: Phân tích mô hình cấu trúc đa nhóm – Theo trạng thái nghề nghiệp…….177
1
1. Sự cần thiết của nghiên cứu
MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam, kinh tế tư nhân ngày càng có vai trò quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước, nhất là trong bối cảnh tái cấu trúc, điều chỉnh phạm vi hoạt động của DNNN. DNTN đóng góp 43,22% GDP và 39% vốn đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế (Cục Phát triển Doanh nghiệp, 2017). Bên cạnh đó, thể chế đối với kinh tế tư nhân ở nước ta đã có những bước phát triển rõ rệt với những văn bản chính sách quan trọng (Nghị quyết 5/NQ-TƯ ngày 1/11/2016, Nghị quyết 10/NQ- TƯ ngày 3/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết 24/2016/ QH14 ngày
8/11/2016 về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, một loại nghị quyết của Chính phủ: 19-2017/NQ-CP ngày 6/2/2017, Nghị quyết 35 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, Nghị quyết 98-2017/NQ-CP ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 10/NQ-TƯ, Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa,…). Đặc biệt, Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Ban chấp hành trung ương Đảng về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đề ra ba mục tiêu: thứ nhất, gia tăng số lượng doanh nghiệp, phấn đấu có 1 triệu doanh nghiệp hoạt động vào năm 2020, 1,5 triệu doanh nghiệp vào năm 2025 và 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030; thứ hai, kinh tế tư nhân đóng góp vào tăng trưởng GDP. Đến năm 2021, khu vực kinh tế này sẽ đóng góp 50 – 60% GDP; thứ ba, tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh.
Khởi sự kinh doanh đã và đang được coi là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia trên thế giới, với nhiều các doanh nghiệp mới được thành lập, cùng với đó là các công việc mới được tạo ra và thu nhập, đời sống của người dân ngày càng tốt hơn (Drucker, 1985; Gorman và cộng sự, 1997). KSKD thường gắn liền với việc tạo ra các doanh nghiệp mới, các sản phẩm/ dịch vụ mới, hoặc quy trình hoạt động mới của một công ty, điều đó phần nào giúp nâng cao năng lực đổi mới, năng lực cạnh tranh và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế ở nhiều quốc gia (Thurik và Wennekers, 2004; Urbano và Aparicio, 2015). Lee và cộng sự (2006) cũng cho rằng tinh thần KSKD được chú trọng ở nhiều quốc gia và được xem là cách thức để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm. Sobel và King (2008) tiếp tục khẳng định KSKD là chìa khóa quan trọng để tăng trưởng kinh tế.
Trước bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng, kỷ nguyên công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra nhiều cơ hội cho sự phát triển
2
nhưng cũng tạo ra không ít thách thức, chính vì vậy quan tâm đến KSKD, hình thành đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam hùng mạnh, xây dựng thương hiệu quốc gia toàn cầu chính là con đường để Việt Nam có thể bắt nhịp và phát triển nhanh, bền vững trong thị trường kinh tế quốc tế sâu rộng và bền vững. Năm 2017, đánh dấu sự tăng trưởng nhanh về số lượng DN thành lập mới với khoảng 126.859 DN. Lũy kế hiện nay có khoảng 688 nghìn DN đang hoạt động (Trần Kim Chung và Tô Ngọc Phan, 2019). Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu gia tăng số lượng doanh nghiệp, phấn đấu có 1 triệu doanh nghiệp hoạt động vào năm 2020, 1,5 triệu doanh nghiệp vào năm 2025 và 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030 thì việc tập trung thúc đẩy khởi sự kinh doanh ở thanh niên (độ tuổi từ 16-30 tuổi – ước tính năm 2018 là 23,3 triệu người, chiếm 24,6% dân số cả nước (Viện Nghiên cứu Thanh niên, 2018)) chính là một trong những hướng đi quan trọng để hoàn thành mục tiêu đó.
Vấn đề đặt ra đối với mục tiêu trên là làm sao để thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp nói chung và với thanh niên nói riêng? Câu trả lời là đa dạng vì có nhiều yếu tố tác động đến việc quyết định thực hiện khởi nghiệp của một cá nhân. Tuy nhiên, một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hành vi đó chính là dự định của cá nhân (Ajen, 2015). Điều này cũng đã được chứng minh ở một số nghiên cứu trong lĩnh vực khởi sự kinh doanh (Krueger & Brazeal, 1994; Krueger và cộng sự, 2000). Không những thế, theo Ajzen (1991) thì về bản chất, KSKD hay lựa chọn nghề nghiệp là kết quả của nhận thức. Hành động KSKD diễn ra nếu một cá nhân có thái độ tích cực, có suy nghĩ, dự định về hành động đó. Một dự định mạnh mẽ sẽ luôn dẫn tới nỗ lực để bắt đầu khởi sự công việc kinh doanh mới, mặc dù việc KSKD có thể nhanh hay chậm lại do điều kiện hoàn cảnh môi trường xung quanh. Do vậy, dự định KSKD có khả năng dự báo chính xác các hành vi KSKD trong tương lai. Nghiên cứu về dự định KSKD có thể phản ánh được hành vi KSKD. Do đó, để thúc đẩy KSKD ở thanh niên thì hướng nghiên cứu các yếu tố tác động tới dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam là phù hợp.
Chính vì vậy, việc lựa chọn đề tài: “Các yếu tố tác động tới dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam” hy vọng sẽ đem lại một số điểm mới cho lý thuyết liên quan đến dự định khởi sự kinh doanh. Đồng thời, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp và khuyến nghị nhằm đẩy mạnh các dự án KSKD của thanh niên ở Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
3
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu cơ bản của Luận án là xác định rõ các yếu tố tác động đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp và khuyến nghị nhằm thúc đẩy của TNVN khởi sự kinh doanh.
2.2. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, Luận án sẽ tìm ra giải đáp cho các câu hỏi nghiên cứu chính yếu sau:
Thứ nhất, nhóm các câu hỏi liên quan đến các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến dự định KSKD của thanh niên:
(1) Thái độ đối với tiền bạc ảnh hưởng như thế nào đến dự định KSKD của TNVN?
(2) Thái độ đối với KSKD của bản thân có ảnh hưởng như thế nào đến dự định
KSKD của TNVN?
(3) Chuẩn mực chủ quan ảnh hưởng như thế nào đến dự định KSKD của TNVN?
(4) Nhận thức kiểm soát hành vi ảnh hưởng như thế nào đến dự định KSKD của
TNVN?
(5) Nhu cầu thành tích ảnh hưởng như thế nào đến dự định KSKD của TNVN?
(6) Kinh nghiệm KSKD của bản thân tác động như thế nào tới dự định KSKD của
TNVN?
(7) Giáo dục khởi sự kinh doanh tác động như thế nào tới dự định KSKD của
TNVN?
(8) Hỗ trợ của chính phủ ảnh hưởng như thế nào đến dự định KSKD của TNVN?
Thứ hai, nhóm các câu hỏi liên quan đến mối quan hệ giữa các nhân tố trong
đo lường ảnh hưởng đến dự định KSKD của thanh niên:
(9) Thái độ có phải là biến trung gian trong mối quan hệ giữa kinh nghiệm về
KSKD và dự định KSKD của TNVN.
(10)Thái độ có phải là biến trung gian trong mối quan hệ giữa giáo dục về
KSKD và dự định KSKD của TNVN.
2.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Tổng quan nghiên cứu và xây dựng cơ sở lý thuyết về các nhân tố ảnh hưởng
đến dự định KSKD của TNVN.
4
– Đo lường mức độ ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của các nhân tố đến dự định KSKD của TNVN.
– Phân tích và đề xuất khuyến nghị, giải pháp thúc đẩy dự định KSKD của
TNVN.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các yếu tố tác động (bản thân, giáo dục
KSKD, môi trường) đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
– Về không gian: Luận án nghiên cứu về dự định KSKD của thanh niên trong độ tuổi từ 18 – 30; tại thành thị (Hà Nội, Đà Nẵng, Tp Hồ Chí Minh – là trung tâm kinh tế của 3 miền Bắc, Trung, Nam; tập trung đông thanh niên sinh sống, làm việc; có hoạt động khởi sự kinh doanh sôi động trong những năm vừa qua, có một số chính sách cụ thể ở cấp địa phương hỗ trợ thanh niên khởi sự kinh doanh) và nông thôn (Hải Dương, Bắc Giang, Nghệ An, Bình Định, Đồng Tháp, Bến Tre – là các địa phương có đông thanh niên nông thôn, tiêu biểu cho các vùng kinh tế, thổ nhưỡng của vùng đồng bằng sông Hồng, trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, duyên hải Nam Trung bộ, đồng bằng sông Tiền và đồng bằng sông Hậu; đây cũng là những địa phương mà hoạt động khởi sự kinh doanh của thanh niên trong thời gian qua diễn ra khá sôi động) để đảm bảo tính đại diện vùng, miền, đô thị, nông thôn; tương đương 9 tỉnh, thành phố ở 3 miền Bắc, Trung, Nam.
– Về thời gian: Luận án nghiên cứu về dự định KSKD của TNVN từ năm 2011 cho đến năm 2018. Dữ liệu sơ cấp thông qua điều tra được thu thập trong năm 2018 và xử lý trong năm 2019, dữ liệu thứ cấp được thu thập trong khoảng thời gian từ 2011-
2018.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để trả lời các câu hỏi nghiên cứu, Luận án sử dụng kết hợp cả hai phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng; và theo quy trình cơ bản gồm 2 bước chính là nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu chính thức, trong đó:
– Nghiên cứu sơ bộ bằng tổng quan tài liệu và phỏng vấn ý kiến chuyên gia để từ đó đề xuất mô hình nghiên cứu và thang đo, tiếp đến tiến hành khảo sát thử để hoàn thiện phiếu điều tra;
5
– Nghiên cứu chính thức thông qua điều tra bằng bảng hỏi và xử lý dữ liệu để tiến hành kiểm định đối với các giả thuyết nghiên cứu đã được đề xuất trong mô hình nghiên cứu.
5. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được kết cấu gồm 5 chương gồm: Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về khởi sự kinh doanh và chính sách thúc đẩy
khởi sự kinh doanh. Chương này tập trung vào tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến khởi sự kinh doanh. Ngoài ra, Chương 1 cũng tổng quan các nghiên cứu liên quan đến các chính sách thúc đẩy khởi sự kinh doanh ở Việt Nam. Trên cơ sở đó nghiên cứu đã chỉ ra khoảng trống của nghiên cứu đã thực hiện và làm cơ sở để thực hiện nghiên cứu này.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết về dự định khởi sự kinh doanh và các yếu tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh. Chương 2 chủ yếu phân tích lý thuyết cơ bản và phân tích các nghiên cứu về các nhân tố tác động đến dự định khởi sự kinh doanh. Trên cơ sở đó đề xuất mô hình và các giả thuyết nghiên cứu.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu. Chương này tập trung vào thiết kế nghiên cứu, gồm các nội dung về quy trình nghiên cứu, các bước thiết kế điều tra, xây dựng thang đo các nhân tố ảnh hưởng đến dự định KSKD của thanh niên và phân tích số liệu khảo sát.
Chương 4: Phân tích các yếu tố tác động đến thực trạng dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam. Chương 4 tập trung phân tích thực trạng và các nhân tố tác động đến khởi sự kinh doanh của Thanh niên từ kết quả khảo sát qui mô lớn trên
9 tỉnh đại diện ba Miền ở Việt Nam. Một số giải thiết được ủng hộ, nhưng một số khác thì chưa được ủng hộ từ kết quả của nghiên cứu này.
Chương 5: Bàn luận về kết quả nghiên cứu và đề xuất giải pháp thúc đẩy thanh niên Việt Nam khởi sự kinh doanh.
6
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ KHỞI SỰ KINH DOANH VÀ CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY KHỞI SỰ KINH DOANH
1.1. Tổng quan nghiên cứu về khởi sự kinh doanh và các yếu tố ảnh hưởng
đến dự định khởi sự kinh doanh
Khởi sự kinh doanh đã và đang trở nên quan trọng và được coi là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia trên thế giới, với nhiều các doanh nghiệp mới được thành lập, cùng với đó là các công việc mới được tạo ra và thu nhập, đời sống của người dân ngày càng tốt hơn (Drucker, 1985; Gorman và cộng sự, 1997). KSKD thường gắn liền với việc tạo ra các doanh nghiệp mới, các sản phẩm/dịch vụ mới, hoặc quy trình hoạt động mới của một công ty, điều đó phần nào giúp nâng cao năng lực đổi mới, năng lực cạnh tranh và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế ở nhiều quốc gia (Thurik và Wennekers, 2004). Abdullah Azhar và cộng sự (2010) tiếp tục khẳng định sự phát triển các hoạt động KSKD góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho xã hội, giảm bớt tỉ lệ thất nghiệp ở nhiều quốc gia. Đồng quan điểm đó, Nafukho và Helen Muyia (2010) chứng minh rằng KSKD là điều sống còn trong việc tạo ra và hoàn thiện một nền kinh tế mạnh khỏe. Cũng chính về thế, hướng nghiên cứu về khởi sự kinh doanh nhận được sự quan tâm của nhiều học giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.
1.1.1. Các nghiên cứu ngoài nước
Nghiên cứu của Lee và cộng sự (2006) cho rằng tinh thần khởi nghiệp được chú trọng ở nhiều quốc gia và được xem là cách thức để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm. Nghiên cứu của Sobel & King (2008) nhận định khởi nghiệp là chìa khóa quan trọng để tăng trưởng kinh tế, chính vì vậy việc thúc đẩy giới trẻ khởi nghiệp là một trong những ưu tiên hàng đầu của các nhà chính sách. Để khơi dậy tinh thần khởi nghiệp thì chương trình giáo dục có tác động hết sức quan trọng. Astebro và cộng sự (2012) cung cấp bằng chứng ở Mỹ cho thấy đào tạo về khởi nghiệp không chỉ là chương trình dành riêng cho sinh viên ngành kinh doanh mà nó còn là chương trình hết sức quan trọng đối với sinh viên thuộc khối khoa học tự nhiên, kỹ thuật và cả trong lĩnh vực nghệ thuật. Rae & Woodier-Harris (2013) cho rằng muốn doanh nghiệp có một nền tảng kiến thức tốt và quản lý doanh nghiệp thành công thì cần phải xây dựng chương trình học khởi nghiệp rộng rãi cho sinh viên, cung cấp cho họ kiến thức cần thiết để khởi nghiệp thành công và định hướng con đường sự nghiệp đúng đắn. Huber và công sự (2014) phân tích hiệu quả của việc giáo dục khởi nghiệp
7
sớm cho các trẻ em tiểu học ở Hà Lan và chứng minh rằng việc đầu tư sớm giáo dục khởi nghiệp cho trẻ em 11 hoặc 12 tuổi mang đến hiệu quả trong việc nâng cao kiến thức, kỹ năng khởi nghiệp. Ở mỗi quốc gia khác nhau đều có những nét đặc trưng riêng về văn hóa, kinh tế, chính trị, vì thế nghiên cứu giáo dục khởi nghiệp dựa trên những nét đặc trưng này sẽ góp phần đóng góp quan trọng cho lý thuyết và thực tiễn giáo dục đại học hướng đến thúc đẩy hoạt động khởi sự kinh doanh.
Một số nghiên cứu của các tác giả nước ngoài khi nghiên cứu về dự định KSKD cho rằng cá nhân với mong muốn tự làm chủ bản thân thường nhận thức được rằng khởi sự kinh doanh là một hướng phát triển nghề nghiệp phù hợp với mình (Daviddson, 1995) và là con đường để theo đuổi ý tưởng, đạt được những mục tiêu cá nhân và thành tựu tài chính của mình (Barringer và Ireland, 2010). Wong và Choo (2009) cũng cho rằng việc bắt đầu một doanh nghiệp không phải là một sự kiện, mà là một quá trình có thể mất nhiều năm suy nghĩ, học hỏi và tạo dựng doanh nghiệp. Một người sẽ không trở thành doanh nhân một cách đột ngột, mà họ sẽ trở thành doanh nhân bởi do ảnh hưởng bởi một số yếu tố và quan trọng nhất chính là dự định KSKD của bản thân người đó (Krueger và các cộng sự, 2000). Dự định về KSKD có thể được coi là bước đầu tiên trong quá trình KSKD (Mazzarol và cộng sự, 1999; Mohammad Ismail và cộng sự, 2009) bởi vì dự định là tiền đề trực tiếp của hành vi (Ajzen, 1991) và hành vi KSKD không được thực hiện một cách vô thức mà là một hoạt động có chủ đích (Henley, 2007). Như vậy, dự định KSKD là tiền đề trực tiếp của hành vi KSKD.
Nhiều tác giả đã tìm hiểu động cơ thúc đẩy thanh niên khởi nghiệp, điển hình như:
Nghiên cứu của Reynolds (1997) cho rằng trình độ học vấn và nhu cầu thành đạt, khả năng chấp nhận rủi ro và có xu hướng đổi mới là những yếu tố quyết định đến việc khởi nghiệp của thanh niên trong độ tuổi 25-40. Hai tác giả Kruerger và Brazeal (1994) chỉ ra tiềm năng khởi sự của cá nhân chính là yếu tố quyết định hành vi khởi sự kinh doanh.
Ajzen (1991) đề cập tới thái độ đối với hành vi ở một mức độ mà cá nhân có đánh giá tiêu cực hay tích cực với hành vi đó. Armitage và Conner (2001) cũng cho rằng, thái độ đối với hành vi phản ánh các đánh giá tích cực hoặc tiêu cực của cá nhân về việc thực hiện một hành vi cụ thể. Ở một góc độ khác, thì Li (2007) định nghĩa trong nghiên cứu của mình về thái độ đối với hành vi như là sự hấp dẫn đối với tự làm chủ. Florin và các đồng nghiệp (2007), tóm tắt từ các kết quả nghiên cứu trước (Gasse,
1985; Robinson và cộng sự, 1991) đã kết luận, thái độ với hành vi có thể được hiểu là khi thái độ của cá nhân tạo thành một mô hình toàn diện và có trật tự cho biết sự thống
8
nhất trong định hướng của người đó đối với hoạt động kinh doanh. Xavier và cộng sự (2009) định nghĩa thái độ đối với hành vi là mức độ mà cá nhân nhận thức rằng có những cơ hội tốt để khởi sự kinh doanh, hoặc có mối liên kết gắn với vị thế xã hội cao của người làm chủ.
Thái độ đối với hành vi KSKD có thể được phát triển và củng cố thông qua các tín hiệu thông tin từ những kinh nghiệm và mô hình mẫu trước đó. Các tín hiệu thông tin bên ngoài (sự sẵn có của các nguồn lực) và bên trong (nhận thức của cá nhân về năng lực và kiến thức nhiệm vụ cụ thể) có thể thúc đẩy sự hiệu quả khởi sự kinh doanh và ngược lại, củng cố thái độ đối với khởi sự kinh doanh (Dell, 2008). Đồng quan điểm đó, Leong (2008) đã tiến hành một nghiên cứu tương tự tại Đại học Mở Malaysia và cho thấy sinh viên càng đánh giá con đường nghề nghiệp tự làm chủ cao bao nhiêu thì dự định trở thành người làm chủ càng cao bấy nhiêu. Như vậy, cá nhân có thái độ tích cực đối với tự làm chủ, xem khởi sự kinh doanh là phù hợp với mục tiêu tổng thể trong cuộc sống của mình và nhìn thấy cơ hội thực hiện hành động khởi sự kinh doanh, thì rất có khả năng cá nhân đó sẽ hình thành dự định khởi sự kinh doanh (Elfving và cộng sự, 2009).
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa thái độ đối với hành vi và dự định khởi sự kinh doanh được nhiều tác giả thực hiện, hầu hết các nghiên cứu đều khẳng định thái độ đối với hành vi của một cá nhân có ảnh hưởng trực tiếp và tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của cá nhân đó (Kolvereid và Tkachev, 1999; Krueger và cộng sự, 2000; Dohse và Walter, 2010; Paco và cộng sự, 2011). Hay như, Indirti và cộng sự (2010) nhận thấy rằng thái độ, hành vi và kiến thức của sinh viên có xu hướng kích thích ý định của họ và sẵn sàng để bắt đầu một doanh nghiệp mới trong tương lai. Tương tự, Ferreira và cộng sự, (2012) đã chỉ ra rằng mong muốn đạt thành tích cao, sự tự tin, thái độ cá nhân ảnh hưởng đến mục đích kinh doanh giữa các học sinh trung học.
Ở khía cạnh cấu thành thái độ, Shariff và Saud (2009) cho rằng thái độ của cá nhân liên quan đến dự định KSKD được tạo bởi các yếu tố thúc đẩy và các yếu tố kìm hãm. Họ nhận thấy rằng, các nhân tố như sự thất vọng do không có nhiều cơ hội, sự suy giảm về tình hình kinh tế và sự không hài lòng là các yếu tố thúc đẩy thái độ của cá nhân liên quan đến dự định KSKD. Trong khi đó, các yếu tố kìm hãm thái độ của cá nhân bao gồm các yếu tố như tâm lý ngại thay đổi, thu nhập từ việc làm, khó khăn về thay đổi việc làm trong xã hội… (Kirkwood, 2009). Một nghiên cứu thú vị khác (Nordin, 2005) về điều tra động lực thúc đẩy doanh nhân nữ cho thấy nguồn tài chính là một yếu tố thúc đẩy để bắt đầu một doanh nghiệp. Ngoài ra, thái độ về tiền bạc và
9
thay đổi của môi trường kinh doanh là những yếu tố quan trọng tác động đến dự định KSKD của sinh viên (Schwarz và cộng sự, 2009). Theo Lim & Teo (2003) thái độ đối với tiền bạc là khi một cá nhân nhìn nhận thu nhập cao sẽ giúp họ có được quyền tự trị, tự do và quyền lực và họ cho rằng thu nhập cao như là thước đo của sự thành công.
Ở chiều cạnh khác, chuẩn mực chủ quan đã được nhiều nhà nghiên cứu tranh luận nhằm tìm ra mối liên quan trong việc dự đoán dự định khởi sự kinh doanh. Một số nhà nghiên cứu cho rằng chuẩn mực chủ quan ảnh hưởng rất ít/ hầu như không có ảnh hưởng đến dự định khởi sự kinh doanh (Autio và cộng sự, (2001); Krueger và cộng sự, 2000; Reynolds và cộng sự, 2004; Linan, 2005; Linan và Chen, 2009) và một số tác giả thì hoàn toàn bỏ qua biến số này khi nghiên cứu về các yếu tố tác động đến dự định khởi sự kinh doanh (Peterman và Kennedy, 2003; Veciana và cộng sự, 2005). Ngược lại, một số khác lại thấy chuẩn mực chủ quan các tác động quan trọng đến dự định KSKD (Kolvereid và Isaksen, 2006; Yordanova và Tarrazon, 2010,…). Kolvereid (1996a) bằng việc điều tra sinh viên chuyên ngành kinh doanh năm thứ nhất của Na Uy đã cho thấy chuẩn mực chủ quan có mối liên hệ quan trọng trực tiếp với dự định tự làm chủ. Kolvereid đã tái hiện lại nghiên cứu của mình vào năm 1999 cùng với Tkachev bằng việc kiểm tra mẫu sinh viên đại học Nga từ các khóa học khác nhau và tìm ra chuẩn mực chủ quan có mối liên hệ tích cực với dự định tự làm chủ (Kolvereid và Tkachev, 1999). Kolvereid và Isaksen (2006) đã nghiên cứu chuẩn mực chủ quan từ những người sáng lập doanh nghiệp Na Uy và tìm thấy chuẩn mực chủ quan có mối liên hệ quan trọng với dự định tự làm chủ. Đồng quan điểm đó, Yordanova và Tarrazon (2010) cũng tìm thấy càng có nhiều chuẩn mực chủ quan khích lệ hành vi khởi sự kinh doanh thì ý định khởi sự kinh doanh của cá nhân đó càng tăng lên.
Kolvereid (1996b); Chen và cộng sự (1998); Kristiansen và Indarti (2004); Basu và Virick (2008); Zaidatol (2009); Ruhle và các cộng sự (2010); Paco và cộng sự (2011) đều cho rằng nhận thức kiểm soát hành vi có ảnh hưởng tích cực tới dự định khởi sự kinh doanh của sinh viên. Trong đó, Kolvereid (1996b); Basu & Virick (2008); Ruhle và cộng sự (2010) khẳng định rằng nhận thức kiểm soát hành vi có mối liên hệ quan trọng với dự định KSKD. Ruhle và cộng sự (2010) sau đó còn chỉ ra rằng tự đánh giá về nhận thức kiểm soát hành vi có ảnh hưởng lớn tới dự định KSKD của sinh viên do mức độ hỗ trợ của nhận thức khả thi có thể khích lệ dự định khởi sự kinh doanh.
Ngoài ra, Elfving và cộng sự (2009); Paco và cộng sự, (2011) đã có sự tranh luận rằng nhận thức kiểm soát hành vi không có tác động trực tiếp và quan trọng với dự định khởi sự kinh doanh. Elfving và cộng sự (2009) sau đó giải thích rằng khi cá
10
nhân có mức nhận thức kiểm soát hành vi cao sẽ tăng cam kết của mình với khởi sự
kinh doanh và dẫn tới động lực mạnh mẽ hơn để khởi sự kinh doanh.
Popescu và Pohoata (2007) cho rằng giáo dục ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi và nhận thức của các cá nhân. Các tác giả như Gasse (1985), Do Paco và Ferreira (2011), Johansen và Schanke (2013) đều cho rằng giáo dục KSKD có ảnh hưởng đến sự lựa chọn (dự định) của những người trẻ về KSKD. Hay như Turker và Selcuk (2009) trong một nghiên cứu tiến hành giữa các sinh viên đại học ở Thổ Nhĩ Kỳ đã kết luận rằng giáo dục về KSKD có tác động tích cực đến dự định KSKD. Nghiên cứu tương tự đã được tiến hành ở Malaysia cho thấy tiếp xúc với giáo dục KSKD thích hợp sẽ ảnh hưởng đến dự định trở thành một doanh nhân của sinh viên (Mumtaz và cộng sự, 2012). Tuy nhiên, cũng có những nghiên cứu không tìm thấy sự liên kết rõ ràng giữa giáo dục kinh doanh và dự định KSKD (Alberti, 1999; Matthews, 1996; Gorman và cộng sự, 1997).
Bên cạnh đó, những nghiên cứu trước đây cho thấy mối liên hệ của giáo dục KSKD với thái độ với KSKD và dự định KSKD (Dell, 2008; Tam, 2009). Giáo dục KSKD và thay đổi thái độ với KSKD có mối liên hệ với nhau. Việc tham gia vào giáo dục KSKD làm tăng thái độ của sinh viên đối với KSKD một cách tích cực; do giáo dục khởi sự kinh doanh cung cấp những kỹ năng và kiến thức của thế giới thực, nên sinh viên cảm thấy việc theo đuổi con đường KSKD là hợp lý. Vì thế, cũng làm tăng dự định KSKD. Điều này dẫn đến một khác biệt rõ rệt về dự định KSKD giữa sinh viên tham gia và sinh viên không tham gia KSKD (Miller và cộng sự 2009; Zain và cộng sự, 2010). Đồng thời, những sinh viên năm cuối có thiên hướng KSKD cao hơn các sinh viên mới vào trường do những kinh nghiệm thực tế và sự cọ xát của họ với thế giới kinh doanh nhiều hơn (Vazquez và cộng sự, 2009; Ahmed và cộng sự, 2010).
Ngược lại, một số nghiên cứu lại có kết quả khác biệt, những sinh viên có quan điểm trở thành người làm chủ sẽ thực tế hơn sau khi tham gia khóa học KSKD, nhận thức của họ đối với KSKD có thể thay đổi và có thể làm giảm đi mối quan tâm hay dự định KSKD (Oosterbeek và cộng sự, 2008).
Sự khác biệt giữa các kết quả nghiên cứu trên có thể được nhìn nhận: giáo dục KSKD có tác động đến dự định KSKD, tuy nhiên mối quan hệ này còn phụ thuộc vào thái độ; nếu giáo dục KSKD tác động tích cực đến thái độ đối với KSKD thì sẽ làm tăng dự định KSKD; ngược lại, nếu giáo dục về KSKD làm giảm thái độ tích cực, thậm chí là tiêu cực đối với KSKD thì sẽ làm giảm dự định KSKD.
11
Các nghiên cứu cũng nhấn mạnh ảnh hưởng của các đặc điểm cá nhân đến dự định KSKD. McClelland (1961) cho rằng cá nhân sở hữu Nhu cầu thành tích mạnh mẽ thường có nhiều khả năng tự giải quyết vấn đề của bản thân, đặt ra mục tiêu thách thức và nỗ lực để đạt mục tiêu bằng những cố gắng của chính mình. Theo Sagie và Elizur (1999), những cá nhân có Nhu cầu thành tích cao thường có khao khát mãnh liệt trở nên thành công và có nhiều khả năng trở thành người làm chủ. Những cá nhân có Nhu cầu thành tích mạnh mẽ sẽ đóng góp nhiều hơn vào những hoạt động khởi sự kinh doanh (Tong và cộng sự, 2011). Họ có năng lực thực hiện những nhiệm vụ thử thách tốt hơn và khám phá ra những cách thức mới để thúc đẩy hành động của mình (Littunen, 2000).
Một số nhà nghiên cứu nhận thấy rằng các kinh nghiệm trước đây về KSKD có thể có ảnh hưởng đến những ý tưởng kinh doanh của cá nhân (Krueger, 1993). Kinh nghiệm trước khi kinh doanh của họ không chỉ giúp phát triển dự định KSKD của cá nhân, mà còn có thể tích lũy kinh nghiệm và kỹ năng cho các hoạt động kinh doanh trong tương lai. Bên cạnh đó, Basu và Virick (2008) cũng chỉ ra rằng kinh nghiệm mở công ty riêng từ trước có mối liên hệ tới sự tự tin và thái độ tích cực với khởi sự kinh doanh của cá nhân. Những cá nhân có kinh nghiệm về thành công thường sẽ tự tin hơn với năng lực của mình và có xu hướng tái hiện hành vi đó nhiều hơn nếu so sánh với những người không có những kinh nghiệm trước đó. Tuy nhiên, Davidsson (1995) thì cho rằng những kinh nghiệm KSKD trước đây có ảnh hưởng không lớn đến kiến thức về kinh doanh của cá nhân và không có ảnh hưởng đáng kể đến thái độ và dự định KSKD của họ.
Marques và cộng sự (2014) cho rằng có mối quan hệ giữa nền tảng gia đình và dự định KSKD, cụ thể nghiên cứu đã chỉ ra các cá nhân trong gia đình sở hữu hoặc có thành viên thuộc gia đình đang điều hành các doanh nghiệp thường có xu hướng cao về dự định KSKD. Kết quả này bước đầu giải thích các tác động của gia đình đối với dự định KSKD của cá nhân chủ yếu từ quan điểm đúc khuôn mẫu và tin rằng cha mẹ đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp kinh doanh của các con. Tuy nhiên, một số nghiên cứu không nghĩ rằng các hành vi của cha mẹ sẽ ảnh hưởng đến dự định KSKD của các con của họ (Churchill và cộng sự, 1987). Con của nhiều doanh nhân đã không trở thành doanh nhân (Krueger và Dickson, 1993).
Stephen và các cộng sự (2005) cũng đồng quan điểm đó khi cho rằng Chính sách hỗ trợ từ Chính phủ đối với KSKD như luật pháp, hỗ trợ của chính phủ…là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động khởi sự. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng yếu tố môi trường kinh doanh là một biến điều chỉnh tác động đến dự định KSKD của
12
cá nhân thông qua tương tác với thái độ của cá nhân (Shapero và Sokol, 1982). Yếu tố môi trường, tuy nhiên, vừa thúc đẩy vừa cản trở đến dự định KSKD của cá nhân (Lüthje và Frank, 2003).
Kết quả của các nghiên cứu trước đã chỉ ra ảnh hưởng của giới tính đối với dự định KSKD. Nói chung, nam giới tham gia nhiều vào kinh doanh hơn phụ nữ, đặc biệt là trong trường hợp các nước đang phát triển (Kelley và cộng sự, 2012). Tình trạng này cũng có thể xảy ra ở một số nước phát triển (Shinnar và Giacomin,2012) những người đàn ông trẻ tuổi thường có xu hướng kinh doanh hơn là phụ nữ trẻ (Chen và Greene, 1998). Kết luận tương tự có thể tìm thấy ở BarNir và Watson (2011) và Shinnar và Giacomin (2012). Theo Becker (1962) trình độ giáo dục của cá nhân có thể ảnh hưởng đáng kể đến khả năng đổi mới. Nó cũng có thể nâng cao kiến thức và kỹ năng cần thiết để phát triển kinh doanh (Schultz, 1961). Như vậy, dự định KSKD của thanh niên, có sự khác biệt đáng kể giữa nam và nữ, giữa các nhóm tuổi và giữa các cấp học.
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu về khởi sự doanh nghiệp còn là một chủ đề thu hút các học giả
Việt Nam trong những năm gần đây.
Đề cập đến vai trò của các nhân tố đến quyết dịnh khởi nghiệp của người trẻ, Lê Quân (2007) đã tìm hiểu tư duy doanh nhân của thanh niên Việt Nam trong từng giai đoạn ra quyết định khởi nghiệp và những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quá trình hình thành, phát triển tư duy doanh nhân của doanh nhân trẻ Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của tác giả cho thấy giai đoạn quyết định khởi nghiệp là một giai đoạn rất quan trọng, đặc biệt với những thanh niên có dự định khởi nghiệp. Để đi đến bước quyết định khởi nghiệp thì họ phải trải qua giai đoạn “yên tĩnh” – thanh niên ít quan tâm đến khởi nghiệp; giai đoạn “chuyển biến tích cực” – sau khi có nhận thức về khởi nghiệp, thanh niên sẽ có những động thái tích cực đề tìm kiếm kiến thức, tích luỹ kinh nghiệm, nguồn lực để khởi nghiệp. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra: Thanh niên sẽ đi đến quyết định khởi nghiệp khi hội tụ đủ ba nhóm yếu tố là phẩm chất cá nhân, khả năng tiếp cận các nguồn lực và cơ hội kinh doanh. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng vai trò của gia đình, bạn bè, nhà trường rất quan trọng với quá trình hình thành và phát triển tư duy doanh nhân trẻ. Tuy nhiên, không phải bạn trẻ nào cũng có thể đi đến bước cuối cùng trong quá trình quyết định khởi nghiệp, chính vì vậy rất cần có sự hỗ trợ từ các phía như cơ quan quản lý nhà nước, cơ sở giáo dục đào tạo, gia đình, bạn bè để định hướng và cung cấp nguồn lực cho họ.
13
Nghiên cứu của (Nguyễn Thu Thủy, 2015) cho rằng các yếu tố như môi trường cảm xúc và các yếu tố thuộc trải nghiệm cá nhân được coi là có ảnh hưởng đến tiềm năng khởi sự doanh nghiệp của thanh niên. Mặt khác các hoạt động định hướng khởi sự kinh doanh trong và ngoài chương trình đào tạo của trường đại học đều tác động tích cực tới hai khía cạnh là tự tin và mong muốn khởi sự kinh doanh của sinh viên đại học ở Việt Nam.
Tác giả Phan Anh Tú và Giang Thị Cẩm Tiên (2015) xác định thứ tự ảnh hưởng theo mức độ quan trọng giảm dần của các nhân tố đến ý định khởi nghiệp của sinh viên bao gồm: (1) Thái độ và sự hiệu quả, (2) giáo dục và thời cơ khởi nghiệp, (3) nguồn vốn, (4) quy chuẩn chủ quan, (5) nhận thức kiểm soát hành vi thuộc trải nghiệm cá nhân tới tiềm năng khởi sự kinh doanh.
Các tác giả Nguyễn Quốc Nghi, Lê Thị Diệu Hiền, Mai Võ Ngọc Thanh (2016) cũng đề xuất mô hình nghiên cứu về ý định khởi sự doanh nghiệp của sinh viên dựa trên 7 yếu tố gồm: thái độ, quy chuẩn chủ quan, giáo dục, kinh nghiệm làm việc, sự đam mê kinh doanh, sự sẵn sàng kinh doanh và nguồn vốn. Kết quả khảo sát 400 sinh viên ngành quản trị kinh doanh tại các trường cao đẳng, đại học trên địa bàn thành phố Cần Thơ tìm thấy 4 yếu tố tác động đến ý định khởi sự doanh nghiệp của sinh viên đó là: Thái độ và sự đam mê, sự sẵn sàng kinh doanh, quy chuẩn chủ quan và nhân tố giáo dục. Trong các yếu tố kể trên, thái độ và sự đam mê là yếu tố then chốt, có ảnh hưởng lớn nhất đến dự định khởi sự doanh nghiệp của sinh viên.
Nguyễn Hải Đăng và cộng sự (2015) lại nhìn nhận trong số các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình khởi nghiệp của thanh niên, bên cạnh các yếu tố chủ quan về bản thân thanh niên, có tác động của các yếu tố khách quan đó chính là chính sách của Nhà nước. Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa phân tích sâu mức độ tác động của từng yếu tố đến quá trình khởi nghiệp của thanh niên nông thôn.
Hoàng Văn Hoa (2010) qua nghiên cứu “Xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020” đã đánh giá vai trò, vị thế, thực trạng đội ngũ doanh nhân và các yếu tố tác động tới sự phát triển đội ngũ doanh nhân sau hơn 20 năm đổi mới, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp cơ bản phát triển đội ngũ doanh nhân giai đoạn 2011-2020. Đề tài đã nhấn mạnh việc xây dựng và phát triển đội ngũ doanh nhân gắn liền với hoạt động hỗ trợ họ từ giai đoạn khởi nghiệp.
Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế về chủ đề “Hệ sinh thái cho Khởi sự kinh doanh xã hội và sáng tạo xã hội” do Đại học Kinh tế quốc dân và Hội đồng Anh đồng tổ chức tháng 3/2016. Tuy không trực tiếp đề cập trực tiếp tới hỗ trợ khởi nghiệp của thanh
14
niên, các bài viết của kỷ yếu đã gợi ý rất nhiều sáng kiến có giá trị liên quan tới việc hỗ trợ và thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp và kinh doanh xã hội như kinh nghiệm hỗ trợ khởi nghiệp xã hội từ các quốc gia trên thế giới như Israel, Anh Quốc, Scotland, Indonesia và Nga (của các tác giả Benjamin Gidron, Richard Hazenber, Aluisius Hery Pratono, Vladimir Vainer, Natalia Gladkikh); các bài viết về phát triển chính sách thuế và chính sách bằng sáng chế hỗ trợ khởi nghiệp xã hội (Nguyễn Hữu Xuyên, Dương Công Doanh và Đỗ Thị Hải Hà; Nguyễn Trọng Hiếu và Nguyễn Hồng Diệp); và các bài viết liên quan tới việc lồng ghép tinh thần kinh doanh xã hội vào trường Đại học (Rahul Singh and Abha Rishi; Do Thi Dong; Nguyen Thu Thuy) với gợi ý trường Đại học và các hoạt động đào tạo là bộ phận quan trọng trong hệ sinh thái hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp.
Gần đây nhất, nghiên cứu của Đoàn Thị Thu Trang (2018) về “Đánh giá những yếu tố ảnh hưởng tới ý định khởi nghiệp của sinh viên Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp sinh viên khối ngành kỹ thuật”. Nghiên cứu sử dụng 06 yếu tố nhận thức cá nhân trên cơ sở Lý thuyết hành vi có kế hoạch của Ajzen (1991), đồng thời bổ sung 01 yếu tố nhận thức cá nhân (cảm nhận về may mắn) trên cơ sở lý thuyết Locus of Control và thực tế tình hình khởi nghiệp ở Việt Nam để phát triển mô hình các yếu tố ảnh hưởng tới ý định khởi nghiệp sáng tạo của sinh viên khối ngành kỹ thuật Việt Nam. Bên cạnh đó, 02 yếu tố môi trường gồm đặc trưng nhân khẩu học và chương trình đào tạo khởi nghiệp được đưa vào mô hình nghiên cứu dưới dạng nhóm biến điều khiển nhằm xem xét sự khác biệt về mức độ tác động của các yếu tố nhận thức cá nhân lên ý định khởi nghiệp của các nhóm sinh viên kỹ thuật khác nhau và so sánh mức độ sẵn sàng khởi nghiệp của các nhóm sinh viên. So với các nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu đề cập tới hình thức khởi nghiệp hay khởi sự doanh nghiệp chung, nghiên cứu này làm rõ bức tranh tổng thể về thực trạng hoạt động khởi nghiệp sáng tạo và tình hình phát triển phong trào khởi nghiệp sáng tạo của sinh viên các đại học kỹ thuật ở Việt Nam hiện nay.
1.2. Tổng quan nghiên cứu về chính sách thúc đẩy khởi sự kinh doanh
1.2.1. Hướng nghiên cứu về cơ chế, chính sách thúc đẩy KSKD ở Việt Nam
Những năm gần đây hoạt động khởi nghiệp ở Việt Nam được nhà nước và xã hội quan tâm. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về khuyến khích tinh thần khởi nghiệp đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho hoạt động KSKD của người trẻ. Tuy nhiên, hệ thống chính sách cho hoạt động khởi nghiệp của thanh niên nói riêng và khởi nghiệp nói chung vẫn còn những mặt hạn chế. Nhận định này phù hợp với kết quả nghiên cứu
15
của một số tác giả trong khi nghiên cứu về vấn đề môi trường, cơ chế, chính sách thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp ở Việt Nam như:
Bích Hạnh (2009) đề cập tới chủ đề thành lập doanh nghiệp và kinh doanh tại Việt Nam (Setting up enterprise and doing business in Vietnam), trong đó, tác giả làm rõ những vấn đề về môi trường đầu tư, pháp luật liên quan đến kinh doanh tại Việt Nam như luật doanh nghiệp, luật cạnh tranh, pháp luật liên quan đến bảo vệ môi trường, pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ, khuyến khích đầu tư, pháp luật về lao động, hợp đồng chuyển giao công nghệ, thuế, báo cáo tài chính. Mặc dù không đề cập tới tới chủ đề hỗ trợ khởi nghiệp, những phân tích của tác giả cũng gợi ý các vấn đề về pháp lý có liên quan tới khởi nghiệp và các yếu tố của môi trường pháp lý cần tính tới để tạo thuận lợi cho người dân/thanh niên khởi nghiệp.
Hồ Sỹ Hùng (2010) đề cập tới chủ đề “Vườn ươm doanh nghiệp” (Business incubator). Đây một cách thức hỗ trợ rất hiệu quả cho các dự án khởi sự doanh nghiệp. Vườn ươm doanh nghiệp là một tổ chức liên kết giữa Trung tâm, viện nghiên cứu, trường đại học, chính quyền và các doanh nghiệp khởi sự (hay các nhóm, cá nhân có ý định thành lập doanh nghiệp). Tổ chức này có mục đích tạo một “lồng ấp”, một môi trường “nuôi dưỡng” các doanh nghiệp khởi sự trong một thời gian nhất định để các đối tượng này có thể vượt qua những khó khăn ban đầu, khẳng định sự tồn tại và phát triển như những doanh nghiệp độc lập. Sự hình thành các doanh nghiệp mới và hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển thông qua hình thức ươm tạo doanh nghiệp dẫn trở thành công cụ phổ biến và hiệu quả ở các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước đã phát triển. Tuy nhiên, ươm tạo doanh nghiệp ở Việt Nam còn tương đối mới cả trong nhận thức và thực tiễn.
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế chủ đề “Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia” do Học viện Tài chính tổ chức năm 2018. Với nội dung nghiên cứu của chủ đề rộng và bao quát, hội thảo đã tập hợp được rất nhiều bài nghiên cứu có chất lượng về các vấn đề trọng tâm của khởi nghiệp – đổi mới, sáng tạo. Trong đó, một số bài viết có giá trị tham khảo cao với đề tài như: The effect of internal and external barriers on Vietnamese students’ entrepreneurial intention của tác giả Dương Công Doanh, bài nghiên cứu dựa trên việc điều tra 437 sinh viên ở Việt Nam và cho ra kết quả nhân tố “Chính sách hỗ trợ” là nhân tố có ảnh hưởng lớn nhất đến ý định khởi sự kinh doanh của sinh viên. Về kinh nghiệm hỗ trợ khởi nghiệp của các quốc gia trên thế giới thì có tác giả Nguyễn Minh Hạnh với bài viết “International experience on education training to promote startups” trình bày về kinh nghiệm đào tạo đối với người khởi sự kinh doanh trẻ của các quốc gia Mỹ, Phần Lan và Israel.
16
Hội thảo cũng tập hợp rất nhiều bài nghiên cứu liên quan đến nội dung hỗ trợ khởi nghiệp đối với các doanh nghiệp Việt nam như “Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam” – Trần Thị PhươngMai, Vũ Việt Ninh và “Chính sách hỗ trợ khởi nghiệp đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ – Thực trạng và giải pháp” – Nguyễn Đoàn Thảo Linh, Nguyễn Thị Thanh. Những nghiên cứu này chủ yếu trình bày và đánh giá thực trạng hỗ trợ đối với các loại hình doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (startup) và doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam trên góc độ quản lý Nhà nước thông qua các tổ chức hỗ trợ kinh doanh (Accelerators); Các quỹ/ nhà đầu tư giai đoạn sơ khởi (Re-seed, seed, investors); Các quỹ nhà đầu tư giai đoạn series A, B; Quỹ/ vườn ươm của Chính phủ (incubators);…. Tuy nhiên, những bài viết liên quan đến thanh niên và hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp còn rất hạn chế, chỉ có duy nhất nghiên cứu “Bàn thêm về việc hình thành quỹ hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp trong các trường đại học” của tác giả Trần Xuân Hải trao đổi về đề xuất chính sách hỗ trợ tài chính ở các trường đại học cho đối tượng sinh viên.
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia chủ đề “Khởi nghiệp và đổi mới trong kinh doanh” do Khoa Quản trị kinh doanh và Khoa Đào tạo quốc tế, trường Đại học Thương mại tổ chức năm 2018. Một trong những chủ đề của Hội thảo là hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp nên có khá nhiều bài viết tập trung vào nội dung này như Vườn ươm doanh nghiệp và các chính sách liên quan đến tạo lập môi trường pháp lý cho các vườn ươm doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay; Hỗ trợ từ gia đình và ý định khởi nghiệp của sinh viên; Thúc đẩy khởi nghiệp thông qua phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp quốc gia; Bàn về chính sách hỗ trợ khởi nghiệp doanh nghiệp của các tác giả Vũ Văn Hùng, Vũ Thị Như Quỳnh, Trần Thị Hoàng Hà Và Đỗ Hạnh Nguyên. Mặc dù các tác giả đã trình bày được thực trạng và giải pháp liên quan hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp tại Việt Nam nhưng phạm vi mới chỉ hướng đến đối tượng là sinh viên hoặc các doanh nghiệp khởi nghiệp nói chung mà không tập trung vào thanh niên.
Bùi Nhật Quang và cộng sự (2018) trong nghiên cứu về “Chính sách khuyến khích khởi nghiệp doanh nghiệp của Việt Nam” đã làm sáng tỏ và cụ thể hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hoạt động khởi nghiệp. Bên cạnh việc tổng kết, đánh giá về các mô hình khởi nghiệp và khả năng vận dụng, nhân rộng các mô hình này ở Việt Nam, nhóm tác giả còn làm rõ về các cơ chế, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về khởi nghiệp, từ đó đề xuất các quan điểm, định hướng, mục tiêu đẩy mạnh khởi nghiệp của doanh nghiệp. Công trình nghiên cứu này có thể coi là tài liệu đầu tiên hệ thống hóa các chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với hoạt động khởi nghiệp ở Việt Nam. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, các tác giả cũng nhấn mạnh sự thiếu
17
hụt về hệ thống chính sách cụ thể hỗ trợ khởi nghiệp hiện nay, chủ yếu chỉ tiếp cận được ở góc độ những chủ trương của Đảng và Nhà nước về khuyến khích tinh thần khởi nghiệp và thúc đẩy khởi nghiệp.
Nghiên cứu “Chính sách hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp” của Nguyễn Anh Tuấn và cộng sự (2018). Kết quả từ nghiên cứu cho thấy, những rào cản trong quá trình khởi nghiệp của thanh niên hiện nay chủ yếu do hạn chế về năng lực bản thân gồm các yếu tố về tri thức, kinh nghiệm và nguồn tài chính. Ngoài ra chính sách hỗ trợ về khởi nghiệp trong thanh niên cũng là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến quá trình khởi nghiệp của thanh niên hiện nay. Có từ 37,7% đến 55,4% ý kiến cho rằng các chính sách hỗ trợ cho hoạt động khởi nghiệp ở Việt Nam hiện nay còn kém hiệu quả. Kết quả mô tả xu hướng đánh giá của thanh niên về mức độ tác động của một số chính sách trong lĩnh vực nghề nghiệp, việc làm cũng cho thấy các chính sách được đánh giá ở mức trung bình thấp. Các chính sách liên quan nhằm hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp chưa được thanh niên đánh giá cao về mức độ triển khai cũng như hiệu quả đạt được, nhất là trong việc đáp ứng nhu cầu khởi nghiệp của thanh niên. Hai nội dung được đánh giá là hạn chế trong việc triển khai chính sách hỗ trợ khởi nghiệp chiếm tỉ lệ cao nhất số người tham gia khảo sát đồng tình đó là: Động lực của chính sách (53%) và hiệu quả triển khai chính sách (51,7%). Các nội dung đánh giá hiện nay “thiếu chính sách” hoặc “chính sách đưa ra chưa cụ thể” chiếm khoảng 43% ý kiến đồng tình.
1.2.2. Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng chính sách thúc đẩy khởi sự kinh doanh
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, sự tham gia của Chính phủ thông qua các chính sách hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động khởi sự kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng, nhất là giai đoạn đầu hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp.
* Kinh nghiệm của Mỹ
Cộng đồng khởi nghiệp của Mỹ ra đời từ sớm, tiêu biểu nhất là Thung lũng Silicon, nơi đã hình thành nên những tập đoàn kinh tế lớn hàng đầu thế giới như Google, Apple, eBay,… Ngoài ra, sự hiện diện của các doanh nghiệp công nghệ lớn, các trường đại học danh tiếng và nguồn đầu tư dồi dào, hệ sinh thái khởi nghiệp ở Thung lũng này đã trở thành hình mẫu cho nhiều quốc gia học tập.
Tinh thần khởi nghiệp ở Mỹ xuất phát từ nền tảng văn hóa kinh doanh lâu đời, tạo nên những đặc trưng khi nhìn nhận về môi trường khởi nghiệp ở Mỹ đó là: (i) vùng đất của cơ hội với việc đề cao năng lực sáng tạo của cá nhân hơn là những mối quan hệ, truyền thống gia đình hay địa vị xã hội; (ii) xã hội chấp nhận rủi ro, thất bại với tinh thần dám chấp nhận thất bại và lạc quan sau thất bại; (iii) xã hội mở và tự do với
18
việc sẵn sàng đón nhận các ý tưởng mới; (iv) chấp nhận rủi ro nghề nghiệp (Bùi Nhật
Quang, 2018:62-63).
Mỹ rất chú trọng đến việc nỗ lực tạo lập một hệ sinh thái khởi nghiệp lý tưởng với sự hài hòa, đồng bộ giữa môi trường kinh tế, pháp luật và môi trường văn hóa-xã hội. Nhờ mạng lưới rộng lớn các quỹ đầu tư mạo hiểm, các nhà đầu tư thiên thần, các nguồn vốn từ cộng đồng và nguồn vốn đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển,… đã giúp cho việc huy động nguồn lực tài chính đa dạng phục vụ khởi nghiệp.
Hệ sinh thái khởi nghiệp ở Mỹ có sự tương tác chặt chẽ, gắn kết giữa các trường đại học danh tiếng, những phòng thí nghiệm, các viện nghiên cứu hàng đầu với khối doanh nghiệp, là môi trường kết nối tri thức, kinh nghiệm giữa đội ngũ sinh viên, giảng viên và tầng lớp doanh nhân.
Chính phủ Mỹ đưa ra nhiều chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, trong đó bao gồm:
Chính sách hỗ trợ tài chính được thực hiện dưới hình thức: chính sách chi tiêu công và hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, các vườn ươm công nghệ và các chương trình tăng tốc khởi nghiệp, chính sách thuế và ưu đãi tài chính dưới nhiều hình thức cho doanh nghiệp khởi nghiệp và các nhà đầu tư;
Chính sách hỗ trợ kỹ thuật được thực hiện qua các hình thức trực tiếp và gián tiếp khác nhau, tháo gỡ những thủ tục về luật pháp, xây dựng cầu nối giữa nhà nước, nhà tư vấn và doanh nhân khởi nghiệp;
Chính sách thu hút vốn đầu tư và nhân tài khởi nghiệp tại Mỹ. Điển hình cho chính sách này là chương trình visa khởi nghiệp với ưu đãi cấp visa tạm thời 2-5 năm cho các doanh nhân có tiềm năng đến Mỹ khởi nghiệp. Đặc biệt, môi trường đầu tư ở Mỹ rất năng động, thân thiện với nhà đầu tư nhất là dịch vụ pháp lý minh bạch, rõ ràng, thủ tục đơn giản, nhanh chóng.
Tại Mỹ, ngoài tham gia dưới vai trò chính sách, Chính phủ Mỹ đã trực tiếp tham gia vào việc đầu tư. Chính phủ Mỹ đã đầu tư 25% tổng số vốn của hai quỹ Huron River Ventures và Michigan Accelerator Fund ngay từ khi mới thành lập, đồng thời chấp nhận giới hạn lợi nhuận của mình ở mức 1,5 lần. Việc này giúp quỹ nhanh chóng được thành lập và đi vào hoạt động.
* Kinh nghiệm của Israel
Israel là một quốc gia nhỏ về diện tích, ít về dân số nhưng được coi là quốc gia có mật độ các DNKN lớn nhất trên thế giới. Quốc gia này cũng là quê hương của các
19
công ty khởi nghiệp thành công như: Houzz, Mobileye, Waze, Wix… Những thành quả này xuất phát từ những chính sách đi đầu trong việc đầu tư và nuôi dưỡng một hệ sinh thái khởi nghiệp thịnh vượng bằng cách phân bổ thời gian và nguồn lực để hỗ trợ hệ sinh thái của Chính phủ Israel. Quốc gia này đầu tư nhiều vào hoạt động nghiên cứu và phát triển để tạo điều kiện cho sự đổi mới, sáng tạo, tiến bộ công nghệ và phát triển văn hóa khởi nghiệp. Israel cũng quản lý các chương trình vườn ươm khởi nghiệp nhằm khuyến khích, hỗ trợ các ý tưởng sáng tạo trở thành sản phẩm thật sự và có thể phổ biến rộng rãi. Mặt khác, tinh thần khởi nghiệp mạnh mẽ và có tính lan tỏa rộng rãi được coi là động lực quan trọng giúp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp ở Israel thành
công.
Từ những năm 1980, Chính phủ Israel đã tích cực khám phá tiềm năng của khu vực tư nhân. Để hỗ trợ các DNKN, Chính phủ Israel đứng ra thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm, đồng thời giao cho tư nhân quản lý hoạt động, bộ phận tư nhân sẽ giám sát và điều phối việc đầu tư các quỹ này. Trong trường hợp hoạt động đầu tư có hiệu quả, tư nhân sẽ mua lại các quỹ đầu tư này còn nếu thua lỗ, nhà nước sẽ gánh phần rủi ro.
Đến cuối thập niên 1990, Chính phủ Israel đã không phải làm gì vì toàn bộ các hoạt động đầu tư mạo hiểm đã được các tổ chức bên ngoài vận hành đầy đủ. Mọi quỹ đầu tư mạo hiểm hiện nay tại Israel đều của tư nhân hoặc của các tổ chức đa quốc gia. Chính phủ không quyết định sẽ đầu tư vào dự án nào và cũng không can thiệp vào hoạt động của các dự án này mà để các cấp quản lý tư nhân quyết định dựa vào nhu cầu của thị trường.
Israel dành nhiều ngân sách cho hoạt động nghiên cứu phát triển (R&D) với khoảng 4,5% GDP, cao hơn so với bình quân 2,2% của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) và các quốc gia có cùng mức GDP trên toàn cầu. Nguồn ngân sách trên được sử dụng chủ yếu để chính phủ chia sẻ các rủi ro về tài chính với những startup.
* Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Tại châu Á, quốc gia điển hình cho sự đầu tư rất lớn của Chính phủ cho hệ sinh thái khởi nghiệp là Hàn Quốc. Chính phủ Hàn Quốc đầu tư 2,91 tỷ USD để phát triển startup. Phần lớn số tiền này sẽ được sử dụng để đầu tư vào các startup thông qua các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân ở các giai đoạn khác nhau; gỡ bỏ một số các loại thuế từ bán cổ phần công ty; cho phép nhà đầu tư miễn giảm thuế (với điều kiện họ tái đầu tư khoản lãi từ bán cổ phần của mình). Điều này cho thấy Hàn Quốc đang chuẩn bị cho các startup của mình một cơ chế dễ dàng huy động vốn ở mọi giai đoạn.
20
Ở giai đoạn vốn mồi và trước sàn KONEX, startup Hàn Quốc có thể huy động vốn từ các quỹ đầu tư mạo hiểm được đồng đầu tư bởi Chính phủ. Các giai đoạn sau, startup có thể lần lượt huy động vốn ở sàn KONEX, KOSDAQ và KOSPI.
Ngoài ra, các cơ chế đồng đầu tư của Chính phủ cũng như miễn giảm thuế thu từ bán cổ phần cũng góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp thường xuyên thực hiện mua bán sáp nhập hơn, qua đó tạo thanh khoản cho các nhà đầu tư thiên thần và quỹ đầu tư mạo hiểm.
Chính Phủ Hàn Quốc từ năm 2005 đã thành lập “Quỹ Mẹ” (Fund of Funds) được quản lý bởi công ty nhà nước KVIC (Korea Venture Investment Corporation). Công ty này quản lý nguồn vốn góp từ 8 cơ quan chính phủ khác nhau và góp vốn vào các quỹ đầu tư mạo hiểm của Hàn Quốc nhằm tạo vốn mồi cho các quỹ đầu tư mạo hiểm này đi kêu gọi thêm vốn đầu tư từ tư nhân.
Tính đến thời điểm năm 2016, 66,6% số quỹ đầu tư mạo hiểm và 81,1% số tiền đầu tư mạo hiểm của Hàn Quốc đều được tạo ra từ các khoản vốn mồi của KVIC vào các quỹ đầu tư.
Ngoài công cụ là KVIC, Chính phủ Hàn Quốc còn sử dụng Ngân hàng phát triển Hàn Quốc (Korea Developemt Bank – KDB) để đầu tư vào các quỹ đầu tư mạo hiểm. Trong giai đoạn 2012 – 2015, có 12,5% số vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm của Hàn Quốc đều xuất phát từ KDB.
Công cụ thứ 3 của Chính phủ Hàn Quốc là Growth Ladder Fund (GLF). Tổ chức này có nhiệm vụ huy động và quản lý vốn từ các ngân hàng quốc doanh của Hàn Quốc để đầu tư vào các quỹ đầu tư mạo hiểm. GLF cũng được quyền đầu tư vào các doanh nghiệp startup ở giai đoạn phát triển và mở rộng.
Công cụ thứ 4 Chính phủ Hàn Quốc sử dụng là việc cho phép các quỹ hưu trí đầu tư tới 10% tổng số tiền của họ vào các quỹ đầu tư mạo hiểm. Với các công cụ này, Hàn Quốc đã tăng tổng số quỹ đầu tư mạo hiểm trong nước từ 54 lên tới 279 quỹ.
Thời gian này cũng là thời gian mà các công ty công nghệ “tỷ đô” của Hàn Quốc được xây dựng như KaKao, Naver, Coupang… Thị trường đầu tư mạo hiểm tại Hàn Quốc bắt đầu cất cánh vào năm 2014. Từ 71 triệu USD đầu tư trong năm 2013, tới năm 2014, số tiền đầu tư mạo hiểm đã tăng lên 949 triệu USD. Sau đó, nó đã đạt mức cao nhất mọi thời đại là 1,8 tỷ USD trong năm 2015.
Các quy định của pháp luật Hàn Quốc đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và hoạt động của các doanh nghiệp khởi nghiệp. Chính phủ tạo hỗ trợ pháp lý tối đa