LA02.254_Tác động của cấu trúc tài chính tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại
Đề tài luận án: Tác động của cấu trúc tài chính tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại.
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng Mã số: 9340201_TC
Nghiên cứu sinh: Đường Thị Thanh HảiĐường Mã NCS: NCS34.061TC S34.061TC
Người hướng dẫn: PGS.TS. Lê Đức Lữ, TS. Hoàng Việt Trungng
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận
(1)Đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực phi tài chính, khi nghiên cứu về cấu trúc tài chính các tác giả thường nghiên cứu cấu trúc vốn bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản nợ: các biến đại diện cho cấu trúc tài chính thường bao gồm hệ số nợ (ngắn hạn, dài hạn), đòn bầy tài chính, hay tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản. Với đặc thù cấu trúc vốn của ngành ngân hàng (không phân chia các khoản nợ phải trả theo thời hạn thanh toán) nên không thể nghiên cứu tách bạch hệ số nợ ngắn hạn và dài hạn. Mặt khác, các nghiên cứu đều chưa hề đề cập đến mối quan hệ giữa cấu trúc tài chính của các ngân hàng thương mại trong mối quan hệ với tài sản, đặc biệt là với phần tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng mà cho vay chính là hoạt động cơ bản và đem lại nguồn thu chủ yếu cho các ngân hàng thương mại. Vì vậy, đây là nghiên cứu đầu tiên nghiên cứu về tác động của cấu trúc tài chính tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. (2)Trong luận án này ngoài các biến như tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng nợ tác giả đã đưa thêm biến tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng dư nợ cho vay và tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng các khoản tiền gửi vào nghiên cứu của mình. (3)Tác động tích cực của đòn bẩy tài chính đến hiệu quả hoạt động kinh doanh là vấn đề được biết đến rộng rãi trong hầu hết các nghiên cứu cho các doanh nghiệp kể cả lĩnh vực tài chính và phi tài chính và được giải thích bằng các lý thuyết M&M và lý thuyết đánh đổi, nhưng với nghiên cứu này thì các lý thuyết trên không giải thích được các kết quả thực nghiệm, nghiên cứu này dựa trên những luận giải của khung lý thuyết trật tự phân hạng giải thích tác động tiêu cực của đòn bẩy tài chính đến hiệu quả hoạt động áp dụng cho trường hợp các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, đây chính là điểm khác biệt so với các nghiên cứu theo cách tiếp cận của lý thuyết đánh đổi và M&M.
Những phát hiện rút ra từ kết quả nghiên cứu
(1)Cấu trúc tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam có tỷ lệ nợ rất cao so với các nhóm ngành khác của nền kinh tế. (2)Các chỉ tiêu phản ánh cấu trúc tài chính đều có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại, điểm đặc biệt của nghiên cứu ở đây là phát hiện tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng dư nợ cho vay và tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tiền gửi của khách hàng có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam: điều này nói lên mức độ cẩn thận của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong việc cho vay và việc đảm bảo an toàn cho các khoản tiền gửi của khách hàng bằng vốn chủ sở hữu.(3) Các nhân tố tác động ngược chiều đến hiệu quả hoạt động như tỷ lệ chi phí trên thu nhập hay tổng tiền gửi của khách.(4)Nhân tố tốc độ tăng trưởng tác động cùng chiều đến hiệu quả hoạt động.
Những đề xuất mới mang tính ứng dụng rút ra từ kết quả nghiên cứu
(1)Đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam: nên tăng quy mô vốn chủ sở hữu nhằm giảm tỷ lệ nợ trong tổng nguồn vốn, sáp nhập một số ngân hàng có quy mô vốn nhỏ hiệu quả hoạt động chưa tốt và các ngân hàng hoạt động tốt có tiềm lực tài chính để tăng quy mô cho các ngân hàng này. (2)Xây dựng một cấu trúc tài chính hợp lý phù hợp với đặc thù từng nhóm ngân hàng: nhóm ngân hàng có quy mô nhỏ hiệu quả kém, nhóm ngân hàng ở mức trung và nhóm ngân hàng quy mô lớn hiệu quả hoạt động tốt. (3)Đối với chính phủ và ngân hàng nhà nước: xây dựng một môi trường thuận lợi cho sự phát triển an toàn và bền vững của các ngân hàng thương mại Việt Nam, đưa ra lộ trình cụ thể để yêu cầu các ngân hàng thương mại đảm bảo hệ số an toàn vốn theo chuẩn Basel II, hỗ trợ thủ tục sáp nhập và hợp nhất giữa các ngân hàng.
LỜI CAM ĐOAN ……………………………………………………………………………………………..i MỤC LỤC ……………………………………………………………………………………………………… ii DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ……………………………………………………………………………iv DANH MỤC BẢNG ………………………………………………………………………………………..vi DANH MỤC HÌNH ………………………………………………………………………………………. vii PHẦN MỞ ĐẦU ………………………………………………………………………………………………1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC
TÀI CHÍNH TỚI HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI ………………………………………………………………………………………………..6
1.1. Tổng quan nghiên cứu về tác động của cấu trúc tài chính tới hiệu quả hoạt
động của các ngân hàng thƣơng mại. ……………………………………………………………..6
1.1.1.Quan điểm về ảnh hƣởng tích cực của cấu trúc tài chính đến hiệu quả hoạt
động của ngân hàng thƣơng mại……………………………………………………………………6
1.1.2. Quan điểm về ảnh hƣởng tiêu cực của cấu trúc tài chính đến hiệu quả hoạt
động của ngân hàng thƣơng mại…………………………………………………………………..10
1.1.3. Trƣờng phái thứ ba: cấu trúc tài chính độc lập với hiệu quả hoạt động của
ngân hàng thƣơng mại. ……………………………………………………………………………….18
1.2. Khoảng trống nghiên cứu………………………………………………………………………21
Kết luận chƣơng 1…………………………………………………………………………………………..23
CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC TÀI CHÍNH TỚI HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 24
2.1.Cấu trúc tài chính trong các ngân hàng thƣơng mại………………………………..24
2.1.1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thƣơng mại ảnh hƣởng
đến cấu trúc tài chính. …………………………………………………………………………………24
2.1.2. Cấu trúc tài chính NHTM ………………………………………………………………….28
2.2. Hiệu quả hoạt động và tác động của cấu trúc tài chính đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại……………………………………………………………………….33
2.2.1. Quan niệm về hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại …………..33
2.2.2. Tác động của cấu trúc tài chính đến hiệu quả hoạt động của các NHTM ….37
Kết luận chƣơng 2…………………………………………………………………………………………..46
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ………………………………………………47
3.1. Giả thuyết nghiên cứu……………………………………………………………………………47
3.2.Mô hình nghiên cứu và các biến đề xuất…………………………………………………51
3.3. Nguồn dữ liệu và phƣơng pháp thu thập dữ liệu …………………………………….53
3.3.1. Nguồn dữ liệu nghiên cứu ………………………………………………………………….53
3.3.2. Phƣơng pháp xử lý dữ liệu………………………………………………………………….56
Kết luận chƣơng 3…………………………………………………………………………………………..58
iii
CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC TÀI CHÍNH TỚI HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM ……………………………………………………………….59
4.1. Khái quát về hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam…………………………59
4.1.1.Sự ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam. …….59
4.1.2. Quy mô tăng trƣởng của hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt Nam. ………60
4.2. Phân tích thực trạng cấu trúc tài chính và hiệu quả hoạt động của các
NHTM Việt Nam. ………………………………………………………………………………………..68
4.2.1.Thực trạng cấu trúc tài chính các NHTM Việt Nam. ………………………………68
4.2.2. Thực trạng hiệu quả hoạt động các NHTM Việt Nam ……………………………81
4.3. Phân tích tác động của cấu trúc tài chính đến hiệu quả hoạt động các
NHTM Việt Nam nghiên cứu. ………………………………………………………………………88
4.3.1.Thống kê mô tả dữ liệu ……………………………………………………………………….88
4.3.2. Ma trận hệ số tƣơng quan …………………………………………………………………..89
4.3.3.Lựa chọn mô hình hồi quy…………………………………………………………………..91
4.4. Kết quả phân tích. ……………………………………………………………………………….104
4.4.1. Tổng hợp kết quả …………………………………………………………………………….104
4.4.2. Tóm tắt các kết quả đạt đƣợc:……………………………………………………………104
Kết luận chƣơng 4…………………………………………………………………………………………110
CHƢƠNG 5: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT ĐỐI VỚI
CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM ………………………………………….111
5.1. Định hƣớng chiến lƣợc phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm
2020…………………………………………………………………………………………………………..111
5.2. Một số giải pháp đề xuất đối với các ngân hàng thƣơng mại …………………113
5.2.1.Về quan điểm chung …………………………………………………………………………113
5.2.2.Một số giải pháp cụ thể……………………………………………………………………..114
5.2.3.Các giải pháp khác……………………………………………………………………………120
5.3. Khuyến nghị đối với chính phủ và ngân hàng nhà nƣớc……………………….121
5.4. Hạn chế của luận án và hƣớng nghiên cứu tiếp theo……………………………..124
5.4.1. Hạn chế của luận án…………………………………………………………………………124
5.4.2.Gợi ý hƣớng nghiên cứu trong tƣơng lai ……………………………………………..126
Kết luận chƣơng 5…………………………………………………………………………………………127
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………………….128
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI …………………………………………………………………………………….130
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………………………………..131
PHỤ LỤC
iv
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu
Diễn giải
Tiếng Việt Tiếng Anh
BCĐKT Bảng cân đối kế toán
BCTN Báo cáo thu nhập
CDE Tổng số tiền gửi của khách Customer deposit
CIN Tỷ lệ chi phí trên thu nhập Cost to income ratio
CTTC Cấu trúc tài chính
CTV Cấu trúc vốn
DN Doanh nghiệp
EQA Cơ cấu tài chính Equity to total Asset
EQD Đòn bầy tài chính Equity to liabilities
EQL Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng
cho vay
Equity to total Loans
EQS Tỷ lệ vốn chủ sỏ hữu trên tổng
tiền gửi
Equity to customer deposit and
Shortterm fundings
FEM Mô hình tác động cố định Fixed Effects Model
GROWTH Tốc độ tăng trƣởng tài sản Asset growth ratio
HQHĐ Hiệu quả hoạt động
KNSL Khả năng sinh lời
LNST Lợi nhuận sau thuế
LTD Tỷ lệ cho vay trên tiền gửi
v
Ký hiệu
Diễn giải
Tiếng Việt Tiếng Anh
NIM Thu nhập từ lãi biên Net interest margin
NC Nghiên cứu
NPL Tỷ lệ nợ xấu Non performing loan
NTT Nguồn tài trợ
NHTM Ngân hàng thƣờng mại
MQH Mối quan hệ
ROA Tỷ suất sinh lời tổng tài sản Return on Assets
ROE Tỷ suất sinh lời vốn chủ sở
hữu
Return on Equity
REM Mô hình tác động ngẫu nhiên Random Effects Model
SGDCK Sàn giao dịch chứng khoán
TTCK Thị trƣờng chứng khoán
TS Tài sản
VCSH Vốn chủ sở hữu
vi
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Cấu trúc nguồn vốn của ngân hàng thƣơng mại và doanh nghiệp…………….30
Bảng 3.1: Tóm tắt các giả thuyết nghiên cứu ……………………………………………………….50
Bảng 3.2: Mô tả các biến trong mô hình ……………………………………………………………..52
Bảng 3.3: Phƣơng trình hồi quy …………………………………………………………………………53
Bảng 3.4: Nhóm ngân hàng nghiên cứu ………………………………………………………………55
Bảng 4.1: Số lƣợng Ngân hàng ở Việt Nam (2008-2016)………………………………………60
Bảng 4.2: Quy mô và tốc độ tăng trƣởng tài sản hệ thống NHTM Việt Nam …………..61
Bảng 4.3: Quy mô và tốc độ tăng trƣởng Vốn tự có hệ thống NHTM Việt Nam………62
Bảng 4.4: Quy mô và tốc độ tăng trƣởng Vốn điều lệ hệ thống NHTM Việt Nam …..63
Bảng 4.5: Sự tăng trƣởng của hệ thống ngân hàng Việt Nam (2008-2016)………………65
Bảng 4.6: Tăng trƣởng các chỉ tiêu hoạt động của toàn hệ thống NHTM ………………..67
Bảng 4.7: Quy mô tổng tài sản và vốn chủ sở hữu của nhóm 19 ngân hàng nghiên cứu so với hệ thống NHTM Việt Nam ………………………………………………………………………69
Bảng 4.8: Quy mô tổng tài sản và vốn chủ sở hữu của nhóm 19 NHTM nghiên cứu ..71
Bảng 4.9: Giá trị của EQA các NHTM nghiên cứu giai đoạn 2008-2016 ………………..72
Bảng 4.10: Giá trị của EQD các NHTM nghiên cứu giai đoạn 2008-2016 ………………74
Bảng 4.11: Giá trị của EQL các NHTM nghiên cứu giai đoạn 2008-2016……………….75
Bảng 4.12: EQS các NHTM nghiên cứu giai đoạn 2008-2016……………………………….77
Bảng 4.13: Thống kê mô tả tỷ lệ EQA, EQD, EQL, EQS giai đoạn 2008-2016 ……….78
Bảng 4.14: EQA,EQD,EQL,EQS trung bình của các NHTM ……………………………….80
Bảng 4.15: ROA của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2008-2016…………………………..82
Bảng 4.16: ROE của các NHTM nghiên cứu giai đoạn 2008-2016…………………………83
Bảng 4.17: Các trƣờng hợp về hiệu quả hoạt động của các NHTM (2008-2016) ……..85
Bảng 4.18: Thống kê mô tả hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam nghiên cứu
(2008 – 2016)…………………………………………………………………………………………………..85
Bảng 4.19: ROA, ROE trung bình của các NHTM VN nghiên cứu ………………………..87
Bảng 4.20: Mô tả các biến nghiên cứu ………………………………………………………………..88
Bảng 4.21: Hệ số tƣơng quan các biến có trong mô hình ………………………………………90
Bảng 4.22: Kết quả mô hình FEM cho ROA ……………………………………………………….92
Bảng 4.23:Kết quả mô hình REM cho ROA………………………………………………………..93
Bảng 4.24: Kết quả hiệu chỉnh cho ROA …………………………………………………………….95
Bảng 4.25 Tổng hợp các kết quả mô hình hồi quy biến phụ thuộc ROA …………………95
Bảng 4.26: Kết quả mô hình FEM cho biến phụ thuộc ROE………………………………….98
Bảng 4.27: Kết quả mô hình REM cho biến phụ thuộc ROE …………………………………99
Bảng 4.28: Kết quả chạy hiệu chỉnh cho biến phụ thuộc ROE ……………………………..101
Bảng 4.29: Tổng hợp các kết quả mô hình hồi quy cho biến phụ thuộc ROE …………101
Bảng 4.30: Tổng hợp kết quả …………………………………………………………………………..104
vii
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: Lợi nhuận kỳ vọng vốn cổ phần trong trƣờng hợp không có thuế thu nhập doanh nghiệp của lý thuyết cấu trúc vốn M&M……………………………………………………38
Hình 2.2: Lợi nhuận kỳ vọng vốn cổ phần trong trƣờng hợp có thuế thu nhập doanh nghiệp của lý thuyết cấu trúc vốn M&M……………………………………………………………..39
Hình 3.1: Mô hình nghiên cứu……………………………………………………………………………51
Hình 4.1: Quy mô và tốc độ tăng trƣởng tài sản hệ thống NHTM Việt Nam……………61
Hình 4.2: Quy mô và tốc độ tăng trƣởng Vốn tự có hệ thống NHTM Việt Nam ………62
Hình 4.3: Quy mô và tốc độ tăng trƣởng Vốn điều lệ hệ thống NHTM Việt Nam …..63
Hình 4.4: Tín dụng đối với nền kinh tế (2008-2016) …………………………………………….66
Hình 4.5: Quy mô tăng trƣởng các chỉ tiêu hoạt động của cả hệ thống. …………………..67
Hình 4.6: Quy mô tổng tài sản và vốn chủ sở hữu của nhóm 19 NHTM nghiên cứu so với hệ thống NHTM Việt Nam…………………………………………………………………………..69
Hình 4.7 Quy mô tổng tài sản và VCSH của nhóm 19 NHTM nghiên cứu………………71
Hình 4.8: Giá trị trung bình EQA của các NHTM nghiên cứu giai đoạn 2008-2016 …73
Hình 4.9: Giá trị trung bình EQD của các NHTM nghiên cứu giai đoạn 2008-2016 …75
Hình 4.10: Giá trị trung bình EQL của các NHTM nghiên cứu giai đoạn 2008-2016………76
Hình 4.11: Giá trị trung bình EQS của các NHTM nghiên cứu giai đoạn 2008-2016..78
Hình 4.12: Tỷ lệ EQA, EQL,EQS,EQD của các NHTM nghiên cứu (2008-2016) …..80
Hình 4.13: Chỉ tiêu EQA, EQD, EQL, EQS trung bình của các NHTM ………………….81
Hình 4.14: ROA của các NHTM nghiên cứu giai đoạn 2008-2016…………………………83
Hình 4.15: ROE của các NHTM nghiên cứu giai đoạn 2008-2016 …………………………84
Hình 4.16: Giá trị ROA và ROE trung bình của các NHTM nghiên cứu (2008-2016)…..86
Hình 4.17: ROA, ROE trung bình của các NHTMNC…………………………………………..88
1
1. Sự cần thiết phải nghiên cứu
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, ngành ngân hàng Việt Nam đã có những bƣớc tiến vƣợt bậc, đột phá cùng với quá trình hội nhập quốc tế. Việc gia nhập WTO, trở thành thành viên của cộng đồng kinh tế ASEAN, tham gia vào Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dƣơng (CPTPP) đã mở ra rất nhiều cơ hội cho ngành ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là việc mở cửa ngành ngân hàng năm 2011 đã đem lại những thay đổi to lớn cho ngành nhƣ :giúp cho các ngân hàng trong nƣớc tiếp nhận các công nghệ NH hiện đại, cơ cấu lại vai trò quản lý trong các ngân hàng thông qua việc tham gia của các đối tác chiến lƣợc nƣớc ngoài, các dịch vụ ngân hàng đƣợc chuyên nghiệp và đa dạng hóa…Đặc biệt đối với các ngân hàng thƣơng mại thì sự cạnh tranh càng đƣợc thể hiện rõ rệt, sức ép cạnh tranh này đến không chỉ từ các ngân hàng thƣơng mại trong nƣớc mà còn đến từ các ngân hàng nƣớc ngoài, các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các định chế tài chính khác. Nhƣng thực tế cho thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng nói chung và các ngân hàng thƣơng mại tại Việt nam nói riêng trong thời gian vừa qua không cao. Theo báo cáo của ngành ngân hàng năm 2016, tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản của toàn hệ thống chỉ đạt 0,58%, trong đó khối các ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc là 0,61%, các ngân hàng thƣơng mại cổ phần chỉ đạt 0,39% và khối các ngân hàng thƣơng mại liên doanh đạt 0,8%. Với đặc thù riêng của ngành ngân hàng là quy mô tổng nguồn vốn lớn trong đó đặc biệt là tỷ trọng nợ trong tổng nguồn vốn cao, điều này dẫn đến việc lựa chọn cấu trúc tài chính nhƣ thế nào cho vừa phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn, vừa đảm bảo đƣợc mức độ rủi ro trong tầm kiểm soát, vừa đem lại hiệu quả hoạt động cao cho các ngân hàng trở thành một vấn đề đặc biệt quan trọng. Trong giai đoạn nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, lãi suất huy động của các ngân hàng cũng phải tăng cao theo đà tăng của lạm phát, vốn huy động đƣợc nhiều, quy mô sử dụng vốn cũng đƣợc gia tăng nhƣng liệu lúc này hiệu quả hoạt động của các ngân hàng có tăng hay không: hay nói cách khác liệu chi phí sinh lời trên tổng tài sản có cao hơn so với chi phí trả lãi không. Và ngƣợc lại, trong vài năm gần đây tỷ lệ lạm phát thấp, lãi suất huy động giảm hay chi phí trả lãi giảm do nguồn vốn huy động giảm nhƣng tỷ suất sinh lời vẫn không cao. Vậy nguyên nhân chính làm cho hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại giảm là do đâu? Quy mô vốn, tỷ lệ nợ có ảnh hƣởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại hay không?
Trong các nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế nói chung có một nhân tố đã đƣợc ngiên cứu trong nhiều công trình nghiên cứu của thế giới đó là cấu trúc tài chính. Cấu trúc tài chính là một trong những khía cạnh quan
2
trọng nhất của quyết định tài chính của một tổ chức kinh tế. Brounen & Eichholtz, (2001) cho rằng quyết định về cấu trúc tài chính hợp lý của một tổ chức kinh tế là một trong những khía cạnh khó hiểu nhất trong tài chính doanh nghiệp hiện đại. Theo Watson và Head, (2007) cấu trúc tài chính của một tổ chức kinh tế bao gồm hỗn hợp của nợ và vốn chủ sở hữu, các quyết định cấu trúc tài chính là rất quan trọng đối với bất kỳ tổ chức kinh tế do thực tế rằng ngƣời quản lý có trách nhiệm đảm bảo rằng lợi ích thu đƣợc cho các cổ đông là tối đa và vì quyết định này có những hiệu quả to lớn đối với khả năng cạnh tranh của các tổ chức. Các quyết định về các tỷ lệ tổng nợ trên vốn đƣợc coi là một chiến lƣợc cho các nhà quản lý, tức là định hƣớng trong tƣơng lai và có tác dụng lâu dài. Quyết định cấu trúc tài chính trực tiếp ảnh hƣởng đến lợi nhuận của các tổ chức, điều này làm cho nó là một quyết định quan trọng và không hề bị xem nhẹ trong tài chính doanh nghiệp. Mặc dù các ngân hàng khác các tổ chức kinh tế khác nhƣng họ vẫn phải đối mặt với những thách thức tƣơng tự nhƣ các lựa chọn cấu trúc tài chính sẽ giảm thiểu chi phí vốn và tăng hiệu quả hoạt động nhƣ trong các tổ chức kinh tế. Mục tiêu chính của ngân hàng là để mang lại lợi nhuận, tuy nhiên, lợi nhuận của ngân hàng là rất quan trọng không chỉ đối với các bên trực tiếp quan tâm (cổ đông, quản lý, nhân viên, khách hàng), mà còn cho toàn bộ nền kinh tế. Vì thế, việc nghiên cứu các quyết định về cấu trúc tài chính có tác động nhƣ thế nào đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng là một vấn đề đƣợc các nhà kinh tế trên thế giới hiện nay đặc biệt quan tâm.
Ở lĩnh vực phi tài chính trên thế giới có rất nhiều các nghiên cứu về các mối quan hệ giữa cấu trúc tài chính và hiệu quả hoạt động còn ở lĩnh vực tài chính các bằng chứng thực nghiệm từ các nghiên cứu về ngân hàng trên thế giới đã có các quan điểm trái ngƣợc nhau: một số nghiên cứu đã tìm thấy một mối quan hệ tiêu cực giữa đòn bẩy và lợi nhuận bẩy trong các ngân hàng nhƣ các nghiên cứu của (Rajan và Zingalas, 1995; Titman và Wessels, 1988) còn Taub (1975) thông qua phân tích hồi quy tìm thấy một mối quan hệ tích cực giữa nợ và lợi nhuận, ngoài ra một nghiên cứu của (Abor, 2005) cũng phát hiện ra một mối quan hệ tích cực mạnh mẽ giữa tổng nợ và lợi nhuận, vì vậy từ kết quả của các nghiên cứu trên cho thấy rằng các cuộc thảo luận về mối quan hệ giữa cấu trúc tài chính và hiệu quả hoạt động vẫn còn đang tiếp tục. Ở Việt Nam, các nghiên cứu về mối quan hệ và tác động giữa cấu trúc tài chính và hiệu quả hoạt động không nhiều, đặc biệt là nghiên cứu về cấu trúc tài chính của các ngân hàng thƣơng mại. Do vậy, việc nghiên cứu tác động của cấu trúc tài chính đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam trong giai đoạn mà các ngân hàng Việt Nam đang trong tiến trình thực hiện đề án tái cơ cấu của chính phủ
3
và ngân hàng nhà nƣớc để hoạt động một cách an toàn và có hiệu quả trở nên cần thiết và đặc biệt có ý nghĩa, chính vì các lý do đó tác giả quyết định nghiên cứu đề tài “Tác động của cấu trúc tài chính tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại”
2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát: nghiên cứu đánh giá tác động của cấu trúc tài chính tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam.
Mục tiêu cụ thể:
– Xây dựng mô hình nghiên cứu đánh giá tác động của cấu trúc tài chính tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam.
– Kiểm định mô hình nghiên cứu đề xuất với dữ liệu thu thập thực tế từ các
ngân hàng thƣơng mại nghiên cứu.
– Đề xuất một số gợi ý đối với các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam.
Từ mục tiêu trên, nghiên cứu hƣớng tới trả lời câu hỏi: cấu trúc tài chính có tác động nhƣ thế nào tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam? Câu hỏi nghiên cứu này đƣợc chi tiết bởi các câu hỏi cụ thể:
– Để đánh giá tác động của cấu trúc tài chính tới hiệu quả hoạt động của các
ngân hàng thƣơng mại Việt Nam sử dụng mô hình nghiên cứu nào?
– Tác động của cấu trúc tài chính tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng
thƣơng mại Việt Nam đƣợc đánh giá thế nào thông qua mô hình nghiên cứu?
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
– Đối tƣợng nghiên cứu:
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là nghiên cứu cấu trúc tài chính của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam và tác động của cấu trúc tài chính tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam.
– Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Nghiên cứu 19 ngân hàng thƣơng mại Việt Nam
+ Về thời gian: Nghiên cứu 19 ngân hàng thƣơng mại Việt Nam trong 9 năm
(2008-2016).
+ Về nội dung:
. Luận án nghiên cứu về cấu trúc vốn, trong cấu trúc vốn luận án tập trung nghiên cứu cấu trúc nguồn vốn của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam .
4
. Luận án nghiên cứu về hiệu quả tài chính, bởi trên thị trƣờng Việt Nam những chỉ tiêu tài chính đáng tin cậy thƣờng có trong các báo cáo tài chính đƣợc kiểm toán phổ biến hơn nhiều các dữ liệu khác về thị trƣờng, về chất lƣợng sản phẩm, dịch vụ, về mức độ hài lòng và lực lƣợng lao động… nên quan điểm về hiệu quả mà tác giả sử dụng trong luận án để đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại là dựa trên tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả tài chính.
. Luận án nghiên cứu về tác động của cấu trúc nguồn vốn đến hiệu quả tài chính tại các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam .
4. Những đóng góp của luận án
Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận
(1) Đây là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam nghiên cứu về tác động của cấu trúc tài chính tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại tại Việt Nam. (2) Với các nghiên cứu trƣớc, khi nghiên cứu về cấu trúc tài chính các tác giả thƣờng nghiên cứu cấu trúc vốn bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản nợ: các biến đại diện cho cấu trúc tài chính thƣờng bao gồm hệ số nợ (ngắn hạn, dài hạn), đòn bầy tài chính, hay tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản. Với đặc thù cấu trúc vốn của ngành ngân hàng (không phân chia các khoản nợ phải trả theo thời hạn thanh toán) nên không thể nghiên cứu tách bạch hệ số nợ ngắn hạn và dài hạn, mặt khác, các nghiên cứu đều chƣa hề đề cập đến mối quan hệ giữa cấu trúc tài chính của các ngân hàng thƣơng mại trong mối quan hệ với tài sản, đặc biệt là với phần tổng dƣ nợ cho vay của các ngân hàng mà cho vay chính là hoạt động cơ bản và đem lại nguồn thu chủ yếu cho các ngân hàng thƣơng mại. Trong luận án này ngoài các biến nhƣ tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng nợ tác giả đã đƣa thêm biến tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng dƣ nợ cho vay và tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng các khoản tiền gửi vào nghiên cứu của mình. (3) Tác động tích cực của đòn bẩy tài chính đến hiệu quả hoạt động kinh doanh là vấn đề đƣợc biết đến rộng rãi trong hầu hết các nghiên cứu cho các doanh nghiệp kể cả lĩnh vực tài chính và phi tài chính và đƣợc giải thích bằng lý thuyết M&M và lý thuyết đánh đổi, nhƣng với nghiên cứu này thì các lý thuyết này không giải thích đƣợc các kết quả thực nghiệm, nghiên cứu này dựa trên những luận giải của khung lý thuyết trật tự phân hạng áp dụng cho trƣờng hợp các ngân hàng thƣơng mại tại Việt Nam.
Những phát hiện rút ra từ kết quả nghiên cứu
(1) Cấu trúc tài chính của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam có tỷ lệ nợ rất cao. (2) Các chỉ tiêu phản ánh cấu trúc tài chính đều có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt
5
động của các ngân hàng thƣơng mại, điểm đặc biệt của nghiên cứu ở đây là phát hiện tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng dƣ nợ cho vay và tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tiền gửi của khách hàng có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam: điều này nói lên mức độ cẩn thận của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam trong việc cho vay và việc đảm bảo an toàn cho các khoản tiền gửi của khách hàng bằng vốn chủ sở hữu. (3) Các nhân tố tác động ngƣợc chiều đến hiệu quả hoạt động nhƣ tỷ lệ chi phí trên thu nhập hay tổng tiền gửi của khách. (4) Nhân tố tốc độ tăng trƣởng tác động cùng chiều đến hiệu quả hoạt động.
Những đề xuất mới mang tính ứng dụng rút ra từ kết quả nghiên cứu
(1)Đối với các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam: nên tăng quy mô vốn chủ sở hữu nhằm giảm tỷ lệ nợ trong tổng nguồn vốn, sáp nhập một số ngân hàng có quy mô vốn nhỏ hiệu quả hoạt động chƣa tốt và các ngân hàng hoạt động tốt có tiềm lực tài chính để tăng quy mô cho các ngân hàng này. (2)Xây dựng một cấu trúc tài chính hợp lý phù hợp với đặc thù từng nhóm ngân hàng: nhóm ngân hàng có quy mô nhỏ hiệu quả kém, nhóm ngân hàng ở mức trung và nhóm ngân hàng quy mô lớn hiệu quả hoạt động tốt. (3) Đối với chính phủ và ngân hàng nhà nƣớc: xây dựng một môi trƣờng thuận lợi cho sự phát triển an toàn và bền vững của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam, đƣa ra lộ trình cụ thể để yêu cầu các ngân hàng thƣơng mại đảm bảo hệ số an toàn vốn theo chuẩn Basel II, hỗ trợ thủ tục sáp nhập và hợp nhất giữa các ngân hàng.
5. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mục lục, danh mục từ ngữ viết tắt, danh mục bảng biểu, hình, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục luận án đƣợc kết cấu thành 5 chƣơng:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về tác động của cấu trúc tài chính tới hiệu quả hoạt
động của các ngân hàng thƣơng mại.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết về tác động của cấu trúc tài chính tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại.
Chương 3: Phƣơng pháp nghiên cứu.
Chương 4:Kết quả nghiên cứu thực nghiệm về tác động của cấu trúc tài chính tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam.
Chương 5: Một số giải pháp và khuyến nghị đề xuất đối với các ngân hàng thƣơng mại
Việt Nam.
6
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CẤU TRÚC TÀI CHÍNH TỚI HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. Tổng quan nghiên cứu về tác động của cấu trúc tài chính tới hiệu quả hoạt
động của các ngân hàng thƣơng mại.
Về cơ bản lý thuyết cấu trúc vốn đƣợc đề xuất bởi Modigliani và Miler (1958) vẫn chƣa có đƣợc dự đoán hợp lý nào cho mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và khả năng sinh lợi. Berger (2002) thông qua việc kiểm lý thuyết chi phí đại diện đã khẳng định mối quan hệ nhân quả giữa cấu trúc vốn và hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thƣơng mại. Trong khi các nghiên cứu khác trong lĩnh vực này cũng chỉ rõ chiều hƣớng tác động của cấu trúc vốn và hiệu quả hoạt động nhƣng có sự không đồng thuận về xu hƣớng tác động. Những khác biệt của các nghiên cứu này đƣợc luận giải bởi cách tiếp cận đối với từng lý thuyết mà nghiên cứu cụ thể đó ủng hộ.
1.1.1.Quan điểm về ảnh hưởng tích cực của cấu trúc tài chính đến hiệu quả hoạt
động của ngân hàng thương mại.
Theo cách tiếp cận vấn đề của lý thuyết đánh đổi, trong điều kiện thị trƣờng không hoàn hảo bởi sự hiện diện của thuế, chi phí phá sản và chi phí khánh kiệt tài chính thì mệnh đề về “sự không liên quan của nợ” đƣợc gỡ bỏ. Modigliani và Miler (1963) cũng đƣa ra đề xuất về việc gia tăng sử sụng nợ để đƣợc hƣởng lợi ích “lá chắn thuế” từ khoản tiền lãi đƣợc khấu trừ, do vậy trong ngân hàng cũng nhƣ trong bất kỳ ngành nào, việc sử dụng nợ có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động kinh doanh .
Trên cơ sở lập luận trên, giả thuyết chính của các nghiên cứu theo cách tiếp cận này là đòn bẩy tài chính cao hơn (hay tỷ lệ vốn chủ sở hữu thấp hơn) trong cấu trúc vốn của các ngân hàng thƣơng mại có liên quan đến hiệu quả hoạt động cao hơn. Ủng hộ cho quan điểm này, một số nghiên cứu đã đƣa ra các kết quả về tác động cùng chiều của cấu trúc vốn tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại nhƣ:
Trong nghiên cứu năm 2002, Berger nghiên cứu về cấu trúc vốn và hiệu quả tài chính của các ngân hàng thƣơng mại Mỹ thông qua việc kiểm định lý thuyết chi phí đại diện. Dữ liệu nghiên cứu đƣợc thực hiện trên mẫu 695 ngân hàng thƣơng mại của Mỹ giai đoạn 1990-1995, và đƣợc kiểm tra lại trên tổng thể 7320 ngân hàng Mỹ giai đoạn này. Kết quả cho thấy: có sự tác động qua lại giữa cấu trúc vốn và hiệu quả tài chính của ngân hàng. Cụ thể, tồn tại mối tƣơng quan nghịch (-) giữa hiệu quả tài chính (ROE) và tỷ lệ vốn chủ sở hữu/Tổng tài sản (ECAP-Financial equity capital divided by
7
gross total assets), hay nói cách khác, có sự tác động qua lại tƣơng hỗ (cùng chiều) giữa ROE và đòn bẩy tài chính của ngân hàng. Ngoài ra, theo nghiên cứu cho thấy, hiệu quả tài chính của ngân hàng còn bị tác động bởi tỷ lệ sở hữu cổ phần của các cổ đông khác nhau (cá nhân, tổ chức…), chỉ số tiền gửi thị trƣờng, độ lệch chuẩn của ROE…
Navapan và Tripe (2003) nghiên cứu chuyên sâu mối quan hệ giữa tỷ lệ an toàn vốn và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của các ngân hàng ở Úc và New Zealand từ năm
1996 đến 2002. Kết quả thực nghiệm cho thấy có mối quan hệ ngƣợc chiều giữa tỷ lệ an toàn vốn và lợi nhuận ở các ngân hàng New Zealand. Còn ở Úc, mối quan hệ giữa tỷ lệ an toàn vốn và ROE không rõ ràng, kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt lớn giữa các ngân hàng lớn và các ngân hàng nhỏ.
Kế thừa nghiên cứu của Berger (2002), Hutchison và Cox (2006) nghiên cứu lĩnh vực ngân hàng của Mỹ, nguồn dữ liệu đƣợc thu thập từ báo cáo CALL hàng quý của Ngân hàng Dự trữ Liên bang trong hai giai đoạn: từ tháng 12/ 1982 – tháng 12/
1989 và từ tháng 12/1996 đến tháng 12/2002. Giả thiết thứ nhất của nghiên cứu là: đòn bẩy tài chính có liên quan tích cực đến tỷ lệ lợi nhuận/vốn chủ sở hữu. Theo Hutchison và Cox để đạt đƣợc lợi nhuận, các công ty cổ phần sử dụng nhiều kỹ thuật và chiến lƣợc khác nhau. Một trong số đó là chiến lƣợc về cấu trúc vốn. Về cơ bản, một công ty có thể áp dụng đòn bẩy tài chính cao hay thấp: với lợi nhuận ròng trên tổng tài sản không thay đổi thì số vốn cổ phần càng lớn, tổng tài sản chia cho tổng vốn chủ sở hữu của cổ đông càng nhỏ thì lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của Mô hình DuPont càng cao. Do đó các ngân hàng có động cơ để giảm thiểu số vốn cổ phần đã đầu tƣ nhằm tối đa hóa lợi tức trên vốn chủ sở hữu. Mặt khác, khi đòn bẩy tài chính cao cùng với đó là rủi ro tài chính tăng cao, phần lớn tài sản của các ngân hàng là vô hình nhƣ nguồn nhân lực, mạng lƣới khách hàng, lợi thế thƣơng mại, sự tích lũy vốn này làm ngân hàng có nguy cơ thua lỗ nếu lâm vào tình trạng khủng hoảng tài chính. Vì vậy, để bảo vệ lợi thế và đảm bảo sức mạnh tài chính, ngân hàng sẽ giảm rủi ro tài chính bằng cách sử dụng đòn bẩy tài chính thấp. Do đó quyết định tài chính đƣợc gắn bó với các hoạt động của ngân hàng. Rủi ro kinh doanh cao hơn liên quan đến ROA cao kết hợp với rủi ro tài chính thấp hơn thông qua đòn bẩy tài chính thấp hơn do có số vốn chủ sở hữu cao hơn. Giả thiết thứ hai của nghiên cứu là: đòn bẩy tài chính có liên quan tiêu cực đến tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản. Thực tế nghiên cứu cho thấy có một mối quan hệ tích cực giữa đòn bẩy tài chính và tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu. Các bằng chứng ủng hộ giả thuyết rằng có một mối quan hệ tích cực giữa vốn chủ sở hữu và ROA, ROE cho mỗi một trong hai khoảng thời gian. Các giai đoạn 1983-1989
8
đã có 87.928 và 1996-2002 có 59.623 quan sát tƣơng ứng. Dữ liệu thô đƣợc sử dụng trong các hàm hồi quy cũng nhƣ hai kỹ thuật thay thế để xử lý tiêu cực và gần bằng 0. Hutchison và Cox đã chứng minh rằng đối với các ngân hàng ở Mỹ, có mối quan hệ tích cực giữa đòn bẩy tài chính và ROE cho cả giai đoạn 1983-1989 và 1996-2002. Tuy nhiên, kết quả rất nhạy cảm với các vấn đề đo lƣờng dữ liệu. Hơn nữa, tỷ lệ đòn bẩy tài chính và ROE dƣờng nhƣ có sự khác biệt giữa hai giai đoạn nghiên cứu.Và khi quan sát ROA một mô hình tƣơng tự nhƣ với ROE thì họ nhận thấy rằng ROA có liên quan nghịch với đòn bẩy tài chính. Tuy kết luận cuối cùng là mối quan hệ giữa vốn chủ sở hữu của ngân hàng và thu nhập là tiêu cực, nhƣng dƣờng nhƣ các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng ở các giai đoạn nghiên cứu khác nhau thì các kết quả cũng khác nhau.
Nghiên cứu của Pratomo và Ismail (2006) đƣa ra giả thuyết về chi phí của của
15 ngân hàng Hồi giáo ở Malaysia trong giai đoạn 1997-2004, theo đó ngân hàng có đòn bẩy cao có xu hƣớng giảm chi phí đại lý. Pratomo và Ismail đặt hiệu quả lợi nhuận của ngân hàng là chỉ số giảm chi phí đại lý và tỷ lệ vốn chủ sở hữu của một ngân hàng nhƣ một chỉ số về đòn bẩy. Pratomo và Ismail đã kiểm tra sự liên kết của hiệu quả lợi nhuận đƣợc đo lƣờng bằng lợi tức trên vốn chủ sở hữu và đòn bẩy tài chính. Cụ thể, đòn bẩy tài chính có tác động tƣơng hỗ (+) đến hiệu quả tài chính của ngân hàng. Kết quả nghiên cứu của các nhân tố khác đến hiệu quả tài chính của ngân hàng: độ lệch chuẩn của ROE (SDROE), chỉ số tiền gửi thị trƣờng (HERF) có tƣơng quan thuận, cho vay (LOAN) có tác động ngƣợc chiều nhƣng không có ý nghĩa thống kê, trong khi đó nhân tố đầu tƣ chứng khoán (SEC) có tác động ngƣợc chiều với hiệu quả tài chính, ở mức ý nghĩa 1% quy mô ngân hàng (SIZE) có tác động ngƣợc chiều với hiệu suất của ngân hàng. Các kết quả nghiên cứu này cho thấy tuy đòn bẩy tài chính có tác động tƣơng hỗ đến hiệu quả tài chính nhƣng dƣờng nhƣ đối với các ngân hàng quy mô lớn thì tác động này lại có xu hƣớng không đƣợc rõ rệt.
Hoffmann (2011) sau khi phân tích lợi nhuận của 11.777 ngân hàng Mỹ, nghiên cứu này tìm cách kiểm tra các yếu tố quyết định lợi nhuận của các ngân hàng Mỹ trong giai đoạn 1995-2007, với tổng số 108.439 quan sát ngân hàng trong các năm. Phân tích thực nghiệm kết hợp các biến cụ thể (nội sinh) và kinh tế vĩ mô (ngoại sinh) thông qua bộ ƣớc lƣợng hệ thống GMM. Các phát hiện thực nghiệm ghi lại mối liên hệ tiêu cực giữa tỷ lệ vốn và khả năng sinh lời, hỗ trợ quan điểm cho rằng các ngân hàng đang hoạt động quá thận trọng và bỏ qua các cơ hội giao dịch có khả năng sinh lợi. Trong nghiên cứu của mình, ông nhấn mạnh rằng khung quy định phức tạp của ngành ngân hàng Hoa Kỳ và các yêu cầu về vốn tối thiểu của nó đã ảnh hƣởng đến các quyết định
9
tài chính về thu nhập của các ngân hàng. Ông lập luận rằng mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và lợi nhuận không đơn điệu. Nhƣng ông tuyên bố rằng nếu mối quan hệ không đơn điệu bị bỏ qua và tập trung vào hiệu quả duy nhất thì mối quan hệ giữa chúng có thể là tiêu cực. Bởi vì sự gia tăng đột ngột của vốn sẽ không đƣợc sử dụng ngay, do đó nó sẽ dẫn đến giảm lợi nhuận. Hơn nữa, nghiên cứu này đã phân tích giai đoạn trƣớc cuộc khủng hoảng ngân hàng năm 2009, khi đó hầu hết các ngân hàng Mỹ đều đƣợc đánh giá cao vào thời điểm đó. Hầu hết trong số đó đã bị phá sản trong hệ thống đánh giá xếp loại S & P. Điều này có nghĩa là các ngân hàng lớn đã hành động không liên quan nhiều đến sự hiểu biết về M&M. Nhƣng chỉ sau cuộc khủng hoảng ngân hàng năm 2009 ở Hoa Kỳ, các hệ thống quy định đã tăng mức dự trữ vốn tối thiểu của các ngân hàng. Ngoài ra, nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ không đơn điệu giữa tỷ lệ vốn và khả năng sinh lời, hỗ trợ các giả thuyết về hiệu quả và giá trị nhƣợng quyền thƣơng mại. Biến phụ thuộc là hiệu quả đo bởi lợi tức trên vốn chủ sở hữu (EFCROE), các biến độc lập đƣợc xác định bởi tỷ lệ vốn (CAP), vốn cổ phần trên tổng tài sản cho ngân hàng i trong kỳ t; kích thƣớc ngân hàng, tập trung thị trƣờng, khả năng cho vay, nhu cầu tiền gửi, chi phí lãi vay, đầu tƣ chứng khoán, rủi ro của ngân hàng, cộng với một loạt các biến kiểm soát nhƣ tỷ lệ chiết khấu của ngân hàng Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ, chỉ số ngân hàng NASDAQ và danh tiếng của ngân hàng, kích thƣớc ngân hàng đƣợc tính bằng logarit tự nhiên của tổng tài sản (SIZE). Chỉ số Herfindahl về mức độ thị trƣờng (HERF) và tỷ lệ tiền gửi thị trƣờng của ngân hàng mỗi năm và cho mỗi tiểu bang (SHAREDEPOSIT). Các kết luận chính của nghiên cứu này là có một mối quan hệ thực nghiệm không đơn điệu giữa khả năng sinh lợi của ngân hàng và tỷ lệ vốn chủ sở hữu của nó. Cụ thể, đối với ngành ngân hàng Mỹ, rủi ro hiệu quả và giả thuyết giá trị nhƣợng quyền thƣơng mại là những yếu tố quan trọng nhất giải thích mối quan hệ giữa lợi nhuận và vốn. Giả thuyết về rủi ro hiệu quả cho rằng các ngân hàng hiệu quả nhất (những ngân hàng có lãi suất cao hơn) sẽ chọn mức vốn thấp; trong khi giả thuyết về giá trị nhƣợng quyền thƣơng mại, các ngân hàng hiệu quả nhất sẽ tìm kiếm các tỷ lệ vốn cao. Theo kinh nghiệm, giả thuyết rủi ro hiệu quả chiếm ƣu thế bất cứ khi nào tỷ lệ vốn thấp hơn 41%. Sau đó, giả thuyết giá trị nhƣợng quyền thƣơng mại có hiệu lực. Nếu bỏ qua mối quan hệ không đơn điệu và chú ý đến quan hệ nhân quả đơn lẻ thì mối quan hệ tiêu cực mạnh mẽ giữa vốn và lợi nhuận trở nên rõ ràng. Nghĩa là: một sự gia tăng bất ngờ về vốn có xu hƣớng dẫn đến giảm lợi nhuận của ngân hàng. Trong thực tế, Berger (1995) chỉ ra rằng mối quan hệ tiêu cực này có một sự hấp dẫn trực quan và phù hợp với mô hình một mình độc lập với thông tin bất đối xứng giữa ngân hàng và các nhà đầu tƣ cá nhân của nó. Tỷ lệ vốn cao hơn có xu hƣớng giảm rủi ro trên vốn chủ sở hữu và do đó làm giảm lợi tức kỳ vọng trên vốn chủ sở hữu mà nhà đầu tƣ tìm
10
kiếm. Nói cách khác, một tỷ lệ vốn cao biểu thị rằng một ngân hàng đang hoạt động quá thận trọng và bỏ qua các cơ hội giao dịch có khả năng sinh lợi. Thứ hai, có sự không cân đối về quy mô trong ngành ngân hàng Mỹ. Chỉ các ngân hàng nhỏ mới có thể tận dụng đƣợc kích thƣớc của chúng. Thực tế là khả năng sinh lời của các ngân hàng này chủ yếu là trung gian tài chính và là kết quả của việc áp dụng và sử dụng hiệu quả công nghệ mới thay vì quy mô danh mục đầu tƣ của họ. Thứ ba, bên cạnh các yếu tố nội sinh giải thích khả năng sinh lời, kết quả cho thấy rằng các yếu tố ngoại sinh xác định hiệu quả trong lợi nhuận của các ngân hàng. Hơn nữa, các vấn đề kinh tế cổ điển của tính không đồng nhất, không thể kiểm soát và tính đồng nhất, thƣờng là những thiếu sót trong loại phân tích chéo và phân đoạn thời gian này, đã đƣợc kiểm soát. Phần mở rộng của nghiên cứu này nằm trong một so sánh xuyên quốc gia và trong phân tích yếu tố quyết định đòn bẩy trong ngành ngân hàng.
Nghiên cứu của Saeed (2013) trong đó đánh giá tác động của cấu trúc vốn đến hiệu suất của các ngân hàng tại Pakistan trong giai đoạn (2007-2011) đã phát hiện một mối quan hệ tƣơng hỗ giữa các yếu tố quyết định cấu trúc vốn và hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng. Mẫu nghiên cứu bao gồm 25 ngân hàng, đƣợc liệt kê tại (KSE) hoặc tại (SBP) ngân hàng nhà nƣớc Pakistan trong giai đoạn 2007- 2011. Các biến độc lập bao gồm nợ dài hạn, nợ ngắn hạn, tổng nợ và các biến kiểm soát bao gồm quy mô doanh nghiệp, tăng trƣởng tài sản và biến phụ thuộc là ROE, ROA và thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS). Kết quả nghiên cứu xác nhận sự phụ thuộc tích cực mạnh mẽ của nợ ngắn hạn trên vốn (STDTC), tổng số nợ trên vốn và quy mô DN (SIZE) đối với tất cả các chỉ số sinh lời (ROA, ROE và EPS). Nhƣng nợ dài hạn trên vốn (LTDTC) lại có mối quan hệ nghịch với ROA, ROE và EPS. Tăng trƣởng tài sản (AG) có tác động tiêu cực không đáng kể đến ROA và ROE, trong khi tác động tiêu cực đáng kể đến EPS.
1.1.2. Quan điểm về ảnh hưởng tiêu cực của cấu trúc tài chính đến hiệu quả hoạt
động của ngân hàng thương mại.
Các nghiên cứu theo hƣớng tiếp cận này chủ yếu dựa trên cơ sở lý thuyết trật tự phân hạng và kết hợp với các giới hạn của lý thuyết ngƣời đại diện cho rằng khi đòn bẩy tài chính cao hơn sẽ làm dòng tiền tự do bị giới hạn mặt khác sẽ làm các nhà quản lý gia tăng việc e ngại rủi ro, cuối cùng các nhà quản trị sẽ quyết định từ bỏ các dự án rủi ro cao tuy khả năng sinh lời cao, vì thế đòn bẩy tài chính cao nhƣng hiệu quả hoạt động không cao do các dự án có dòng tiền thuần dƣơng lớn đã bị từ bỏ. Mặt khác, khi đòn bẩy tài chính cao các chủ nợ đƣợc xem nhƣ là có rủi ro cao hơn các cổ đông, khi đó họ yêu cầu các nhà quản trị phải cắt giảm chi phí cũng nhƣ từ bỏ những dự án có
11
rủi ro cao và lúc này đòn bẩy tài chính cao dẫn đến việc hiệu quả hoạt động suy giảm trong dài hạn.
Trong số các nghiên cứu mà tác giả có thể khảo sát về tác động của cấu trúc tài chính đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại thì phần lớn các nghiên cứu đề cập đến mối quan hệ ngƣợc chiều này.
Kết quả nghiên cứu của Berger (1995) nghiên cứu cho các ngân hàng Mỹ từ năm 1983-1989 kết luận rằng có sự tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) và tỷ lệ tài sản vốn (CAR, tỷ lệ nghịch của đòn bẩy). Mặc dù tác động tích cực của ROE là kết luận trái chiều, tác động của vốn chủ sở hữu đến thu nhập của cổ đông đƣợc giải thích bằng việc giảm chi phí tài chính đối với một khoản nợ không có bảo hiểm khi đòn bẩy tài chính giảm.
Demirguc và Huizinga (2000), nghiên cứu về các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng, tác giả dùng số liệu 80 quốc gia trong 8 năm (1990-
1997), nghiên cứu sử dụng 2 nhóm chỉ số: các chỉ số vi mô nhƣ giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu (tài sản trừ đi nợ) trên tổng tài sản; tổng dƣ nợ trên tổng tài sản; tài sản sinh lãi không phải trả lãi/tiền mặt; tiền gửi thu nhập không lãi tại các ngân hàng khác; tài sản thu nhập ngoài lãi khác trên tổng tài sản… Các chỉ số vĩ mô: GNP/cap; GNP thực trên đầu ngƣời; tốc độ tăng trƣởng hàng năm của GDP thực; lạm phát hàng năm từ giảm phát GDP; Cơ cấu tài chính: tổng TS của các ngân hàng chia cho GDP; tổng tài sản của NHTW chia cho GDP; tín dụng cho khu vực tƣ nhân bằng tiền gửi các ngân hàng chia cho GDP; vốn hóa TTCK chia cho GDP; tổng giá trị của các cổ phiếu đƣợc giao dịch chia cho GDP. Nghiên cứu cho thấy rằng trong các hệ thống tài chính kém phát triển thƣờng các ngân hàng có lợi nhuận cao hơn. Khi hệ thống tài chính phát triển cấu trúc tài chính đƣợc kiểm soát tức là sự phát triển tƣơng đối của các ngân hàng so với thị trƣờng, kết quả hồi quy cho thấy rằng ngân hàng càng phát triển càng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.Thị trƣờng ngân hàng kém phát triển có xu hƣớng thịnh vƣợng với nguồn lực ít ỏi với sự thiếu hiệu quả và hành vi định giá ít cạnh tranh hơn, cũng nhƣ đƣợc lợi nhuận tƣơng đối cao hơn. Do đó phát triển ngân hàng càng lớn hơn càng mang lại sự cạnh tranh gay gắt hơn và lợi nhuận thấp hơn. Nghiên cứu cũng thấy rằng trong các hệ thống tài chính kém phát triển TTCK cải thiện lợi nhuận của ngân hàng, điều này phản ánh sự bổ sung giữa ngân hàng và sự phát triển của TTCK. Cụ thể, phát triển TTCK cải thiện khả năng tài trợ vốn cổ phần cho các DN có thể làm tăng khả năng vay vốn của họ. Hơn nữa, thông tin tốt hơn và dễ dàng hơn có sẵn trên TTCK cũng cho phép các ngân hàng đánh giá tốt hơn rủi ro tín dụng. Điều này có thể dẫn đến sự gia tăng lợi nhuận ngân hàng. Tuy nhiên, ở các mức độ phát triển cao hơn
12
của TTCK, nghiên cứu không còn quan sát thấy những đặc trƣng này này. Nhìn chung, nghiên cứu cho thấy đối với các quốc gia có hệ thống tài chính kém phát triển: việc phát triển tài chính lớn hơn sẽ nâng cao hiệu quả của ngành ngân hàng, có khả năng dẫn đến tăng tăng trƣởng, cả ở cấp độ vi mô và ở cấp độ vĩ mô. Tuy nhiên, nghiên cứu thấy rằng cấu trúc tài chính mỗi ngân hàng không có ảnh hƣởng đáng kể, hay có thể nói độc lập đối với lợi nhuận ngân hàng. Tóm lại, thông qua nhóm chỉ số vi mô nghiên cứu cho thấy hiệu quả kinh doanh của ngân hàng đƣợc đo lƣờng bởi lợi nhuận trƣớc thuế trên tài sản (ROA) bị tác động bởi nhiều yếu tố nhƣ: đặc điểm kinh doanh của ngân hàng, điều kiện kinh tế vĩ mô, quy mô tài sản của ngân hàng, đặc biệt quy mô vốn chủ sở hữu càng lớn sẽ cho thấy sức mạnh của ngân hàng, đồng thời đa dạng hóa đƣợc hoạt động của các ngân hàng và có điều kiện để làm tăng lợi nhuận cho các ngân hàng. Kết quả nghiên cứu này tuy cho thấy quy mô vốn chủ sở hữu của ngân hàng càng lớn thì hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng cao nhƣng quan sát này chỉ thấy đƣợc ở những quốc gia có hệ thống tài chính kém phát triển.
Hortlund (2005) trong nghiên cứu của mình cho rằng kết quả nghiên cứu của Berger (1995) và Demirguc và Huizinga (2000) là khó giải thích vì theo tác giả ROE sẽ tăng tuyến tính với tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu (DER), tác giả cho rằng có khả năng khác là tƣơng quan nghịch giữa đòn bẩy và lợi nhuận có thể phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của những năm 1980 và đầu những năm 1990. Những năm 1980 là một thập kỷ tự do hóa tài chính, và những năm 1990 là thời kỳ hỗn loạn tài chính. Tác giả cho rằng trong một thập kỷ sự khác biệt trong đòn bẩy ngân hàng (ít nhất là ở châu Âu và ở miền Bắc Mỹ) là rất nhỏ. Do đó, tác giả trình bày dữ liệu mới về đòn bẩy và lợi nhuận của các ngân hàng thƣơng mại Thụy Điển từ những năm 1870- 2001 và khám phá các dấu hiệu của mối quan hệ trong dài hạn. Dữ liệu đƣợc lấy từ tóm tắt Báo cáo Ngân hàng (Sammandrag af bankernas uppgifter). Trong nghiên cứu của mình tác giả gặp hai vấn đề gây khó khăn đó là: báo cáo tóm tắt không hiển thị dự trữ bắt buộc cho các ngân hàng, đặc biệt trong giai đoạn 1948, 1919,1968. Thứ hai, thuế suất doanh nghiệp rất đa dạng, từ gần nhƣ bằng 0 trong thế kỷ 19, đến hơn 50% vào những năm
1970…kết quả nghiên cứu cuối cùng cho thấy tồn tại mối quan hệ tích cực giữa tỷ lệ vốn chủ sở hữu và ROE (hay là tỷ lệ đòn bầy và ROE có mối tƣơng quan nghịch) trong giai đoạn 1870-1980 (với ý nghĩa này, nghiên cứu hỗ trợ các kết quả trƣớc đó của Berger, 1995 và Demirgüç & Huizinga, 2000), nhƣng trong những năm 1980 –
1990 thì mối quan hệ này không thật mạnh mẽ và tác giả cho rằng về lâu dài, mối quan hệ tích cực giữa đòn bẩy và lợi nhuận trong ngân hàng cần đƣợc xác nhận lại, nghĩa là
13
trong nghiên cứu của mình Hortlund chỉ thấy đƣợc sự tác động nghịch chiều tại giai
đoạn đầu của nghiên cứu, còn giai đoạn thứ hai thì mối quan hệ này không rõ ràng.
P. Bach (2006) nghiên cứu mối quan hệ giữa cấu trúc tài chính và khả năng sinh lợi của ngân hàng Croatia các dữ liệu về hoạt động kinh doanh của 30 ngân hàng có số liệu đầy đủ từ năm 1999 – 2003 đã đƣợc tập hợp. Mục tiêu của nghiên cứu này là để thiết lập các yếu tố quyết định lợi nhuận ngân hàng Croatia, với sự nhấn mạnh đặc biệt vào các yếu tố môi trƣờng (tổng sản phẩm trong nƣớc, lạm phát, tỷ giá hối đoái) và các yếu tố đó đƣợc cụ thể cho từng ngân hàng (kích thƣớc, chi phí và doanh thu). Các biến hiệu quả ngân hàng đƣợc đo bởi lợi nhuận trên tài sản bình quân (ROAA), lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân (ROAE). Theo tác giả sự tƣơng quan giữa ROAA và ROAE là đáng kể, cả hai chỉ số này đƣợc kết nối thông qua các hệ số nhân vốn chủ sở hữu bình quân EM (tài sản ròng chia cho vốn chủ sở hữu bình quân). Chỉ số này đo đòn bẩy tài chính, và trong cùng một thời điểm nó là thƣớc đo của lợi nhuận và rủi ro. Kể từ đó ROAE có thể đƣợc tính nhƣ một sản phẩm của ROAA và EM hay có thể kết luận rằng ROAE có thể tăng bằng cách tăng lợi nhuận/tài sản hoặc bằng cách tăng đòn bẩy tài chính. Điều quan trọng là phải nhấn mạnh rằng ROAE là rất nhạy cảm với các ROAA, có nghĩa là sự thay đổi nhỏ trong ROAA dẫn đến một sự thay đổi lớn trong ROAE. Các thông số của hai phƣơng trình hồi quy đƣợc ƣớc tính, với các biến phụ thuộc khác nhau ROAA, ROAE và các biến độc lập (tỷ lệ vốn/tài sản, tín dụng /tài sản, tài sản không sinh lợi/tổng tài sản, tổng sản phẩm trong nƣớc bình quân đầu ngƣời, chi phí vận hành/tỷ lệ tài sản, thị phần, tốc độ tăng trƣởng tổng sản phẩm trong nƣớc, tỷ giá bình quân, lạm phát). Kết quả thực nghiệm của mô hình hồi quy cho thấy trong các kỳ quan sát năm 1999 – 2003 lợi nhuận các ngân hàng Croatia phụ thuộc chủ yếu vào đặc điểm cụ thể cho từng ngân hàng. ROAA có liên quan tích cực đến vốn/tài sản và tài sản không sinh lợi/tổng tài sản. ROAE có liên quan tích cực đến tài sản không sinh lợi/tổng tài sản, chi phí vận hành/tỷ lệ tài sản. Các biến kinh tế vĩ mô không có liên quan thống kê với lợi nhuận các ngân hàng, nhƣng cần phải nhấn mạnh rằng nghiên cứu đã đƣợc xử lý với chuỗi thời gian khá ngắn. Nghiên cứu có thể kết luận rằng trong thời gian ngắn và điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định, các ngân hàng có quy mô vốn lớn hay đòn bẩy thấp hơn hoạt động có hiệu quả hơn.
Tiếp tục nghiên cứu năm 1995, Berger et al (2008) đã tiến hành phân tích cấu trúc vốn và lợi nhuận của 666 ngân hàng thƣơng mại niêm yết tại Mỹ trong giai đoạn
1992-2006. Nghiên cứu đã quan sát thấy rằng mặc dù khối lƣợng bất thƣờng của lợi nhuận tích lũy trong thời gian này, các ngân hàng đang tìm kiếm để tăng hơn và nhiều hơn nữa tỷ lệ phần trăm của vốn tự có bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Điều này có
14
nghĩa là lợi nhuận của các ngân hàng cao hơn sẽ đƣợc đáp ứng đƣợc khả năng của mình để tăng vốn tự có do tích lũy. Do đó có một mối quan hệ ngƣợc chiều giữa mức lợi nhuận ngân hàng và các khoản nợ của họ.
Trong một nghiên cứu thực nghiệm khác, Gropp và Heider (2009) phân tích trên 200 ngân hàng ở Mỹ và EU giai đoạn 1991-2004 và lập luận rằng cấu trúc vốn của các ngân hàng khác với các công ty tài chính khác, vì tiền gửi thƣờng không sẵn có cho các công ty, đối với các DN, khoản tiền gửi có thể đƣợc xem nhƣ là khoản nợ ngắn hạn. Các nhà nghiên cứu quan sát thấy hầu hết các ngân hàng đều đang tài trợ tài sản bằng tiền gửi. Nói cách khác, vì khoản tiền gửi là một phần của đòn bẩy, có nghĩa là hầu hết các ngân hàng của EU đều đƣợc đánh giá cao. Sau khi phân tích mối tƣơng quan, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng tỷ suất lợi nhuận và tỷ số đòn bẩy tƣơng quan âm. Tuy nhiên, khi hầu hết các ngân hàng đƣợc đánh giá cao, họ bắt đầu tìm kiếm lý do tại sao các ngân hàng rất cần đòn bẩy nếu đòn bẩy làm giảm lợi nhuận. Sau đó, họ kết luận với câu trả lời rằng việc huy động vốn bằng cách phát hành vốn cổ phần có chi phí cao hơn các khoản nợ, và tâm lý “quá lớn để thất bại” bên cạnh các vấn đề đại diện giữa các nhà quản lý và các cổ đông đã đẩy các ngân hàng có tỷ lệ đòn bẩy cao hơn.
Osborne, Fuertes và Milne (2011) khi mở rộng kết quả nghiên cứu của Berger
(1995) và năm (2008) đã nghiên cứu về các ngân hàng Mỹ, mẫu nghiên cứu bao gồm
15.000 ngân hàng vào đầu giai đoạn mẫu vào năm 1977, giảm xuống dƣới 11.000 vào năm 1995 và khoảng 7000 vào năm 2010. Trong nghiên cứu này, các tác giả đã xem xét lại hiệu quả của vốn đối với khả năng sinh lợi của các ngân hàng Mỹ trong giai đoạn 1977-2010 để đánh giá xem mối quan hệ có khác nhau giữa các ngân hàng hay không, và liệu mối quan hệ có thay đổi theo thời gian hay không. Nghiên cứu tiến hành phân tích trong hai phần: đầu tiên, nghiên cứu thêm dữ liệu từ 1993-2010 để thực hiện phân tích có hệ thống hơn về mối quan hệ trong một khoảng thời gian dài hơn đã đƣợc thực hiện trƣớc đây. Phù hợp với nghiên cứu đó, các tác giả tìm thấy một mối quan hệ tích cực trong những năm 1980 trong cuộc khủng hoảng tiết kiệm và cho vay. Trong phần hai của phân tích, các tác giả đã trình bày kết quả từ một phiên bản cải tiến của mô hình, trong đó không chỉ bao gồm ảnh hƣởng của tỷ lệ vốn mục tiêu dài hạn mà còn cả thặng dƣ hoặc thâm hụt tỷ lệ vốn dài hạn. Nghiên cứu khai thác mặt cắt ngang của mẫu theo cách này cho phép kiểm tra mạnh mẽ hơn giả thuyết rằng vốn ảnh hƣởng đến khả năng sinh lời khác nhau tùy thuộc vào việc các ngân hàng có ở trên hay dƣới mức vốn tối ƣu của chúng. Đặc điểm kỹ thuật cho phép tính không đồng nhất đáng kể của tỷ lệ vốn mục tiêu và trong mô hình lợi nhuận để nắm bắt chính xác liệu các ngân hàng có gần với tỷ lệ vốn tối ƣu của họ hay không. Phân tích thấy rằng trong
15
khi mối quan hệ lâu dài giữa các tỷ lệ vốn và ROA luôn tích cực, thì có những ảnh hƣởng bất đối xứng về độ lệch so với tỷ lệ vốn mục tiêu dài hạn; thâm hụt có xu hƣớng liên quan tích cực với ROA trong tƣơng lai trong khi thặng dƣ có xu hƣớng liên quan chặt chẽ với ROA. Điều này phù hợp với lý thuyết cân đối về cấu trúc vốn và cho thấy rằng trong điều kiện căng thẳng, các ngân hàng có thể cải thiện khả năng sinh lời của họ bằng cách tăng tỷ lệ vốn. Những phát hiện này phần lớn ủng hộ các kết luận của Berger (1995) rằng các ngân hàng trong cuộc khủng hoảng tiết kiệm và cho vay cuối những năm 1980 đã có thể cải thiện khả năng sinh lời của họ bằng cách tăng tỷ lệ vốn của họ. Nghiên cứu nhận thấy rằng điều này đúng đối với các ngân hàng có rủi ro danh mục đầu tƣ cao. Những năm 1990 và đầu những năm 2000, sự không đối xứng không hoàn toàn rõ ràng và có rất ít bằng chứng cho thấy các ngân hàng vốn thấp có thể cải thiện khả năng sinh lời bằng cách tăng tỷ lệ vốn. Các tác giả tiếp tục tìm thấy một mối quan hệ tiêu cực mạnh mẽ đối với các ngân hàng có vốn cao so với tỷ lệ vốn mục tiêu dài hạn của họ. Những kết quả này có ý nghĩa chính sách quan trọng đối với hoạt động của các yêu cầu về vốn. Chi phí của các yêu cầu về vốn phụ thuộc vào nơi chúng đƣợc thiết lập liên quan đến mức vốn mong muốn của chính ngân hàng. Các biến nghiên cứu: ROE (SDROE), tỷ lệ cho vay thƣơng mại và công nghiệp với tổng tài sản (C & I), tỷ lệ đánh đổi phí cho tổng tài sản (CHARGE), tỷ lệ nợ xấu trên tổng tài sản (NPL), tỷ lệ rủi ro trong tài sản (RW), cổ phiếu của ngân hàng của thị trƣờng tiền gửi tại địa phƣơng (BANKSHARE), chỉ số tập trung tại các thị trƣờng địa phƣơng của ngân hàng (HERF), tỷ lệ tiền gửi của ngân hàng trong thị trƣờng (MSA), sự tăng trƣởng của thị trƣờng tiền gửi tại địa phƣơng , tỷ lệ chi phí hoạt động trên tổng tài sản (AC) và chỉ số kích thƣớc (size). Nghiên cứu cho thấy mối quan hệ tiêu cực mạnh mẽ giữa tỷ lệ tài sản và lợi nhuận không phụ thuộc vào quy mô của các ngân hàng. Các nhà nghiên cứu cũng cho biết hai lý do đòn bẩy cao của các ngân hàng Mỹ, đầu tiên là các ngân hàng này có yêu cầu về vốn tối thiểu để đảm bảo cho việc bảo vệ các ngân hàng trong điều kiện kinh tế bất ngờ và điều này tối ƣu hoá nguồn vốn của họ, để giá trị của các ngân hàng sẽ đƣợc tối đa hóa. Thứ hai, nợ có lợi cho các ngân hàng vì lợi thế về thuế và trợ cấp của chính phủ đối với chi phí phá sản. Sau đó, các nhà nghiên cứu lập luậ n rằng nếu các yêu cầu về vốn tối thiểu là ràng buộc và thiết lập trên tỷ lệ vốn tối ƣu của các ngân hàng, mối quan hệ giữa vốn và khả năng sinh lợi có thể là tiêu cực. Về cơ bản nghiên cứu nhận thấy rằng trong những giai đoạn khủng hoảng hoặc trong trong trƣờng hợp thông tin bất cân xứng… thì tác động của cấu trúc tài chính tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại là ngƣợc chiều.
16
Nghiên cứu của Kundid (2012) : về tầm quan trọng của việc lựa chọn cấu trúc vốn đối với lợi nhuận ngân hàng. Nghiên cứu đƣợc tiến hành trên dữ liệu của 28 ngân hàng thƣơng mại tại Cộng hòa Croatia trong giai đoạn 2003-2008, đây đƣợc coi là một khoảng thời gian ổn định của ngành ngân hàng nƣớc này do quá trình phục hồi, hợp nhất, tƣ nhân hóa và hiện đại hóa. Nghiên cứu cho rằng tính đa dạng của ngân hàng là một biến phụ thuộc trong mô hình đƣợc đề xuất: nó xấp xỉ với giá trị lợi nhuận trên tài sản (ROA). Trong nghiên cứu này Kundid cho rằng vốn cổ phần (ROE) có thể không phải là một chỉ báo thích hợp cho việc phát triển mô hình này đối với ngành ngân hàng vì ROE là kết quả của ROA và hệ số nhân vốn, tức là một sự đảo ngƣợc vốn chủ sở hữu, ông cho rằng rủi ro lớn thƣờng liên quan đến việc quản lý nợ lớn hơn, do đó ROA nổi lên nhƣ là một biện pháp đƣợc ƣa chuộng về tính khả thi. Các biến độc lập đƣợc sử dụng trong mô hình hồi quy của nghiên cứu đƣợc phân loại thành một trong bốn nhóm các chỉ số: các chỉ số tăng trƣởng, các chỉ số cơ cấu vốn, các chỉ số chi phí lãi suất và các chỉ số khác. Nhóm chỉ số tăng trƣởng: RASTAK chỉ số tăng trƣởng tài sản; RASTJK chỉ số tăng trƣởng vốn điều lệ; RASTDEP chỉ số tăng trƣởng của tiền gửi; OSUAK tiền gửi đƣợc bảo hiểm/tổng tài sản. Nhóm chỉ số cơ cấu vốn bao gồm: UKUAK vốn chủ sở hữu/tổng tài sản; UPKUAK các khoản vay đã nhận/tổng tài sản; UPDUAK tiền gửi /tổng tài sản; Chỉ số chi phí lãi suất; Chỉ số chia sẻ thị trƣờng: TRUDIO thị phần của tài sản ngân hàng; Quy mô ngân hàng; Tỷ lệ an toàn vốn. Mô hình hồi quy phát triển đƣợc xác định cụ thể, các kết quả thu đƣợc bằng cách sử dụng STATA 11 và EViews 7. Kết quả cho thấy: biến phụ thuộc (ROAi, t-1) và các biến độc lập tăng trƣởng của quy định vốn (RASTJK), tỷ lệ an toàn vốn (AK), các chỉ số chi phí lãi suất có một dấu hiệu tiêu cực và có ý nghĩa thống kê. Ƣớc tính các thông số là cao nhất cho chỉ số chi phí lãi suất trên và lợi tức trên tài sản trong kỳ trƣớc (ROAi, t-1). Nhƣ vậy, KT1 và ROAi, t-1 có tác động ngƣợc chiều cao nhất đến ROA. Hơn nữa, sự tăng trƣởng của tài sản (RASTAK), tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tài sản (UKUAK), dự trữ bắt buộc (GR) và tỷ lệ tiền gửi đƣợc bảo hiểm (OSUAK) nằm trong một mối quan hệ cùng chiều với biến phụ thuộc và có ý nghĩa thống kê. Kết quả cũng cho thấy sự sụt giảm mạnh ROA của các ngân hàng vừa và nhỏ kể từ năm 2006 và sự gia tăng đồng thời của ROA của ngân hàng lớn nhất trong hai năm gần nhất có thể là lời giải thích cho các kết quả trƣớc đây. Nghiên cứu cũng cho thấy: các ngân hàng cỡ nhỏ thƣờng có tỷ lệ vốn cao hơn các yêu cầu quy định và có khả năng quản lý rủi ro khiêm tốn. Đồng thời, các ngân hàng nhỏ có lợi nhuận thấp hơn (hoặc hoạt động với tổn thất) trong khi tăng trƣởng tài sản của họ bị giới hạn bởi thƣớc đo pháp lý của CNB về các giới hạn tăng trƣởng thƣờng phù hợp hơn với các ngân hàng lớn phát triển. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tài sản có kết nối tích cực với ROA của ngân hàng và do đó việc tài trợ vốn chủ sở
17
hữu cao hơn là một nguồn tăng lợi nhuận của ngân hàng. Tóm lại, nghiên cứu này cho thấy các ngân hàng có vốn chủ sở hữu cao và tiền gửi đƣợc bảo hiểm sẽ có ROA cao hơn.
Nghiên cứu của Awunyo và Badu (2012) đánh giá cấu trúc vốn và hiệu suất của các ngân hàng niêm yết ở Ghana trong giai đoạn 2000-2010, phát hiện ra rằng các ngân hàng niêm yết trên SCK Ghana đƣợc đánh giá cao về việc sử dụng đòn bẩy. Đây có thể là do sự phụ thuộc của họ vào nợ ngắn hạn nhƣ một kết quả tƣơng đối cao của lãi suất cho vay của ngân hàng Ghana và mức độ thấp của hoạt động thị trƣờng trái phiếu và có một mối liên hệ tiêu cực với hiệu quả hoạt động ngân hàng. Nghiên cứu sử dụng ba biến phụ thuộc để xem xét hiệu suất đó là ROA, ROE và Tobin‟s Q là tỷ lệ giá trị thị trƣờng của vốn chủ sở hữu đối với giá trị sổ sách. Lựa chọn này đƣợc đƣa ra bởi giả định rằng các chỉ số này có thể có cách diễn giải khác nhau về hiệu suất của ngân hàng. Các biến độc lập bao gồm biến cấu trúc LEV: tỷ lệ tổng nợ trên tổng số vốn; FIRMSIZE tổng doanh thu; DEBT:nợ ngắn hạn; Biến điều khiển: AGE tuổi của ngân hàng; BODSIZE kích thƣớc ban đầu của ngân hàng; MCAP vốn hóa thị trƣờng. Nghiên cứu thấy rằng cơ cấu vốn trung bình của các ngân hàng niêm yết trên SCK Ghana là 87%. Trong giai đoạn nghiên cứu cho thấy các ngân hàng niêm yết trên SGDCK đƣợc đánh giá cao việc này có thể đƣợc coi là do phụ thuộc quá nhiều vào nợ ngắn hạn do lãi suất cho vay của ngân hàng Ghana tƣơng đối cao và hoạt động thị trƣờng trái phiếu ở mức thấp. Việc điều chỉnh các ngân hàng này là kết quả của sự phụ thuộc quá mức vào nợ ngắn hạn. Trong số 87% thì nợ trung bình, ngắn hạn, trách nhiệm pháp lý chiếm 86,61% tổng số tiền này (75% tổng số vốn) trong khi 23,39% còn lại là nợ dài hạn. Ngoài ra thị trƣờng trái phiếu ở Ghana không đƣợc phát triển đúng cách để thu hút các ngân hàng lựa chọn nợ dài hạn. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng cấu trúc vốn có liên quan nghịch với hiệu suất đƣợc thể hiện bởi các kết quả hồi quy của hàm ROE và Tobin’s q có nghĩa là có một mối quan hệ tiêu cực giữa đòn bẩy và ROE. Các biến điều khiển khác trong mô hình cụ thể là kích thƣớc (đƣợc thể hiện bằng tổng tài sản), độ tuổi, giá trị vốn hóa thị trƣờng tất cả đều thể hiện mối quan hệ tiêu cực với ROE, tuy nhiên chỉ kích thƣớc bảng và tổng doanh thu có ý nghĩa thống kê với biến phụ thuộc. Kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy mối quan hệ không đáng kể giữa cấu trúc vốn và hiệu suất ngân hàng đƣợc đo bằng ROA Kết quả cho thấy âm tính nhƣng có ý nghĩa thống kê;
Nghiên cứu của Prof. (Dr). Velnampy & J. Aloy Srilanca (2012) về mối quan hệ giữa cấu trúc vốn & lợi nhuận: Mục đích của nghiên cứu này là để điều tra mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và khả năng sinh lời của 10 ngân hàng Srilankan niêm yết
18
trong 8 năm từ năm 2002 – 2009. Dữ liệu đã đƣợc phân tích bằng cách sử dụng số liệu thống kê mô tả và phân tích tƣơng quan để tìm ra mối liên hệ giữa các biến. Các biến của mô hình nghiên cứu bao gồm biến độc lập là các biến về cấu trúc vốn: Debt/Equity D/E: tỷ lệ nợ/VCSH; Debt to Total Funds: nợ /tổng kinh phí và các biến về lợi nhuận là biến phụ thuộc bao gồm: NPR (Net Profit Ratio)- lợi nhuận thuần; RCE (Return on Capital mployed); ROE (Return on Equity) và NIM (Net Interest Margin). Những phát hiện chính của nghiên cứu nhƣ sau : kết quả của phân tích cho thấy rằng có một mối liên hệ trái chiều giữa cấu trúc vốn và khả năng sinh lời. Nó cho thấy một thực tế là ngân hàng ở Sri Lanka phụ thuộc nhiều vào nợ (dài hạn cho vay) chứ không phải là vốn chủ sở hữu . Kết quả từ các nghiên cứu về mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và lợi nhuận là không thuyết phục và đòi hỏi các công ty phải đối mặt với câu hỏi quan trọng trong nhu cầu tài chính mới là liệu tăng nợ hoặc vốn chủ sở hữu. Mặt khác, thông qua phân tích hồi quy, nghiên cứu cho thấy kết quả là tỷ lệ nợ D/E có mối quan hệ chặt chẽ (43,7%) với tỷ suất lợi nhuận ròng (NIM), lợi nhuận ròng (NPR) (50,5%). Ngƣợc lại, giả thuyết D/E có tác động mạnh mẽ đến Return on Equity (ROE) và Return on Capital Employed (ROCE) đã bị từ chối.
Nghiên cứu của Pastory, Marobhe và Kaaya (2013) về mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và hiệu suất của ngân hàng thƣơng mại: nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ 20 ngân hàng ở Tanzania trong khoảng thời gian 2005-2011. Hiệu suất ngân hàng đƣợc đo lƣờng bởi ROA và ROE. Các kết quả mô tả mối quan hệ tiêu cực giữa cấu trúc vốn và hiệu suất ngân hàng khi họ chỉ ra hệ số âm. Các biến độc lập là vốn để cho vay, vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, nợ phải trả trên vốn. Các biến kiểm soát là logarit của tổng tài sản, logarit tổng tiền gửi ngân hàng và kích thƣớc ngân hàng. Nghiên cứu kết luận rằng mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và hiệu suất của các ngân hàng là tiêu cực, kết quả là có ý nghĩa ở mức 5%. Trong khía cạnh này nó kết luận mức độ nợ ảnh hƣởng đến hiệu suất của các ngân hàng xấu, mặc dù điều đó trái ngƣợc với các nghiên cứu khác, nhƣng đƣợc hỗ trợ với các nghiên cứu thực nghiệm bao gồm cả lý thuyết vị thế. Các biến kiểm soát nhƣ Ln tổng tài sản, Ln tiền gửi ngân hàng và kích thƣớc đã cho thấy xu hƣớng tích cực, và có xu hƣớng tăng hiệu suất của các ngân hàng mặc dù kết quả là không có ý nghĩa thống kê.
1.1.3. Trường phái thứ ba: cấu trúc tài chính độc lập với hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại.
Theo cách tiếp cận này, Ngo (2006) đã tiến hành một nghiên cứu với mẫu là
2500 ngân hàng lớn nhất (theo tổng tài sản) ở Mỹ và theo dõi chúng từ quý 3 năm 1996
cho đến tháng 3 năm 2005 với một bộ dữ liệu rất lớn trên 62.000 quan sát ngân hàng.
19
Biến phụ thuộc chính là thu nhập của ngân hàng : ROE và ROA. Nghiên cứu này đặt ra để điều tra chi tiết mối quan hệ giữa vốn và lợi nhuận trong ngân hàng. Ông cho rằng vốn và sự an toàn của nó đã đi đầu trong cuộc tranh luận quy định trong nhiều thập kỷ, nhƣng dƣờng nhƣ chúng ta cũng không làm rõ hơn đƣợc sự tác động của vốn đến hiệu suất ngân hàng. Các ngân hàng luôn phản đối các yêu cầu khắt khe hơn cho thấy rằng việc nắm giữ vốn bổ sung là tốn kém và do đó cản trở lợi nhuận, nhƣng vẫn tiếp tục duy trì mức vốn cao hơn mức yêu cầu đặc biệt của chính quyền. Cũng nhƣ bất kỳ hoạt động kinh tế nào, việc tăng vốn cũng có chi phí nhƣng cũng cung cấp các lợi ích bổ sung đƣợc đền bù đầy đủ. Do yêu cầu vốn không ràng buộc, ông cho rằng tỷ lệ vốn của ngân hàng đƣợc xác định nội sinh trong quy trình tối đa hóa lợi nhuận. Các kết quả từ nghiên cứu này mang lại bằng chứng rõ ràng cho tính không đồng nhất của tỷ lệ vốn. Trái với những gì đã đƣợc báo cáo với tần suất đáng ngạc nhiên trong quá khứ, ông không tìm thấy mối quan hệ có hệ thống giữa vốn và lợi nhuận trong ngân hàng. Những phát hiện này ủng hộ quan điểm rằng thị trƣờng thành công trong việc đƣa ra các tỷ lệ vốn xấp xỉ cho các ngân hàng khác nhau. Các tỷ lệ vốn này khác nhau giữa các ngân hàng do các tình huống đặc thù với các ngân hàng. Nếu những thay đổi tỷ lệ vốn là kết quả của thị trƣờng cạnh tranh hoàn hảo, họ sẽ loại bỏ bất kỳ mối quan hệ giữa vốn và hiệu suất ngân hàng. Mặc dù không có xác nhận quyền sở hữu nào đƣợc đƣa ra thị trƣờng trong đó cấu trúc vốn đƣợc hình thành là hoàn hảo, bằng chứng này cho thấy rằng nó không phải là không hoàn hảo nhƣ để tạo ra một mối quan hệ có hệ thống mà không bị thay đổi bởi các nhà đầu tƣ tìm cách tối đa hóa lợi nhuận mà họ kiếm đƣợc. Tóm lại,trái với hầu hết các nghiên cứu đã công bố ông không tìm thấy có mối quan hệ đáng kể về mặt thống kê giữa vốn và lợi nhuận. Một phản ứng tích cực của tài sản là vốn cổ phần cao hơn, giảm chi phí vay đƣợc bù đắp bằng chi phí phát hành cổ phiếu cao hơn. Vì vậy, hiệu quả thuần của vốn chủ sở hữu tăng lên đã đƣợc chứng minh là bằng không về tỷ lệ lợi nhuận của ngân hàng (đƣợc tính bằng ROA và ROE) và ngƣợc lại.
Tóm lại, hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm đã kiểm tra mối quan hệ hệ giữa cấu trúc vốn và hiệu quả hoạt động đã tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa các thị trƣờng khác nhau và các khoảng thời gian khác nhau (Angbazo, 1997, Demirguc-Kunt và Huizinga, 1999; Vennet, 2002, Nier và Baumann, 2006; Flannery và Rangan,
2008). Điều này có thể do lí thuyết trật tự phân hạng vì thu nhập cao trong quá khứ thúc đẩy vốn cao hơn trong hiện tại. Mặc dù nhƣ đã đề cập, cả mức vốn đầu tƣ theo yêu cầu và các quan điểm về trật tự phân hạng dự đoán rằng trong dài hạn, lợi nhuận cao hơn dẫn đến một một tỷ lệ vốn mong muốn thấp hơn. Tuy nhiên, các nghiên cứu đƣợc trích dẫn ở trên có một giới hạn vì họ áp đặt hạn chế rằng mối quan hệ giữa cấu
20
trúc vốn và lợi nhuận là tuyến tính và đồng nhất giữa các ngân hàng và các khoảng thời gian. Mối quan hệ tích cực đƣợc tìm thấy là mối quan hệ trung bình giữa các ngân hàng và các khoảng thời gian. Berger (1995) ƣớc tính mối quan hệ tuyến tính giữa ROE và vốn là trái chiều đối với các ngân hàng thƣơng mại Mỹ nhƣng cho phép các mối quan hệ (và trên thực tế là toàn bộ mô hình) thay đổi giữa các giai đoạn 1983-
1989, trong đó các ngân hàng nói chung đƣợc cho là dƣới mức tỷ lệ vốn tối ƣu, và
1990-1992 trong đó họ đƣợc cho là đã vƣợt quá tỷ lệ vốn tối ƣu của họ. Hệ số này là tích cực trong giai đoạn đầu và tiêu cực trong lần thứ hai, phù hợp với lý thuyết trên rằng tỷ lệ vốn tối ƣu tăng trong giai đoạn căng thẳng và các ngân hàng khởi hành từ tỷ lệ vốn tối ƣu của họ trong ngắn hạn. Tuy nhiên, phƣơng pháp này không cho phép các mối quan hệ thay đổi giữa các ngân hàng, theo quan điểm lý thuyết, nó có thể sẽ tùy thuộc vào việc các ngân hàng có ở trên hay dƣới tỷ lệ vốn tối ƣu và mức độ gần gũi với chúng. Osterberg và Thomson (1996) đã khám phá các yếu tố quyết định đòn bẩy của các công ty cổ phần ngân hàng Hoa Kỳ (BHCs) trong giai đoạn 1987-1988. Đặc điểm kỹ thuật của họ bao gồm một khoản thu nhập tuyến tính và thuật ngữ tƣơng tác bao gồm thu nhập nhân với mức độ yêu cầu về vốn. Họ thấy rằng cấu trúc vốn và thu nhập có tƣơng quan dƣơng, và mối quan hệ này là tích cực hơn cho các ngân hàng gần với mức tối thiểu quy định. Gropp và Heider (2010) nghiên cứu các yếu tố quyết định đòn bẩy cho các ngân hàng lớn của Mỹ và châu Âu trong giai đoạn 1991-2004. Chúng bao gồm lợi tức trên tài sản và lợi tức trên tài sản nhân với một biến giả bằng 1 nếu ngân hàng gần với yêu cầu quy định. ROA và cấu trúc vốn có mối liên hệ tiêu cực, nhƣng khi vốn gần với mức tối thiểu quy định, mối quan hệ tổng thể không khác gì số không. Các đặc điểm phi tuyến tính đƣợc sử dụng trong Gropp and Heider (2010) và Osterberg và Thomson (1996) bị hạn chế vì mối quan hệ chỉ có thể thay đổi đối với các ngân hàng có vốn đầu tƣ thấp. Các yếu tố thúc đẩy mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và hiệu quả hoạt động đƣợc xác định ở trên cho thấy mối quan hệ có thể khác nhau tùy thuộc vào việc ngân hàng ở trên hay dƣới tỷ lệ vốn tối ƣu và do đó mối quan hệ có thể thay đổi giữa các ngân hàng có vốn cao và các ngân hàng vốn vừa và ngân hàng vốn thấp. Một vấn đề liên quan là các nghiên cứu cho rằng phi tuyến tính gần với mức tối thiểu quy định đối với các ảnh hƣởng của quy định. Trong khi đúng là quy định có thể tạo ra một mối quan hệ tích cực mạnh mẽ gần với mức tối thiểu quy định, kỷ luật thị trƣờng có thể mang lại hiệu quả tƣơng tự và nó là vấn đề đáng kể cho dù những nghiên cứu này đã thực sự xác định đƣợc một hiệu quả điều chỉnh gia tăng khác với các yếu tố đánh đổi có liên quan.
Cuối cùng, các nghiên cứu về các yếu tố quyết định lợi nhuận của ngân hàng
đều nhắc đến vai trò của vốn trong việc xác định lợi nhuận. Giả thuyết rằng các ngân
21
hàng có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài có ROA cao hơn và/hoặc biên lãi ròng cao hơn đã đƣợc xác nhận trong Abreu và Mendes (2002), Anthanasoglou et al (2005) (2006), Demirgüç-Kunt và Huizinga (1998), Kosmidou et al (2005), Košak và Čok (2008), Kundid et al (2011), Mamatzakis và Remoundos (2003), Ramlall (2009), Sayilgan và Yildirim (2009), Sufian và Razali Chong (2008). Ngoài ra, Abreu và Mendes (2002), Goddard et al (2004), Bach et al (2009) đã chứng minh đƣợc những ảnh hƣởng tích cực của vốn chủ sở hữu cao hơn trong cấu trúc vốn đến ROE.
Nhƣ vậy, có thể thấy mặc dù cấu trúc vốn có tác động quan trọng đến hiệu quả hoạt động của các NHTM, tuy nhiên cho đến nay các kết quả nghiên cứu thực nghiệm vẫn chỉ ra tính đa hƣớng trong mối quan hệ này. Chính điều này thúc đẩy các nghiên cứu tiếp tục kiểm tra về tác động của cấu trúc vốn đến hiệu quả hoạt động ở các bối cảnh mới hơn nhƣ các nƣớc có nền kinh tế chuyển đổi hay các nƣớc đang phát triển, hoặc ở những giai đoạn đặc biệt của nền kinh tế một nƣớc.
1.2. Khoảng trống nghiên cứu
Qua phần tổng quan trên tác giả nhận thấy
– Phần lớn các tác giả khi nghiên cứu về cấu trúc vốn tác động đến hiệu quả hoạt động thƣờng nghiên cứu cấu trúc vốn bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản nợ, các tác giả đều sử dụng các biến đại diện cho cấu trúc vốn là hệ số nợ (ngắn hạn, dài hạn), đòn bẩy tài chính (tổng nợ/ tổng tài sản), tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản, với đặc thù cấu trúc vốn của ngành ngân hàng (không phân chia các khoản nợ phải trả theo thời hạn thanh toán) nên không thể nghiên cứu tách bạch hệ số nợ ngắn hạn và dài hạn. Thêm nữa các nghiên cứu trên thế giới chƣa đề cập đến mối quan hệ giữa cấu trúc vốn của các ngân hàng thƣơng mại trong mối quan hệ với tài sản, đặc biệt là với phần tổng dƣ nợ cho vay của các ngân hàng (Total Loans), vì cho vay là hoạt động cơ bản và đem lại nguồn thu chủ yếu cho các NHTM.
– Biến đại diện cho hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thƣơng mại là ROA, ROE chiều tác động của các biến thuộc cấu trúc vốn đến hiệu quả hoạt động chƣa đồng nhất phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhƣ sự phát triển của nền kinh tế mối nƣớc trong từng giai đoạn, đặc thù từng quốc gia nghiên cứu…
– Các biến kiểm soát trong nghiên cứu của các tác giả là rất đa dạng: từ các chỉ số vi mô nhƣ: quy mô ngân hàng, tỷ số tiền gửi thị trƣờng, cho vay, đầu tƣ chứng khoán, nhóm chỉ số chi phí lãi suất, chỉ số chia sẻ thị trƣờng, tuổi của ngân hàng, tỷ lệ vốn hóa thị trƣờng, tỷ lệ nợ xấu, đến các chỉ số vĩ mô: GNP, GDP, thị phần, lạm phát… chiều tác động của các biến này đến hiệu quả hoạt động của các NHTM chƣa thống nhất tùy thuộc vào đặc thù của từng nƣớc. Hạn chế trong các nghiên cứu trƣớc đây khi