ThS17.013_Từ ngữ chỉ lúa gạo và sản phẩm làm từ lúa gạo trong tiếng tày (có so sánh với tiếng việt)
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
MỞ ĐẦ U
Việt Nam là một trong những nước thuộc khu vực Đông Nam Á có nền văn minh nông nghiệp lúa nước điển hình. Xã hội lúa nước Việt Nam đã để lại những dấu ấn nhất định trong ngôn ngữ, đó là kho tàng từ vựng hết sức phong phú phản ánh những tri thức của người Việt về một thế giới xung quanh cây lúa nước. Đồng thời nền văn minh nông nghiệp của người Việt cũng là sự thể hiện rõ nhất của một nền văn hoá nông nghiệp lúa nước. Văn hoá nông nghiệp lúa nước Việt Nam có những nét chung với các nền văn hoá lúa nước cùng khu vực, nhưng lại có những nét khu biệt rất riêng, làm thành bản sắc văn hoá Việt Nam.
Nước ta có 54 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó có 53 dân tộc thiểu số. Trong nền văn hoá đa dân tộc, đa ngôn ngữ đó, mỗi dân tộc anh em đều có bản sắc văn hoá riêng, tiếng nói riêng của mình. Để xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta phải giữ gìn và phát huy bản sắc riêng của mỗi dân tộc để đảm bảo tính đa dạng phong phú của nền văn hoá Việt Nam trong thời đại ngày nay. Đồng thời, chúng ta cũng cần bảo tồn ngôn ngữ dân tộc vì nó là yếu tố quan trọng nhất của văn hóa, ghi nhận và bảo tồn giá trị văn hóa, tri thức của dân tộc đó.
Trong số các dân tộc ít người ở Việt Nam, dân tộc Tày là một cộng đồng tộc người có số dân đông nhất, có hơn 1 triệu người. Cư trú trên những cánh đồng màu mỡ ở các thung lũng trong đó có nhiều cánh đồng khá lớn như Hoà An, Tràng Định, Lạng Sơn, Phủ Thông, Bắc Quang, người Tày đã có một nền tảng kinh tế trồng lúa nước khá phát triển. Việc trồng lúa nước thay cho việc trồng cây ăn củ và trồng lúa nương là đặc điểm văn hoá vật chất lớn nhất của người Tày. Ở đấy bao gồm tất cả những nét nổi bật và đặc trưng về văn hoá vật chất như ăn, mặc, ở, trồng trọt, chăn nuôi… của người Tày.
Đặc biệt là hệ thống từ ngữ biểu thị tên gọi của lúa, với các trạng thái, các sản phẩm, chế phẩm lúa gạo do con người tạo ra. Việc nghiên cứu tìm hiểu từ ngữ chỉ lúa gạo và các sản phẩm làm từ lúa
gạo của người Tày thiết nghĩ là việc làm cần thiết, góp phần gìn giữ và bảo vệ ngôn ngữ dân tộc và phát huy bản sắc văn hoá của người Tày. Mặt khác nó giúp chúng ta hiểu một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về một nét văn hoá lâu đời của đồng bào dân tộc Tày, góp phần làm phong phú thêm về mặt t ư liệu văn hoá của dân tộc Tày và văn hoá của dân tộc thiểu số.
Với những lý do trên, chúng tôi đã chọn vấn đề Từ ngữ chỉ lúa gạo và sản phẩm làm từ lúa gạo trong tiếng Tày (có so sánh với tiếng Việt) để làm đề tài nghiên cứu cho mình. Hơn nữa, là người dân tộc Tày nên việc chọn vấn đề này làm đề tài luận văn còn nhằm mục đích giúp chính người viết tìm tòi và hiểu rõ hơn về ngôn ngữ và văn hoá của dân tộc mình trong toàn bộ tiến trình phát triển truyền thống văn hoá rất đỗi tự hào của dân tộc. Mặt khác, việc nghiên cứu này còn nhằm mục đích thiết thực là giúp cho dân tộc khác hiểu được hệ thống từ ngữ chỉ lúa gạo, hiểu thêm văn hoá của người Tày. Nghiên cứu từ ngữ chỉ lúa gạo và các sản phẩm làm từ lúa gạo của người Tày là việc làm cần thiết không những có ý nghĩa về mặt khoa học thực tiễn mà nó còn góp phần quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ dân tộc Tày có ý thức giữ gìn và phát huy ngôn ngữ và bản sắc dân tộc