LA33.005_Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng và nhân dân ta khởi xướng và tiến hành, cùng với nhiệm vụ phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, chính trị – xã hội, khoa học và công nghệ, giáo dục và văn hóa, đặc biệt là đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm “xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợpvới trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc”, chúng ta còn có một nhiệm vụ hết sức quan trọng đó là “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế – xã hội. Đó cũng chính là triết lý của sự phát triển xã hội hài hòa và bền vững. Bởi vì, văn hóa nói chung và những giá trị tinh thần, tư tưởng của dân tộc Việt Nam nói riêng không chỉ là nền tảng tinh thần và là một trong những động lực phát triển xã hội mà còn là một trong những nguồn lực nội sinh bền bỉ và mạnh mẽ nhất “hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam”, giúp chúng ta có thể tiếp nối và phát huy sức mạnh truyền thống dân tộc trong công
cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, phong phú nhưng không kém phần phức tạp hiện nay.
Trong tiến trình của công cuộc đổi mới, hơn 20 năm qua đất nước ta đã đạt được những thành tựu thực sự to lớn và toàn diện trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đạt được kết quả đó, văn hóa đóng vai trò rất quan trọng bởi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là yếu tố nội sinh, là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế – xã hội. Do đó, có thể nói xây dựng, phát triển văn hóa chính là củng cố xây dựng và phát triển nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ, lành mạnh, không thể có sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Văn kiện Đại hội X, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội.” Cùng với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, việc mở cửa hội nhập giao lưu văn hóa với tất cả các nước trên thế giới là một xu thế và quy luật tất yếu. Chúng ta không thể bảo tồn những giá trị văn hóa của dân tộc bằng cách khép kín, thu mình, đóng cửa; nhưng ngược lại, chúng ta cũng không thể thực sự phát triển nếu như mở cửa không kiểm soát, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Do đó, để bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một mặt chúng ta phải giữ gìn những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc; mặt khác, phải mở rộng giao lưu và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại.
Đúng như Văn kiện của Đảng đã khẳng định: “Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa giao lưu quốc tế phải đặc biệt giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và tiếp thu truyền thống
đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam.” Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc ta trong tiến trình lịch sử tư tưởng Việt Nam, trên cơ sở đó phát huy sức mạnh của những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp và lâu đời của dân tộc trong cuộc sống hôm nay là việc làm vừa có ý nghĩa lý luận lâu dài vừa có tính thời sự cấp bách.
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Thiền phái Trúc Lâm đời Trần, trong đó tiêu biểu là tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông – “đệ nhất tổ thiền Trúc Lâm Yên Tử” nổi lên như một dấu son, góp phần khắc họa khá đậm nét bản sắc, cốt cách tâm hồn Việt Nam nói chung và đặc trưng của triết học Phật giáo Việt Nam nĩi riêng trong quá trình phát triển. Trần Nhân Tông không chỉ là nhà chính trị – một vị vua anh minh, “nhân từ, hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước” mà còn là nhà quân sự tài năng; không chỉ là nhà văn, nhà thơ mà còn là nhà tư tưởng lớn, một bậc thiền sư lỗi lạc – người sáng lập ra một dòng thiền mang bản sắc Việt Nam. Ông đã biết dung hợp các nguồn tư tưởng từ quá khứ của dân tộc với triết lý phong phú, sâu sắc, thâm trầm của Nho, Lão, đặc biệt là triết lý Phật giáo, bằng sự kế thừa, chọn lọc các dòng thiền trước đây như Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci), Vô Ngôn Thông, Thảo Đường và tư tưởng triết lý thiền của Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ để sáng tạo nên hệ thống tư tưởng triết học của mình với những nét độc đáo và đặc sắc riêng, ghi dấu ấn sâu đậm trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc ta trong tiến trình lịch sử tư tưởng Việt Nam, trên cơ sở đó phát huy sức mạnh của những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp và lâu đời của dân tộc trong cuộc sống hôm nay là việc làm vừa có ý nghĩa lý luận lâu dài vừa có tính thời sự cấp bách. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Thiền phái Trúc Lâm đời Trần, trong đó tiêu biểu là tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông – “đệ nhất tổ thiền Trúc Lâm Yên Tử” nổi lên như một dấu son, góp phần khắc họa khá đậm nét bản sắc, cốt cách tâm hồn Việt Nam nói chung và đặc trưng của triết học Phật giáo Việt Nam nĩi riêng trong quá trình phát triển. Trần Nhân Tông không chỉ là nhà chính trị – một vị vua anh minh, “nhân từ, hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước” mà còn là nhà quân sự tài năng; không chỉ là nhà văn, nhà thơ mà còn là nhà tư tưởng lớn, một bậc thiền sư lỗi lạc – người sáng lập ra một dòng thiền mang bản sắc Việt Nam. Ông đã biết dung hợp các nguồn tư tưởng từ quá khứ của dân tộc với triết lý phong phú, sâu sắc, thâm trầm của Nho, Lão, đặc biệt là triết lý Phật giáo, bằng sự kế thừa, chọn lọc các dòng thiền trước đây như Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci), Vô Ngôn Thông, Thảo Đường và tư tưởng triết lý thiền của Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ để sáng tạo nên hệ thống tư tưởng triết học của mình với những nét độc đáo và đặc sắc riêng, ghi dấu ấn sâu đậm trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Chính vì thế, tôi đã chọn vấn đề “Tư tưởng triết học Trần Nhân Tông” làm đề tài luận án Tiến sĩ của mình