Monday, January 30, 2023
  • Home
  • About
  • Viết thuê luận văn
  • Luận Án Tiến Sĩ
Download Luận Văn
Advertisement
  • Luận Văn – Luận Án
  • Download
    • Đại Học – Cao Đẳng
      • Công Nghệ – Môi Trường
      • Công Nghệ Thông Tin
      • Khoa Học Tự Nhiên
      • Khoa Học Xã Hội
      • Kinh Tế – Quản Lý
      • Kinh Tế Thương Mại
      • Kỹ Thuật
      • Lý Luận Chính Trị
      • Nông-Lâm-Ngư
      • Y Khoa – Dược
    • Thạc Sĩ – Cao Học
      • Công Nghệ Thông Tin
      • Khoa Học Tự Nhiên
      • Khoa Học Xã Hội
      • Kiến Trúc – Xây Dựng
      • Kinh Tế
      • Kỹ Thuật
      • Luật
      • Nông – Lâm – Ngư
      • Sư Phạm
      • Y Dược – Sinh Học
    • Tiến Sĩ
    • Báo Cáo Khoa Học
    • Tiểu Luận
  • Hướng Dẫn
  • Tin chuyên ngành
No Result
View All Result
Download Luận Văn
  • Luận Văn – Luận Án
  • Download
    • Đại Học – Cao Đẳng
      • Công Nghệ – Môi Trường
      • Công Nghệ Thông Tin
      • Khoa Học Tự Nhiên
      • Khoa Học Xã Hội
      • Kinh Tế – Quản Lý
      • Kinh Tế Thương Mại
      • Kỹ Thuật
      • Lý Luận Chính Trị
      • Nông-Lâm-Ngư
      • Y Khoa – Dược
    • Thạc Sĩ – Cao Học
      • Công Nghệ Thông Tin
      • Khoa Học Tự Nhiên
      • Khoa Học Xã Hội
      • Kiến Trúc – Xây Dựng
      • Kinh Tế
      • Kỹ Thuật
      • Luật
      • Nông – Lâm – Ngư
      • Sư Phạm
      • Y Dược – Sinh Học
    • Tiến Sĩ
    • Báo Cáo Khoa Học
    • Tiểu Luận
  • Hướng Dẫn
  • Tin chuyên ngành
No Result
View All Result
Download Luận Văn
No Result
View All Result
Home Tiến Sĩ Tài Chính Ngân Hàng

Trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính bằng chứng từ các công ty niêm yết Việt Nam

admin by admin
December 1, 2018
in Tài Chính Ngân Hàng, Tiến Sĩ
0
Luận án tiến sĩ tài chính ngân hàng
644
SHARES
3.6k
VIEWS
Share on FacebookShare on Twitter

You might also like

Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng

Phát triển kinh doanh dịch vụ viễn thông ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế Nghiên cứu trường hợp Công ty Cổ phần viễn thông Hà Nội

Quản lý tài chính các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Tài chính

LA02.241_Trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính bằng chứng từ các công ty niêm yết Việt Nam

1.3. Câu hỏi nghiên cứu

Như thảo luận trong bối cảnh nghiên cứu, sự hiểu biết về trách nhiệm xã hội ở Việt Nam là chưa cao. Mặc dù, một số công ty đã áp dụng và phát triển các khía cạnh trách nhiệm xã hội để báo cáo các hoạt động trách nhiệm xã hội của họ trên cơ sở tự nguyện nhưng lại có tương đối ít các công ty niêm yết đã thực hiện việc công bố trách nhiệm xã hội trong báo cáo thường niên, báo cáo bền vững và websites có nội dung bền vững. Do đó, những cuộc điều tra xa hơn về việc mở rộng các nghiên cứu trước về trách nhiệm xã hội cần được thực hiện.

Tham khảo thêm :

  • Quản lý tài chính các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Tài chính
  • Phát triển kinh doanh dịch vụ viễn thông ở Việt Nam trong bối cảnh hội…
  • Tái cấu trúc tài chính các doanh nghiệp vận tải biển niêm yết ở Việt Nam
  • Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tỉnh Phú Thọ
  • Nâng cao năng lực quản lý chuỗi cung ứng trong công tác khám, chữa bệnh…
  • Các yếu tố tác động đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam
  • Nghiên cứu căng thẳng khu vực tài chính tại Việt Nam
  • Thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế biển đảo phía Nam…
  • Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ…
  • Tăng cường tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp nhỏ và…

Các câu hỏi nghiên cứu chính trong nghiên cứu này bao gồm:

(1) Có mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và các phương diện (khía cạnh) trách nhiệm xã hội với hiệu quả tài chính trong các công ty công ty niêm yết Việt Nam hay không?

(2) Có mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty trong các công ty công ty niêm yết Việt Nam hay không?

(3) Các công ty niêm yết có công bố trách nhiệm xã hội luôn có hiệu quả tài chính tốt hơn các công ty niêm yết khác không công bố trách nhiệm xã hội đúng không?

1.4. Mục tiêu nghiên cứu

Để giải quyết sự thiếu rõ ràng về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, cũng như những tranh luận về khả năng áp dụng trách nhiệm xã hội vào các nước đang phát triển như Việt Nam.

– Mục tiêu chung của nghiên cứu này: kiểm tra các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty bằng việc áp dụng phương pháp phân tích nội dung để phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội (CSR) trên cơ sở đó, kiểm tra mức độ thực hành CSR cho các công ty niêm yết Việt Nam và đo lường các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính.

– Mục tiêu cụ thể:

(1) Tính toán và đo lường chỉ số trách nhiệm xã hội sau đó sử dụng chỉ số CSR này kiểm tra các mối quan hệ giữa chỉ số trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty.

(2) Kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và các khía cạnh trách nhiệm xã hội với hiệu quả tài chính của các công ty niêm yết Việt Nam.

(3) Kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty.

(4) Xem xét hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm yết có công bố trách nhiệm xã hội so với các công ty niêm yết khác không công bố trách nhiệm xã hội.

1.5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.5.1. Đối tượng nghiên cứu:

Trách nhiệm xã hội, hiệu quả tài chính, rủi ro công ty và các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty.

1.5.2. Phạm vi nghiên cứu:

Nghiên cứu này được thực hiện dựa vào các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam (chia thành hai nhóm gồm các công ty niêm yết có công bố CSR và nhóm các công ty niêm yết không công bố CSR) giai đoạn 2012 – 2016, để hoàn thành hai kiểm tra thực nghiệm. Một là, khảo sát việc thực hành trách nhiệm xã hội của các công ty niêm yết; hai là, kiểm tra các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty đồng thời so sánh hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm yết có công bố trách nhiệm xã hội và các công ty niêm yết không công bố trách nhiệm xã hội.

Trong phần kiểm tra thực nghiệm đầu tiên được chia thành hai bước: một là, dựa trên phân tích nội dung báo cáo thường niên, báo cáo bền vững và các websites có nội dung bền vững của các công ty niêm yết để phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội bao gồm bốn phương diện (khía cạnh): trách nhiệm với môi trường, với người lao động, với cộng đồng và với sản phẩm/khách hàng. Sau đó dùng chỉ số CSR được phát triển để kiểm tra mức độ thực hành trách nhiệm xã hội và đo lường các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty; hai là, xác định các biến đại diện cho hiệu quả tài chính, các biến kiểm soát và thu thập dữ liệu cho các biến này.

Trong phần kiểm tra thực nghiệm thứ hai sử dụng mô hình kinh tế lượng và các kiểm tra kỹ thuật để kiểm tra các mối quan hệ trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty, so sánh hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm yết có công bố CSR và các công ty niêm yết không công bố CSR.

1.6. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp sử dụng trong nghiên cứu này được dựa trên các tài liệu hiện nay về trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính. Các thành phần chính của phương pháp được sử dụng như sau:

Một là, phát triển khung nghiên cứu; thiết kế mẫu nghiên cứu và thu thập dữ liệu cho nghiên cứu.

Hai là, sử dụng phương pháp phân tích nội dung để phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội phù hợp với bối cảnh Việt Nam, và để đo lường việc thực hành trách nhiệm xã hội của các công ty niêm yết bằng cách thu thập dữ liệu thứ cấp từ báo cáo thường niên, báo cáo bền vững và websites của các công ty niêm yết có công bố thông tin trách nhiệm xã hội. Đồng thời, xác định các biến đo lường đại diện cho hiệu quả tài chính, rủi ro công ty và thu thập dữ liệu cho biến hiệu quả tài chính và rủi ro công ty từ báo cáo tài chính của các công ty niêm yết.

Ba là, xây dựng mô hình hồi quy cụ thể để đo lường các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính và rủi ro công ty trong nghiên cứu.

Bốn là, sử dụng các mô hình kinh tế lượng (Pooled OLS, FEM, REM) và các kiểm tra kỹ thuật phù hợp để kiểm tra các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty trong nghiên cứu.
Cuối cùng, các kết quả từ phân tích thực nghiệm sẽ được giải thích và được phân tích. Các kết quả ban đầu từ nghiên cứu được so sánh với kết quả từ các nghiên cứu khác để giải thích mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu.

1.7. Ý nghĩa của nghiên cứu

Các nghiên cứu hiện nay đã có những đóng góp thiết thực đáng kể cho lĩnh vực trách nhiệm xã hội vì nó chứa các hiệu quả kinh tế cũng như hỗ trợ việc áp dụng các chiến lược và chính sách trách nhiệm xã hội thích hợp. Hiệu quả kinh tế đạt được từ các kết quả phân tích hồi quy, và các chiến lược và chính sách trách nhiệm xã hội đã được xác định từ sự phát triển của các chỉ số trách nhiệm xã hội. Phần lớn các nghiên cứu hiện có về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính đã tập trung vào quan điểm của các nước phương Tây (Mỹ, Anh và Úc). Các tài liệu đã nhấn mạnh rằng một khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội thích hợp là một yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo các chính sách và nguyên tắc trách nhiệm xã hội ở các nước đang phát triển (Rathnasiri, 2003; Fernando, 2008; Moon, 2002). Hiện nay các nhà nghiên cứu về trách nhiệm xã hội như McWilliams và cộng sự (2006), Rodríguez và cộng sự (2006) đã chỉ trích các nghiên cứu về trách nhiệm xã hội là những lời tuyên bố kém vì không có định nghĩa được chấp nhận, thiếu vận hành và thước đo được chấp nhận.

Nghiên cứu này cố gắng khắc phục những vấn đề trên bằng cách phát triển khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội phù hợp với bối cảnh ở Việt Nam. Ngoài ra, khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội có thể được sử dụng như là một công cụ để tiếp tục các nghiên cứu trách nhiệm xã hội và ra quyết định đối với các nhà nghiên cứu trong tương lai. Hơn nữa, quá trình phát triển khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội có thể hữu ích cho việc quản lý cũng như các bên liên quan để giúp họ hiểu được các khái niệm trách nhiệm xã hội (Carroll, 2004; Maon và cộng sự, 2009).

Mặt khác, như đã đề cập nhiệm vụ khó khăn nhất cho các nghiên cứu trách nhiệm xã hội là đo lường hiệu quả trách nhiệm xã hội. Wood (2010), có một số nghiên cứu trách nhiệm xã hội đã sử dụng nhiều thước đo trách nhiệm xã hội khác nhau nhưng các nghiên cứu này không thể được phân thành các nguyên tắc, quy trình hoặc kết quả. Điều này có nghĩa việc lượng hóa khái niệm trách nhiệm xã hội là rất quan trọng vì nó sẽ giúp các nhà nghiên cứu đo lường được các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và cho phép sự minh bạch giữa nhà quản lý và các bên liên quan. Abbott (1979) nêu hai vấn đề chính về đo lường trách nhiệm xã hội cho các nghiên cứu trong lĩnh vực trách nhiệm xã hội: (i) việc thiếu các dữ liệu định lượng các hoạt động xã hội và (ii) khó khăn của các phương pháp được sử dụng bởi các học giả để nhận ra những hiệu ứng đầy đủ của xã hội. Bởi vì, sử dụng các con số định lượng có thể nhận ra hiệu quả trách nhiệm xã hội của công ty. Kết quả là, nhà quản lý có thể đưa ra quyết định mà những quyết định này sẽ làm giảm xung đột giữa các tổ chức và nhân viên, cộng đồng và khách hàng của mình. Do vậy, việc lượng hóa trách nhiệm xã hội thông qua việc phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội của nghiên cứu này sẽ bổ sung đáng kể cho các tài liệu về trách nhiệm xã hội hiện nay trong bối cảnh Việt Nam.

Cuối cùng, như đã nêu, mục tiêu chính của nghiên cứu này là kiểm tra các mối quan hệ tổng thể giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty khi mà có tương đối hạn chế các nghiên cứu thực nghiệm tương tự được thực hiện trước đó ở Việt Nam. Điều này sẽ hỗ trợ và khuyến khích các công ty tăng cường đầu tư cho các hoạt động trách nhiệm xã hội và làm nền tảng cho các nghiên cứu tương lai về các mối quan hệ này. Như vậy, nghiên cứu này đã có đóng góp tốt đối với thực hành trách nhiệm xã hội của các công ty niêm yết trong bối cảnh Việt Nam.

1.8. Bố cục nghiên cứu

Nghiên cứu này bao gồm năm chương. Các chương này giới thiệu về các chủ đề và cung cấp kiến thức nền tảng cho nghiên cứu. Nó bao gồm một thiết kế cho các mục tiêu và phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu.

Chương 2: Thảo luận về các lý thuyết và các tài liệu thực nghiệm liên quan đến trách nhiệm xã hội, hiệu quả tài chính, rủi ro công ty và các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính và rủi ro công ty. Chương này bắt đầu với việc thảo luận về khái niệm trách nhiệm xã hội, các lý thuyết chính liên quan trách nhiệm xã hội, lý do tại sao phải đầu tư cho trách nhiệm xã hội và lợi ích của trách nhiệm xã hội mang lại cho các tổ chức. Sau đó tổng quan các vấn đề về mối quan hệ thực nghiệm giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính ở các nước phát triển, các nước đang phát triển và Việt Nam. Tiếp theo, xem xét mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty. Kế tiếp xem xét hiệu quả tài chính giữa công ty có công bố trách nhiệm xã hội và công ty không công bố trách nhiệm xã hội. Cuối cùng, xác định “gaps” trong nghiên cứu. Từ những nền tảng lý luận này, hình thành giả thuyết nghiên cứu và khung nghiên cứu chung để sử dụng trong nghiên cứu án này.

Chương 3: Thảo luận về dữ liệu và phương pháp nghiên cứu. Đầu tiên, giải thích khung nghiên cứu và mô tả việc phát triển khung nghiên cứu để hiểu được những ảnh hưởng của các biến lên hiệu quả tài chính. Tiếp theo liên quan đến lựa chọn mẫu nghiên cứu, việc lựa chọn và đo lường các biến, xây dựng mô hình hồi quy để kiểm tra các mối quan hệ, và lựa chon các mô hình kinh tế lượng và các kiểm tra kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu.

Chương 4: Giải thích các kết quả nghiên cứu chính của nghiên cứu. Chương này thảo luận các kỹ thuật phân tích được đề cập trọng trong Chương 3 dựa trên các giả thuyết nghiên cứu trong Chương 2 thông qua ba bước để đạt mục tiêu nghiên cứu: (i) sử dụng phân tích nội dung, (ii) thống kê mô tả, (iii) hệ số tương quan, (iv) giải thích kết quả phân tích hồi quy về các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính và rủi ro công ty.

Chương 5: Kết luận. Cụ thể, Chương này đưa ra một vài kiến nghị, hàm ý chính sách, những hạn chế và đề xuất cho các hướng nghiên cứu tương lai.


[button type=”danger” text=”TẢI XUỐNG 。◕‿◕。” url=”https://drive.google.com/file/d/1HvTpMN6mUVyS_A8qgM-ZunTbhDdAqueZ/view” open_new_tab=”true”]

Nhận viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Hotline: 092.4477.999
Website: luanvanaz.com
Email: luanvanaz@gmail.com

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU1.1. Giới thiệu

Trong nhận thức của phần lớn các nhà đầu tư thì hiệu quả công ty thường gắn liền với giá cổ phiếu. Mục đích chính của quản trị là để tối đa hóa sự giàu có của công ty (Sujoko, 2007), hiệu quả/giá trị công ty được phản ánh vào giá cổ phiếu đó là ổn định hay tăng trưởng. Nếu giá cổ phiếu cao sẽ làm cho hiệu quả công ty cao và tác động đến lòng tin của thị trường đối với hiệu quả công ty ở hiện tại, cũng như triển vọng đối với công ty trong tương lai, rất quan trọng trong các giao dịch đầu tư. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả công ty cao thì các nhà quản lý có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau. Một là, tác động vào các chỉ số tài chính của công ty để cải thiện lợi nhuận, vì lợi nhuận tăng có thể dẫn đến giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán tăng. Hai là, các nhà quản lý công bố rộng rãi về việc thực hiện tốt trách nhiệm xã hội (Corporate social responsibility – CSR) để nâng cao hình ảnh và làm tăng doanh số bán hàng của công ty. Ba là, các nhà quản lý thực hiện tốt quản trị công ty, vì quá trình quản trị công ty tốt hơn có thể làm tăng hiệu quả công ty. Bốn là, các công ty lớn có xu hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vững chắc hơn nên nó được dự kiến là sẽ làm gia tăng hiệu quả công ty. Cho nên, những công ty có báo cáo các thông tin về trách nhiệm xã hội tốt, quản trị công ty tốt, và quy mô lớn được kỳ vọng sẽ có những ảnh hưởng tốt đối vối việc cải thiện hiệu quả công ty. Như vậy, có nhiều khía cạnh khác nhau để đạt được hiệu quả công ty cao và trách nhiệm xã hội là một trong những khía cạnh được các nhà quản lý sử dụng để làm tăng hiệu quả công ty. Nhưng trách nhiệm xã hội (CSR) là gì? Trách nhiệm xã hội có tác động như thế nào lên hiệu quả công ty (hiệu quả tài chính)? Đó là hướng nghiên cứu chính của nghiên cứu này.
Thuật ngữ “Trách nhiệm xã hội” đã xuất hiện trong lý thuyết Quản trị và Kế toán trong khoảng 45 năm (Wood, 2010). Trong những năm gần đây không chỉ các tổ chức kinh tế mà cả xã hội ngày càng gia tăng mối quan tâm của họ đối với trách nhiệm xã hội (Adams và Frost 2006; Gulyas 2009; Young và Thyil 2009). Theo truyền thống, các công ty phải tập trung các chiến lược của họ cho hoạt động kinh doanh và lợi nhuận (ví dụ như sự khác biệt, sự đa dạng, tập trung và toàn cầu hóa v.v…). Tuy nhiên, gần đây nhu cầu mở rộng các hoạt động của tổ chức vào các hoạt
động xã hội đã trở nên cấp thiết và đóng vai trò quan trọng trong tư duy chiến lược

1
của tổ chức. Các học giả cho rằng những hoạt động như vậy chính là các hoạt động trách nhiệm xã hội (Carroll 1979; Margolis và Walsh 2001). Cụ thể hơn, trách nhiệm xã hội là việc công ty/doanh nghiệp sẽ tự nguyện tích hợp các vấn đề về xã hội và môi trường vào hoạt động kinh doanh của họ và tương tác với các bên liên quan (Djalil,
2003). Hay hiểu rộng hơn, khái niệm này hàm ý rằng trách nhiệm xã hội trở thành một phần không thể thiếu trong chiến lược đầu tư, chiến lược kinh doanh cốt lõi, công cụ quản lý, cũng như các hoạt động của tổ chức – nghĩa là trách nhiệm không phải là chi phí mà là một sự đầu tư đối với tổ chức kinh doanh (Kusuma Dilaga, 2010). Trách nhiệm xã hội là sự khẳng định rằng tổ chức không chỉ hoạt động vì lợi ích của các cổ đông, mà còn vì lợi ích của các bên liên quan khác cụ thể là người lao động, cộng đồng địa phương, chính phủ, tổ chức phi chính phủ (NGOs), người tiêu dùng và môi trường.
Việt Nam, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) đã được truyền bá vào nước ta thông qua hoạt động của các công ty đa quốc gia đầu tư nước ngoài. Các công ty này thường đưa ra các chương trình khuyến cáo ứng xử về văn hoá kinh doanh đem áp dụng vào các địa bàn đầu tư. Ví dụ như “Chương trình tôi yêu Việt Nam” của công ty Honda – Vietnam; “Chương trình giáo dục vệ sinh cá nhân” cho các trẻ em của công ty Unilever; “Chương trình đào tạo tin học Topic 64” của Microsoft, Qualcomm và HP; “Chương trình hỗ trợ dị tật tim bẩm sinh” và “Chương trình ủng hộ nạn nhân vụ sập cầu Cần Thơ” của Vinacapitat, Samsung; “Chương trình khôi phục thị lực cho trẻ em nghèo” của Western Union;… Kết quả, những năm qua đã có một số tổ chức kinh tế chủ động thực hiện trách nhiệm xã hội và nhờ đó mà thương hiệu của họ càng được xã hội biết đến (Mai Linh, Tân Tạo, Duy Lợi, Ngân hàng Á Châu – ACB, Sacombank, Kinh Đô,…).
Như vậy, khái niệm trách nhiệm xã hội không hề mới; đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về trách nhiệm xã hội cũng như nhiều công ty nước ngoài từ lâu đã thực hiện trách nhiệm xã hội một cách nghiêm túc và bài bản. Tuy nhiên, việc thực hiện trách nhiệm xã hội phụ thuộc vào điều kiện phát triển của mỗi quốc gia, nhất là các nước phát triển phương Tây như Hoa Kỳ (USA) và Vương quốc Anh (UK) (Chambers và cộng sự, 2003). Các điều kiện cụ thể đã được thảo luận bởi nhiều nhà nghiên cứu và họ đã xác định là có khoảng cách giữa các nước phát triển và các nước
đang phát triển (Chambers và cộng sự, 2003; Matten và Moon 2004; Chapple và

2
Moon 2005; Visser 2008). Các nhà nghiên cứu như Edmondson và Carroll (1999), Burton và cộng sự (2000) và Khan (2005), cho rằng trách nhiệm xã hội bị ảnh hưởng bởi các mô hình văn hóa và phong tục truyền thống khác nhau nên có thể khó áp dụng ở các nước đang phát triển.
Mặt khác, có một số lượng lớn các nghiên cứu về trách nhiệm xã hội được thực hiện khi sử dụng các khía cạnh trách nhiệm xã hội khác nhau, các quốc gia khác nhau và thị trường khác nhau (Guthrie và Parker, 1989; Deegan và Gordon, 1996; Mathews, 1997; O’Dwyer, 2001; Deegan và cộng sự, 2002; Murphy và Abeysekera,
2008; Clarklon và cộng sự, 2011). Cũng như một số lượng lớn nghiên cứu khác tiến hành điều tra mối quan hệ thực nghiệm giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính công ty (Corporate financial performance – CFP) (Griffin và Mahon, 1997; McWilliam và Siegel, 2000; Chen và Wang, 2011). Tuy nhiên, kết quả của các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính thường mâu thuẫn và hỗn hợp. Cụ thể, một số nghiên cứu cho thấy mối tương quan dương giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính (Waddock và Graves, 1997; Van de velde và cộng sự, 2005; Petrer và Mullen, 2009; Choi và cộng sự, 2010; Kwanbo,
2011; Michelon, 2011; Oeyono và cộng sự, 2011; Stephanus và cộng sự, 2014; Sarah và cộng sự, 2015; Yusuf và Maryam, 2015; Strouhal và cộng sự, 2015; Amran, 2015; Wan và Muhammad, 2016); trong khi một số nghiên cứu khác phát hiện ra mối tương quan âm (Mittal và cộng sự, 2008; Crisostomo và cộng sự, 2100); hay cũng có một số nghiên cứu không tìm thấy bất kỳ mối quan hệ nào giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính (Preston và O’Bannon, 1997; McWilliam và Siegel, 2000; Moneva và Ortas; 2008; Kimbro và Melendy, 2010).
Phần còn lại được phân bổ như sau: mục 1.2, bối cảnh; mục 1.3, câu hỏi nghiên cứu; mục 1.4, mục tiêu nghiên cứu; mục 1.5, đối tượng và phạm vi nghiên cứu; mục
1.6, phương pháp nghiên cứu; mục 1.7, ý nghĩa của nghiên cứu; mục 1.8, bố cục của nghiên cứu.
1.2. Bối cảnh
Vào cuối những năm 1980, trách nhiệm xã hội đã thu hút được sự chú ý trên toàn thế giới và một số học giả đã xác định rằng các công ty có trách nhiệm xã hội được hưởng một số lợi ích. Những lợi ích đó bao gồm các yếu tố như lợi nhuận – việc đạt được một lợi thế cạnh tranh (Smith 1994; Porter và Kramer, 2002); tạo ra một hình

3
ảnh tích cực về công ty (Smith và Stodghill, 1994); thu hút và giữ chân những nhân viên giỏi nhất (Turban và Greening, 1997); và nâng cao lòng trung thành của khách hàng (Brown và Dacin, 1997). Tuy nhiên, một số học giả đã thừa nhận rằng các sáng kiến trách nhiệm xã hội có thể tạo ra chi phí bổ sung (Agarwal, 2008; Sharma và Talwar, 2005) và các công ty có thể gặp một số bất lợi về kinh tế từ việc thực hiện trách nhiệm xã hội (Ullmann, 1985; Turban và Greening, 1997).
Sang thế kỷ 21, tầm quan trọng của trách nhiệm xã hội ở các nước đang phát triển bắt đầu được thảo luận bởi nhiều học giả. Một nghiên cứu về các công ty Châu Á (Belal, 2001) lập luận, các nước đang phát triển đã quan tâm đến các mối nguy hiểm tiềm năng do đầu tư nước ngoài mang lại, phát triển công nghiệp cho thấy những tác động xấu đến môi trường và tệ nạn xã hội. Trong nghiên cứu của Rais và Goedegebuure (2009), Chappel và Moon (2003) về các nước đang phát triển đã nhấn mạnh, toàn cầu hóa đã khuyến khích trách nhiệm xã hội ở các nước đang phát triển nói chung và cấu trúc lại hệ thống doanh nghiệp quốc gia, chính trị, tài chính, giáo dục và văn hóa trách nhiệm xã hội trong các công ty đa quốc gia nói riêng. Hơn nữa, các nước đang phát triển thường có các vấn đề về xã hội và môi trường như quyền con người, ô nhiễm môi trường và các vấn đề lao động. Tuy nhiên, người dân ở các nước đang phát triển cho rằng các công ty đa quốc gia (MNCs) có thể giải quyết những vấn đề này khi tham gia vào các sáng kiến trách nhiệm xã hội theo sự phát triển bền vững và hợp tác với xã hội (Ite, 2004). Các tổ chức kinh doanh luôn suy nghĩ làm thế nào để tăng hiệu quả tài chính của họ. Nếu họ tham gia vào các hoạt động trách nhiệm xã hội, họ có thể giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường (Henderson, 2001). Bởi vì những vấn đề trên thường phổ biến cho các nước đang phát triển, các nhà nghiên cứu cũng đề xuất những biện pháp để khắc phục những vấn đề chung này bằng việc thực hiện trách nhiệm xã hội. Tất nhiên, những vấn đề nêu trên có liên quan trực tiếp đến Việt Nam, một quốc gia đang phát triển. Vì vậy, nghiên cứu này trước hết sẽ xác định việc thực hành trách nhiệm xã hội và xác định lợi ích của trách nhiệm xã hội thông qua kiểm tra các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính của các công ty niêm yết Việt Nam.
Đồng thời các nhà nghiên cứu tại các nước đang phát triển hiện nay cũng đang
bắt đầu xem xét các khái niệm trách nhiệm xã hội ở mức độ sâu hơn. Đặc biệt quan tâm liệu việc thực hiện trách nhiệm xã hội đạt đến mức độ nào (Dober và Halme,

4
2009), các khái niệm phổ biến của phương Tây về trách nhiệm xã hội có thể thực hiện được ở các nước đang phát triển (Jamali, 2007), và liệu trách nhiệm xã hội có mang đến lợi ích kinh doanh cao (Dutta và Durgamohan, 2008). Mặc dù các bên liên quan khác nhau đã buộc các tổ chức ở các nước đang phát triển thực hiện trách nhiệm xã hội, nhưng có vẻ như rất nhiều tổ chức kinh doanh không có đủ kiến thức để hiện thực hóa trách nhiệm xã hội (Fernando, 2007). Hơn nữa, không có quy tắc nào về trách nhiệm xã hội được chấp nhận ở các nước đang phát triển để thực thi yêu cầu các bên liên quan (Chambers và cộng sự, 2003; Blowfield, 2004; Chapple và Moon, 2005; Thorpe và Prakash-Mani, 2006; Visser, 2008). Các học giả khác lại cho rằng sự thiếu hiểu biết về các lợi ích của trách nhiệm xã hội đã cản trở việc thực hiện trách nhiệm xã hội (Fernando, 2007; Agarwal, 2008). Do đó, các bên liên quan và các tổ chức có ít thông tin về khả năng áp dụng các khía cạnh trách nhiệm xã hội ở các nước đang phát triển. Hơn nữa, các thông tin đến từ các tổ chức quốc tế như UN Global Compact và Global Reporting Initiative (GRI) đã hỗ trợ cho sự phát triển của nhiều kế hoạch thực hiện trách nhiệm xã hội.
Tuy nhiên, các nghiên cứu về các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính là quan trọng bởi vì nếu nó được phát hiện là có mối quan hệ cùng chiều, thì điều này sẽ hỗ trợ cho các tranh luận “win – win”. Quả nhiên, các tài liệu đã cho thấy các kết quả trái ngược nhau bởi vì nhiều nghiên cứu bị mắc phải lỗi mô hình thông số sai lệch và/hoặc dữ liệu hạn chế (Elsayed và Paton, 2005). Elsayed và Paton (2005) đã xác định một khoảng trống lớn trong các tài liệu – rất ít nghiên cứu có kiểm soát đối với công ty không đồng nhất hoặc xem xét hiệu ứng động trong mối quan hệ giữa hiệu quả môi trường – xã hội và hiệu quả tài chính”.
Việt Nam là một đất nước có lịch sử lâu dài với niên đại hơn 4000 năm. Phần đông người dân theo đạo Phật và họ tin rằng họ có trách nhiệm lẫn nhau và điều này là rất quan trọng trong sự phát triển cuộc sống của họ. Trách nhiệm này sau đó được mở rộng đến kinh doanh. Do đó, thuật ngữ “Trách nhiệm xã hội” không phải là mới đối với người dân Việt Nam nói chung và các tổ chức nói riêng. Tuy nhiên, khái niệm trách nhiệm xã hội (CSR) là mới đối với các tổ chức kinh doanh, các nhà đầu tư, với người tiêu dùng và toàn xã hội nói chung. Nhất là, sau khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO vào năm 2007, việc thực hiện trách nhiệm xã hội đối với các tổ
chức kinh doanh trở nên đặc biệt quan trọng. Nhưng việc thực hiện trách nhiệm xã hội

5
ở Việt Nam lại còn tương đối khó khăn. Điều này do nguyên nhân bởi chính bản thân các tổ chức cũng chưa có hiểu biết đúng đắn về trách nhiệm xã hội (CSR).
Ngoài ra, nếu xem xét tổng thể các tổ chức kinh tế thì Việt Nam có hơn 90% doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa (Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ) nên sự am hiểu và đầu tư cho việc thực hành trách nhiệm xã hội còn rất nhiều khoảng trống. Mặt khác, cách hiểu phổ biến của phần lớn các tổ chức kinh tế là đồng nhất giữa thực hiện trách nhiệm xã hội với làm từ thiện hay thực hiện trách nhiệm xã hội là không bắt buộc, khi nào có điều kiện thì làm. Thậm chí có nhiều nhà quản lý trong các tổ chức còn coi trách nhiệm xã hội là hoạt động PR, khuếch trương tên tuổi của mình nhằm che dấu hiệu quả kinh tế thực tế. Điều đó đi ngược hoàn toàn với tinh thần của trách nhiệm xã hội. Đồng thời, việc thiếu nguồn nhân lực, tài chính và kỹ thuật của các tổ chức kinh doanh cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện các phát kiến trách nhiệm xã hội.
Mặc dù vậy, một số tổ chức kinh doanh tại Việt Nam đã thực hiện một loạt các hoạt động trách nhiệm xã hội và nhiều báo cáo sáng kiến trách nhiệm xã hội của họ được công bố trên các websites công ty, báo cáo bền vững và các báo cáo thường niên. Bởi vì, các tổ chức đều nhận thức và quan tâm đến sự ảnh hưởng trong các hoạt động của họ đối với môi trường, cộng đồng, người lao động và các bên liên quan khác. Cũng như rất nhiều các tổ chức Việt Nam đã nhận thấy được những lợi ích tích cực liên quan đến các hoạt động trách nhiệm xã hội. Tuy nhiên, các tổ chức vẫn phải đối mặt với những thách thức to lớn trong việc thực hành các hoạt động trách nhiệm xã hội và mức độ hiểu biết về trách nhiệm xã hội vẫn còn rất thấp. Do đó, các nghiên cứu tập trung vào việc xác định các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính của các công ty niêm yết Việt Nam là một nhiệm vụ khó khăn, bởi vì không có bằng chứng bắt buộc cho dù trách nhiệm xã hội đã được thực hiện ở Việt Nam.
Dựa vào những lập luận trên trong các nghiên cứu về trách nhiệm xã hội ở Việt Nam, đã cho tác giả thấy được sự cần thiết mở rộng các nghiên cứu trước đây về trách nhiệm xã hội, về mối quan hệ thực nghiệm giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính đối với các công ty niêm yết trên thị trường vốn Việt Nam. Đó chính là lý do tác giả lựa chọn chủ đề về “Trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính: bằng chứng từ các công ty niêm yết Việt Nam” làm đối tượng nghiên cứu chính cho nghiên cứu này.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu

6
Như thảo luận trong bối cảnh nghiên cứu, sự hiểu biết về trách nhiệm xã hội ở Việt Nam là chưa cao. Mặc dù, một số công ty đã áp dụng và phát triển các khía cạnh trách nhiệm xã hội để báo cáo các hoạt động trách nhiệm xã hội của họ trên cơ sở tự nguyện nhưng lại có tương đối ít các công ty niêm yết đã thực hiện việc công bố trách nhiệm xã hội trong báo cáo thường niên, báo cáo bền vững và websites có nội dung bền vững. Do đó, những cuộc điều tra xa hơn về việc mở rộng các nghiên cứu trước về trách nhiệm xã hội cần được thực hiện.
Các câu hỏi nghiên cứu chính trong nghiên cứu này bao gồm:

(1) Có mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và các phương diện (khía cạnh) trách nhiệm xã hội với hiệu quả tài chính trong các công ty công ty niêm yết Việt Nam hay không?
(2) Có mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty trong các công ty công ty niêm yết Việt Nam hay không?
(3) Các công ty niêm yết có công bố trách nhiệm xã hội luôn có hiệu quả tài chính tốt hơn các công ty niêm yết khác không công bố trách nhiệm xã hội đúng không?
1.4. Mục tiêu nghiên cứu

Để giải quyết sự thiếu rõ ràng về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, cũng như những tranh luận về khả năng áp dụng trách nhiệm xã hội vào các nước đang phát triển như Việt Nam.
– Mục tiêu chung của nghiên cứu này: kiểm tra các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty bằng việc áp dụng phương pháp phân tích nội dung để phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội (CSR) trên cơ sở đó, kiểm tra mức độ thực hành CSR cho các công ty niêm yết Việt Nam và đo lường các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính.
– Mục tiêu cụ thể:

(1) Tính toán và đo lường chỉ số trách nhiệm xã hội sau đó sử dụng chỉ số CSR này kiểm tra các mối quan hệ giữa chỉ số trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty.
(2) Kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và các khía cạnh trách nhiệm xã hội với hiệu quả tài chính của các công ty niêm yết Việt Nam.
(3) Kiểm tra mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty.

7
(4) Xem xét hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm yết có công bố trách nhiệm xã hội so với các công ty niêm yết khác không công bố trách nhiệm xã hội.
1.5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.5.1. Đối tượng nghiên cứu: trách nhiệm xã hội, hiệu quả tài chính, rủi ro công ty và các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty.
1.5.2. Phạm vi nghiên cứu:

Nghiên cứu này được thực hiện dựa vào các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam (chia thành hai nhóm gồm các công ty niêm yết có công bố CSR và nhóm các công ty niêm yết không công bố CSR) giai đoạn 2012 – 2016, để hoàn thành hai kiểm tra thực nghiệm. Một là, khảo sát việc thực hành trách nhiệm xã hội của các công ty niêm yết; hai là, kiểm tra các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty đồng thời so sánh hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm yết có công bố trách nhiệm xã hội và các công ty niêm yết không công bố trách nhiệm xã hội.
Trong phần kiểm tra thực nghiệm đầu tiên được chia thành hai bước: một là, dựa trên phân tích nội dung báo cáo thường niên, báo cáo bền vững và các websites có nội dung bền vững của các công ty niêm yết để phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội bao gồm bốn phương diện (khía cạnh): trách nhiệm với môi trường, với người lao động, với cộng đồng và với sản phẩm/khách hàng. Sau đó dùng chỉ số CSR được phát triển để kiểm tra mức độ thực hành trách nhiệm xã hội và đo lường các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty; hai là, xác định các biến đại diện cho hiệu quả tài chính, các biến kiểm soát và thu thập dữ liệu cho các biến này.
Trong phần kiểm tra thực nghiệm thứ hai sử dụng mô hình kinh tế lượng và các kiểm tra kỹ thuật để kiểm tra các mối quan hệ trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty, so sánh hiệu quả tài chính giữa các công ty niêm yết có công bố CSR và các công ty niêm yết không công bố CSR.
1.6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp sử dụng trong nghiên cứu này được dựa trên các tài liệu hiện nay về trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính. Các thành phần chính của phương pháp được sử dụng như sau:

8
Một là, phát triển khung nghiên cứu; thiết kế mẫu nghiên cứu và thu thập dữ

liệu cho nghiên cứu.

Hai là, sử dụng phương pháp phân tích nội dung để phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội phù hợp với bối cảnh Việt Nam, và để đo lường việc thực hành trách nhiệm xã hội của các công ty niêm yết bằng cách thu thập dữ liệu thứ cấp từ báo cáo thường niên, báo cáo bền vững và websites của các công ty niêm yết có công bố thông tin trách nhiệm xã hội. Đồng thời, xác định các biến đo lường đại diện cho hiệu quả tài chính, rủi ro công ty và thu thập dữ liệu cho biến hiệu quả tài chính và rủi ro công ty từ báo cáo tài chính của các công ty niêm yết.
Ba là, xây dựng mô hình hồi quy cụ thể để đo lường các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính và rủi ro công ty trong nghiên cứu.
Bốn là, sử dụng các mô hình kinh tế lượng (Pooled OLS, FEM, REM) và các kiểm tra kỹ thuật phù hợp để kiểm tra các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty trong nghiên cứu.
Cuối cùng, các kết quả từ phân tích thực nghiệm sẽ được giải thích và được phân tích. Các kết quả ban đầu từ nghiên cứu được so sánh với kết quả từ các nghiên cứu khác để giải thích mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu.
1.7. Ý nghĩa của nghiên cứu

Các nghiên cứu hiện nay đã có những đóng góp thiết thực đáng kể cho lĩnh vực trách nhiệm xã hội vì nó chứa các hiệu quả kinh tế cũng như hỗ trợ việc áp dụng các chiến lược và chính sách trách nhiệm xã hội thích hợp. Hiệu quả kinh tế đạt được từ các kết quả phân tích hồi quy, và các chiến lược và chính sách trách nhiệm xã hội đã được xác định từ sự phát triển của các chỉ số trách nhiệm xã hội. Phần lớn các nghiên cứu hiện có về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính đã tập trung vào quan điểm của các nước phương Tây (Mỹ, Anh và Úc). Các tài liệu đã nhấn mạnh rằng một khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội thích hợp là một yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo các chính sách và nguyên tắc trách nhiệm xã hội ở các nước đang phát triển (Rathnasiri, 2003; Fernando, 2008; Moon, 2002). Hiện nay các nhà nghiên cứu về trách nhiệm xã hội như McWilliams và cộng sự (2006), Rodríguez và cộng sự (2006) đã chỉ trích các nghiên cứu về trách nhiệm xã hội là những lời tuyên bố kém vì
không có định nghĩa được chấp nhận, thiếu vận hành và thước đo được chấp nhận.

9
Nghiên cứu này cố gắng khắc phục những vấn đề trên bằng cách phát triển khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội phù hợp với bối cảnh ở Việt Nam. Ngoài ra, khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội có thể được sử dụng như là một công cụ để tiếp tục các nghiên cứu trách nhiệm xã hội và ra quyết định đối với các nhà nghiên cứu trong tương lai. Hơn nữa, quá trình phát triển khung nghiên cứu trách nhiệm xã hội có thể hữu ích cho việc quản lý cũng như các bên liên quan để giúp họ hiểu được các khái niệm trách nhiệm xã hội (Carroll, 2004; Maon và cộng sự, 2009).
Mặt khác, như đã đề cập nhiệm vụ khó khăn nhất cho các nghiên cứu trách nhiệm xã hội là đo lường hiệu quả trách nhiệm xã hội. Wood (2010), có một số nghiên cứu trách nhiệm xã hội đã sử dụng nhiều thước đo trách nhiệm xã hội khác nhau nhưng các nghiên cứu này không thể được phân thành các nguyên tắc, quy trình hoặc kết quả. Điều này có nghĩa việc lượng hóa khái niệm trách nhiệm xã hội là rất quan trọng vì nó sẽ giúp các nhà nghiên cứu đo lường được các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và cho phép sự minh bạch giữa nhà quản lý và các bên liên quan. Abbott (1979) nêu hai vấn đề chính về đo lường trách nhiệm xã hội cho các nghiên cứu trong lĩnh vực trách nhiệm xã hội: (i) việc thiếu các dữ liệu định lượng các hoạt động xã hội và (ii) khó khăn của các phương pháp được sử dụng bởi các học giả để nhận ra những hiệu ứng đầy đủ của xã hội. Bởi vì, sử dụng các con số định lượng có thể nhận ra hiệu quả trách nhiệm xã hội của công ty. Kết quả là, nhà quản lý có thể đưa ra quyết định mà những quyết định này sẽ làm giảm xung đột giữa các tổ chức và nhân viên, cộng đồng và khách hàng của mình. Do vậy, việc lượng hóa trách nhiệm xã hội thông qua việc phát triển chỉ số trách nhiệm xã hội của nghiên cứu này sẽ bổ sung đáng kể cho các tài liệu về trách nhiệm xã hội hiện nay trong bối cảnh Việt
Nam.

Cuối cùng, như đã nêu, mục tiêu chính của nghiên cứu này là kiểm tra các mối quan hệ tổng thể giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, và rủi ro công ty khi mà có tương đối hạn chế các nghiên cứu thực nghiệm tương tự được thực hiện trước đó ở Việt Nam. Điều này sẽ hỗ trợ và khuyến khích các công ty tăng cường đầu tư cho các hoạt động trách nhiệm xã hội và làm nền tảng cho các nghiên cứu tương lai về các mối quan hệ này. Như vậy, nghiên cứu này đã có đóng góp tốt đối với thực hành trách nhiệm xã hội của các công ty niêm yết trong bối cảnh Việt Nam.
1.8. Bố cục nghiên cứu

10
Nghiên cứu này bao gồm năm chương. Các chương này giới thiệu về các chủ đề và cung cấp kiến thức nền tảng cho nghiên cứu. Nó bao gồm một thiết kế cho các mục tiêu và phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu.
Chương 2: Thảo luận về các lý thuyết và các tài liệu thực nghiệm liên quan đến trách nhiệm xã hội, hiệu quả tài chính, rủi ro công ty và các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính và rủi ro công ty. Chương này bắt đầu với việc thảo luận về khái niệm trách nhiệm xã hội, các lý thuyết chính liên quan trách nhiệm xã hội, lý do tại sao phải đầu tư cho trách nhiệm xã hội và lợi ích của trách nhiệm xã hội mang lại cho các tổ chức. Sau đó tổng quan các vấn đề về mối quan hệ thực nghiệm giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính ở các nước phát triển, các nước đang phát triển và Việt Nam. Tiếp theo, xem xét mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty. Kế tiếp xem xét hiệu quả tài chính giữa công ty có công bố trách nhiệm xã hội và công ty không công bố trách nhiệm xã hội. Cuối cùng, xác định “gaps” trong nghiên cứu. Từ những nền tảng lý luận này, hình thành giả thuyết nghiên cứu và khung nghiên cứu chung để sử dụng trong nghiên cứu án này.
Chương 3: Thảo luận về dữ liệu và phương pháp nghiên cứu. Đầu tiên, giải thích khung nghiên cứu và mô tả việc phát triển khung nghiên cứu để hiểu được những ảnh hưởng của các biến lên hiệu quả tài chính. Tiếp theo liên quan đến lựa chọn mẫu nghiên cứu, việc lựa chọn và đo lường các biến, xây dựng mô hình hồi quy để kiểm tra các mối quan hệ, và lựa chon các mô hình kinh tế lượng và các kiểm tra kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu.
Chương 4: Giải thích các kết quả nghiên cứu chính của nghiên cứu. Chương này thảo luận các kỹ thuật phân tích được đề cập trọng trong Chương 3 dựa trên các giả thuyết nghiên cứu trong Chương 2 thông qua ba bước để đạt mục tiêu nghiên cứu: (i) sử dụng phân tích nội dung, (ii) thống kê mô tả, (iii) hệ số tương quan, (iv) giải thích kết quả phân tích hồi quy về các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính và rủi ro công ty.
Chương 5: Kết luận. Cụ thể, Chương này đưa ra một vài kiến nghị, hàm ý

chính sách, những hạn chế và đề xuất cho các hướng nghiên cứu tương lai.

11
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT

2.1. Giới thiệu

Chương 2 giới thiệu các lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến trách nhiệm xã hội và các mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội với hiệu quả tài chính và rủi ro. Thứ nhất, nội dung bao gồm định nghĩa về trách nhiệm xã hội, hiệu quả tài chính và rủi ro công ty. Thứ hai, các lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty để có một sự hiểu biết sợ bộ về các mối quan hệ này trong thực
tế.

Nhiều nghiên cứu đã hướng đến việc xác định các cơ chế của trách nhiệm xã hội và làm thế nào trách nhiệm xã hội liên quan đến việc làm tăng lợi thế cạnh tranh. Ví dụ, các nhà nghiên cứu đã cố gắng xác định các tác động của trách nhiệm xã hội lên các bên liên quan khác nhau, chẳng hạn như nhân viên, khách hàng và xã hội. Một số nghiên cứu đã điều tra làm thế nào các hoạt động trách nhiệm xã hội của công ty ảnh hưởng đến lợi nhuận của nó (Waddock và Graves, 1997; Luo và Bhattacharya,
2006) đã lập luận rằng trách nhiệm xã hội làm tăng doanh thu và giảm chi phí (Cruz và Wakolbinger, 2008; Maloni và Brown, 2006). Các nhà nghiên cứu khác (Ruf và cộng sự, 2001; Griffin và Mahon, 1997) đã chỉ ra rằng việc cải thiện trách nhiệm xã hội sẽ dẫn đến hiệu quả tài chính cao hơn, cho dù hiệu quả này là do giảm chi phí hoặc tăng doanh thu. Friedman (1970), trách nhiệm chính của công ty là tối đa hóa sự giàu có của cổ đông. Garriga và Melé (2004), tối đa hóa giá trị của cổ đông phù hợp với sự thỏa mãn lợi ích nhất định của những người trong tổ chức và họ cũng nói rằng các công ty nhận được nhiều lợi ích qua việc đầu tư vào các nhu cầu xã hội và “việc đầu tư vào các hoạt động từ thiện có thể là cách duy nhất để cải thiện lợi thế cạnh tranh của một công ty”. Ngoài ra, từ quan điểm của lý thuyết các bên liên quan, trách nhiệm xã hội có thể được đánh giá trong điều kiện của một công ty đáp ứng nhu cầu của nhiều bên liên quan. Ruf và cộng sự (2001) cho rằng đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau để “thỏa mãn yêu cầu các bên liên quan, đi từ giảm thiểu chi phí đến tối đa hóa xã hội. Bằng cách đầu tư có chiến lược vào nhu cầu các bên liên quan, công ty đạt được lợi thế cạnh tranh bằng việc phát triển thêm các kỹ năng bổ sung mà đối thủ
cạnh tranh gần như không thể bắt chước”.

12
Các phần tiếp theo được trình bày như sau. Mục 2.2, trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR). Mục 2.3, hiệu quả tài chính công ty (CFP). Mục 2.4, các quan điểm lý thuyết về trách nhiệm xã hội. Mục 2.5, các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính. Mục 2.6, mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và rủi ro công ty. Mục 2.7, xác định khoảng trống nghiên cứu. Mục 2.8, giả thuyết nghiên cứu. Cuối cùng, phần tóm tắt Chương 2.
2.2. Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (Corporate social responsibility –

CSR)

2.2.1. Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR)

2.2.1.1. Định nghĩa

Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trách nhiệm xã hội. Mỗi doanh nghiệp, tổ

chức, chính phủ nhìn nhận CSR dưới những góc độ riêng và quan điểm riêng, phụ thuộc vào điều kiện, đặc điểm và trình độ phát triển của mình. Keith Davis (1973) đưa ra một khái niệm khá rộng: “CSR là sự quan tâm và phản ứng của doanh nghiệp với các vấn đề vượt ra ngoài việc thỏa mãn những yêu cầu pháp lý, kinh tế, công nghệ”. Trong khi đó, Caroll (1999) cho rằng trách nhiệm xã hội còn có phạm vi lớn hơn “là tất cả các vấn đề kinh tế, pháp lý, đạo đức và những lĩnh vực khác mà xã hội trông đợi trong mỗi thời điểm nhất định”.
Theo Matten và Moon (2004): “CSR là một khái niệm bao gồm nhiều khái niệm khác như đạo đức kinh doanh, doanh nghiệp làm từ thiện, công dân doanh nghiệp, tính bền vững và trách nhiệm môi trường. Đó là khái niệm động và luôn được thử thách trong từng bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội đặc thù”.
Theo Ủy ban Kinh tế Thế giới về phát triển bền vững: “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là sự cam kết của doanh nghiệp nhằm đóng góp cho phát triển kinh tế bền vững thông qua những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và các thành viên gia đình họ, cho cộng đồng và cho toàn xã hội theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như sự phát triển chung của xã hội”.
Như vậy, khái niệm trách nhiệm xã hội theo thời gian đã mở rộng đối tượng ảnh hưởng của mình ra nhiều doanh nghiệp và tổ chức liên quan. Các doanh nghiệp đó phải quan tâm tới việc các hoạt động của mình có ảnh hưởng như thế nào tới các vấn đề xã hội xung quanh như với cộng đồng (quyền con người, các vấn đề về lao
động…), bảo vệ môi trường… Tuy nhiên, sau rất nhiều định nghĩa về trách nhiệm xã

13
hội thì khái niệm của Ủy ban Kinh tế Thế giới về phát triển bền vững cho thấy rõ hơn bản chất của trách nhiệm xã hội. Do đó, nghiên cứu thống nhất với khái niệm của Ủy ban Kinh tế Thế giới về phát triển bền vững.
2.2.1.2. Các cách tiếp cận trách nhiệm xã hội

Mặc dù hiện nay trách nhiệm xã hội là một vấn đề tương đối phổ biến. Song, trên thực tế, còn có nhiều cách tiếp cận khác nhau về nội dung và phạm vi của trách nhiệm xã hội, dưới đây là một số cách tiếp cận phổ biến:
Tiế p cận theo mô hìn h “Ki m t ự t háp” c ủ a A. Carroll (1999)

Mô hình này có tính toàn diện và được sử dụng rộng rãi nhất. Mô hình “Kim tự tháp” của A. Carroll thể hiện rõ nhất và bao quát nhất các lĩnh vực quan tâm của trách nhiệm xã hội.

Hình 2.1: Mô hình “kim tự tháp trách nhiệm xã hội (Nguồn: Carroll Archie, 1999) Theo mô hình trên, trách nhiệm xã hội bao gồm trách nhiệm kinh tế, trách
nhiệm pháp lý, trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm từ thiện. Ranh giới giữa các tầng trong “Kim tự tháp” là không rõ ràng, tác động lẫn nhau. Việc tuân thủ quy định pháp luật chắc chắn đưa đến các chi phí kinh tế cho tổ chức. Và quy tắc đạo đức xã hội ngoài luật luôn mở rộng (theo trình độ phát triển của xã hội), tạo áp lực lên hệ thống pháp luật, bắt buộc các nhà làm luật phải luôn bám sát thực tiễn xã hội.
Bên cạnh đó, một số tác giả cho rằng: trách nhiệm xã hội có thể tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau và bao trùm nhiều khía cạnh. Ngoài cách tiếp cận theo mô hình “Kim tự tháp” của A. Carroll, các tổ chức có thể tiếp cận theo các bên liên quan.
Tiế p cận theo các bên liên quan

Các bên liên quan, ảnh hưởng và hưởng lợi của việc thực thi trách nhiệm xã hội có thể bao gồm: Cổ đông/chủ sở hữu doanh nghiệp, người lao động, đối tác, khách hàng, cộng đồng và các đối tượng khác như cơ quan quản lý, các hiệp hội hay các tổ chức phi lợi nhuận hay các tổ chức quốc tế (Matten và Moon, 2005).
14
Theo hình 2, trách nhiệm xã hội đồng nghĩa với việc doanh nghiệp tổ chức hoạt động kinh doanh có trách nhiệm đối với người lao động, có trách nhiệm bảo vệ môi trường, trách nhiệm đóng góp cho lợi ích cộng đồng, trách nhiệm đối với khách hàng, nhà cung ứng.

Hình 2.2: Các đối tượng tác động của trách nhiệm xã hội

Các nội dung thực thi trách nhiệm xã hội và các mức độ quan tâm của các bên liên quan đến việc thực thi trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được tóm tắt trong bảng sau.
Bảng 2.1: Mức độ quan tâm của các bên liên quan đối với trách nhiệm xã hội

Nội dung
Chủ sở

hữu
Khách

hàng
Người lao

động
Cộng

đồng
Cơ quan

quản lý

Trách nhiệm_ kinh tế 1 4 2 3 5

Trách nhiệm_ pháp lý 3 2 1 4 5

Trách nhiệm_ đạo đức 4 1 2 3 5

Trách nhiệm_ từ thiện 3 4 2 1 5

Các số từ 1 đến 5 chỉ thứ tự quan tâm của từng bên liên quan đến các nội dung trách

nhiệm xã hội. (Nguồn: Carroll và Buchholtz, 2003)

Như vậy, qua bảng trên có thể thấy rằng tùy thuộc vào mục tiêu của từng đối tượng cụ thể mà các khía cạnh trách nhiệm xã hội sẽ được nhận thức theo từng mức độ khác nhau. Đối với chủ sở hữu công ty, họ luôn xem trách nhiệm kinh tế là mực tiêu quan tâm hàng đầu đối với họ vì lợi ích của cổ đông và chính bản thân công ty. Trong khi khách hàng luôn đặt vấn đề đạo đức của công ty vào sản phẩm họ sản xuất và cung cấp trên thị trường là mối quan tâm chính, thì người lao động lại xem trách
nhiệm thực thi pháp luật của công ty đối với họ lại là vấn đề thiết yếu để bảo vệ quyền

15
và lợi ích của chính bản thân cũng như gia đình của họ. Đối với cộng đồng, luôn đề cao các hoạt động tham gia từ thiện của các công ty, doanh nghiệp thông qua các hoạt động như bảo vệ môi trường, đóng góp, ủng hộ, tài trợ, quyên góp, giúp đỡ các đối tượng gặp khó khăn, thiên tai.v.v… là vấn đề quan trọng bởi vì ngoài trách nhiệm với cơ quan chủ quản thông qua việc đóng thuế thì các công ty, doanh nghiệp cũng cần có trách nhiệm với cộng đồng xung quanh nơi họ đặt cơ sở hạ tằng để thực hiện các hoat động sản xuất kinh doanh. Cuối cùng, các cơ quan chủ quản, họ xem cả bốn trách nhiệm trên đều quan trọng và thiết yếu mà bất kỳ một công ty, một doanh nghiệp hay một bên liên quan nào cũng cần có để đảm bảo lợi ích chung cho toàn xã hội.
Tiế p cận chuỗ i giá trị

Theo cách tiếp cận này, Michael Porter và Kramer (2006) và các nhà nghiên cứu đã xây dựng chiến lược thực hiện trách nhiệm xã hội gắn liền với những yêu cầu thực thi trách nhiệm xã hội bắt buộc và tự nguyện. Nó có thể trở thành một bộ phận trong chiến lược của tổ chức nếu tổ chức thực sự quan tâm, hiểu được vai trò của trách nhiệm xã hội trong thực hiện các mục tiêu của mình.
Bảng 2.2: Cách tiếp cận chuỗi giá trị

Chuỗi giá trị Các vấn đề liên quan đến trách nhiệm xã hội
Các hoạt động hỗ trợ
Cơ sở hạ tầng (các mối quan hệ
về tài chính, kế hoạch, đầu tư)

Quản trị nguồn nhân lực (tuyển dụng, đào tạo, hệ thống đãi ngộ,…)

Phát triển công nghệ (thiết kế sản phẩm, thiết kế quy trình, nghiên cứu vật tư, nghiên cứu thị trường,…)

Mua sắm (vật tư , máy móc,
dịch vụ ngoài)
Thực hành các báo cáo tài chính trung thực; Đảm bảo sự minh bạch hóa; Thúc đẩy thay đổi chính sách;…
Đào tạo và tập huấn công việc cho người lao động; Đảm bảo điều kiện làm việc an toàn; Đánh giá đúng sự đa dạng và phân biệt hóa; Quan tâm chăm sóc sức khỏe và các lợi ích khác; Có chế độ đãi ngộ đối với người lao động; Có chế độ khi người lao động nghỉ việc,;…
Duy trì các mối quan hệ với các cơ sở đào tạo; Nghiên cứu về các giá trị đạo đức; Sản xuất các sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng; Sử dụng các nguồn nguyên liệu bền vững; Sử dụng các nguồn nguyên liệu và sản xuất các sản phẩm tái chế.
Mua sắm và thực hiện chuỗi cung ứng sạch (tránh các vấn đề liên quan đến hành vi bất minh trong mua bán, sử dụng các lao động trẻ em,…); Sử dụng
các nguồn nguyên liệu đặc biệt (lông thú,..); Tối đa

16

Tác nghiệp trực tiếp
Logistic mua (nhập kho nguyên liệu và quản lý kho, cơ sở dữ liệu, dịch vụ,…)
Vận hành (tạo sản phẩm, dịch vụ…)

Logistic bán (nhận đơn hàng, phân phối sản phẩm, dịch vụ) Marketing và bán (bán, khuyến mại, quảng cáo, …)

Dịch vụ sau khi bán (hỗ trợ khách hàng; giải quyết các phàn nàn của khách; sửa chữa, thay thế, …)
Giá trị gia tăng
hóa nguồn lực tự nhiên

Ảnh hưởng của việc vận chuyển (hiệu ứng nhà kính, tắc nghẽn đường…)

Bức xạ và chất thải; Ảnh hưởng đến sinh thái và đa dạng sinh học; Sử dụng năng lượng và nước sạch; Điều kiện an toàn trong lao động và quan hệ với người lao động; Nguồn vật liệu nguy hiểm
Đóng gói rác thải; Các ảnh hưởng của vận chuyển

Các hoạt động marketing và quảng cáo (đảm bảo quảng cáo trung thực, chú ý các hoạt động quảng cáo cho trẻ em,…); Chính sách giá (không lũng loạn giá, quan tâm đến chính sách giá đối với người nghèo,…); Thông tin trung thực cho người tiêu dùng;…
Loại bỏ sản phẩm cũ; Đảm bảo việc thay thế và vận hành cho khách hàng (dầu máy ô tô, mực in…); Đảm bảo sự an toàn thông tin của khách hàng
(Nguồn: Porter và Kramer, 2006)

2.2.2. Đo lường trách nhiệm xã hội (CSR)

Các tài liệu trách nhiệm xã hội cho thấy có nhiều thách thức trong việc đo lường hiệu quả xã hội của công ty (Graves và Waddock, 1994). Trong thực tế, do các định nghĩa khác nhau về trách nhiệm xã hội nên thiếu sự đồng thuận trong cách đo trách nhiệm xã hội. Abbott và Monsen (1979) nói rằng có hai khó khăn cơ bản trong việc đo lường trách nhiệm xã hội liên quan đến mục đích nghiên cứu. Việc đầu tiên trong số này là việc thiếu thông tin định lượng về các hoạt động xã hội. Để khắc phục điều này, họ cho rằng đối với mục đích nghiên cứu các hoạt động trách nhiệm xã hội phải được đo và được báo cáo thống nhất thông qua phân tích thống kê bởi một số lượng lớn các công ty. Khó khăn thứ hai là phát triển một phương pháp phù hợp để đo lường toàn bộ tác động của các hoạt động xã hội của công ty lên phạm vi xã hội rộng lớn hơn.
Nhiều học giả đã đo trách nhiệm xã hội theo những cách khác nhau. Griffin và

Mahon (1997) nghiên cứu mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính

17
khi sử dụng một thước đo duy nhất của hiệu quả xã hội – ô nhiễm môi trường. Ví dụ khác về các thước đo khác nhau của trách nhiệm xã hội bao gồm sử dụng xếp hạng tài chính và các chỉ số được phát triển như: KLD Kinder, Lydenberg, Domini và Co (Waddock và Graves 1997), trong đó điều tra một loạt các nguồn và sử dụng các tiêu chí định lượng để xác định các giá trị phù hợp; Vigeo của Châu Âu (Vermeir và cộng sự, 2005); cơ sở dữ liệu đầu tư xã hội Canada (Canadian Social Investment Database – CSID) (Mahoney và Roberts 2007); bộ dữ liệu doanh nghiệp Monitor CSP cho các công ty Úc (Kristoffersen và cộng sự, 2005); Toxics Release Inventory (TRI), trong đó chỉ tập trung vào một vài ngành công nghiệp; công dân doanh nghiệp tốt (Best Corporate Citizens). Gần đây, STRING Consultants đã phát triển một chỉ số CSR cho các công ty Sri Lanka (Anthonisz, 2011). Saleh và cộng sự (2008) giải thích rằng những đánh giá được “dựa trên tỷ trọng bằng nhau của bảy tiêu chí. Bảy tiêu chí bao gồm lợi nhuận trung bình của cổ đông trong ba năm và điểm trung bình trên sáu thước đo hiệu quả xã hội được báo cáo bởi một công ty nghiên cứu đầu tư xã hội đáng tin cậy” (Murphy và Poist 2002, trang 6).
Hiện nay, nhiều hệ thống đo lường trách nhiệm xã hội được sử dụng bởi các nhà nghiên cứu. Các hệ thống đo lường được biết như là các chỉ số chủ quan. Các chỉ số đầu tiên là khảo sát của sinh viên kinh doanh (Heinz, 1976), giảng viên kinh doanh (Moskowitz, 1972) hoặc thậm chí các bảng xếp hạng tài sản (McGuire và cộng sự,
1988). Các nghiên cứu khác đã sử dụng công cụ điều tra buộc phải lựa chọn (Aupperle và cộng sự, 1985; Aupperle, 1991), chỉ số uy tín của công ty (McGuire và cộng sự,
1988.) và phân tích nội dung của văn bản (Wolfe, 1991) như các công cụ đo lường trong nghiên cứu trách nhiệm xã hội. Ngoài ra, một số chỉ số trách nhiệm xã hội khác nhau cũng có sẵn (Hopkins 2005) chẳng hạn như các chỉ số cộng đồng doanh nghiệp (Business in the Community – BITC), chỉ số FTSE4Good, chỉ số Bền vững Dow Jones (Dow Jones Sustainability Index – DJSI), đạo đức kinh doanh 100, xếp hạng trách nhiệm (AA), báo cáo Sáng kiến toàn cầu (GRI) và chỉ số KLD (Graves và Waddock,
1994). Thật không may, các phép đo trách nhiệm xã hội sử dụng thông thường không thể áp dụng trực tiếp vào các nghiên cứu của các nước đang phát triển (Hopkins,
2005) bởi vì các thước đo này dựa trên các công ty của các nước phát triển (Fortune
500 công ty) và các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội quốc tế (Pháp luật Lao động Quốc tế).

18
Do đó, các nhà nghiên cứu ở các nước đang phát triển thường sử dụng dữ liệu thứ cấp để đo hiệu quả trách nhiệm xã hội từ các cuộc điều tra khác nhau. Theo Ghauri và Gronhaug, (2005) – “Dữ liệu thứ cấp là hữu ích không chỉ để tìm thông tin để giải quyết vấn đề nghiên cứu mà còn để hiểu rõ hơn và giải thích vấn đề nghiên cứu của chúng tôi”. Ngược lại với các xếp hạng tài chính, dữ liệu thứ cấp cung cấp một cách tiếp cận bổ sung cho trách nhiệm xã hội vì chúng đều được dựa trên các hoạt động thực tế của công ty mà không có sự đánh giá từ các cơ quan khác. Do đó, thước đo phổ biến nhất đối với trách nhiệm xã hội sẽ là chỉ số trách nhiệm xã hội, được trích xuất từ các dữ liệu thứ cấp. Vì vậy, nghiên cứu này sử dụng dữ liệu thứ cấp để định lượng chỉ số trách nhiệm xã hội bằng cách sử dụng báo cáo thường niên và báo cáo bền vững thông qua phương pháp phân tích nội dung.
2.2.3. Tại sao phải đầu tư cho trách nhiệm xã hội (CSR)?

Khái niệm trách nhiệm xã hội đang phát triển liên tục do sự tương tác với những ảnh hưởng bên trong và bên ngoài. Silberhorn và Warren (2007) cho rằng khái niệm trách nhiệm xã hội phát triển để đáp ứng với sự tương tác giữa các giá trị tổ chức và ảnh hưởng bên ngoài. Các giá trị quan trọng của một tổ chức có thể được mô tả như là tài nguyên, văn hóa và cấu trúc của nó (Wheelen và Hunger, 2002).
Một số nghiên cứu đã đề xuất rằng mặc dù các yếu tố bên trong đã được thảo luận ở trên, các tổ chức chủ yếu phản ứng đối với trách nhiệm xã hội từ áp lực bên ngoài chứ không phải bên trong để xác định trách nhiệm xã hội (L’Etang, 1994; Vogel, 2005). Ví dụ, trong môi trường xã hội và kinh doanh hiện tại, có một nhu cầu ngày càng tăng của công chúng đối với các nhà lãnh đạo của tổ chức bao gồm các vấn đề xã hội như là một phần trong chiến lược của họ (Lantos, 2001). Các nhà quản lý thường xuyên phải chịu áp lực từ các bên liên quan khác nhau trong việc phân bổ nguồn lực tài chính cho các hoạt động trách nhiệm xã hội. Các áp lực đến từ các bên liên quan như: người lao động, người tiêu dùng, cộng đồng và các nhóm môi trường (McWilliams và Siegel 2001) được thảo luận dưới đây:
2.2.3.1. Áp lực từ người lao động
Những áp lực từ các nhân viên được thảo luận bởi Musah (2008) bao gồm sự nhìn nhận ngày càng tăng của công chúng về các quyền lợi nhất định của nhân viên tại nơi làm việc, không phân biệt đối xử trong tuyển dụng, sa thải và thăng cấp. Matten và Moon (2008) cho rằng trách nhiệm xã hội đã giải quyết rõ ràng các vấn đề như tiền

19
lương công bằng, giờ và điều kiện làm việc, chăm sóc sức khỏe, dự phòng và bảo vệ chống lại sa thải bất công. Các ví dụ quan trọng khác về áp lực từ người lao động được xem như là chỉ số uy tín của trách nhiệm xã hội (KLD). Các khía cạnh bao gồm các vấn đề tại nơi làm việc và “nhân viên là quan hệ lao động”, quyền lợi nhân viên và nhân viên tham gia. KLD sử dụng các vấn đề về người lao động cho mục đích đo lường trách nhiệm xã hội (Graves và Waddock, 1994; Sharfman, 1996; Turban và Greening, 1997).
Các nước phát triển như Anh và Đức có nhiều mối quan tâm về sức khỏe của người lao động, an ninh xã hội và sự đóng góp vào dịch vụ y tế quốc gia của họ thông qua thuế (Matten và Moon, 2008). Phân tích của Aguilera và cộng sự (2007) cho thấy nhận thức về trách nhiệm xã hội định hình thái độ và hành vi của nhân viên đối với công ty và nhấn mạnh rằng làm thế nào nhân viên có thể thúc đẩy các công ty tham gia vào các sáng kiến trách nhiệm xã hội. Trên thực tế, sự công bằng trong nhận thức ở bất kỳ môi trường làm việc nào đều có một tác động lên phúc lợi của nhân viên (sự hài lòng trong công việc, căng thẳng và cảm xúc) cộng với sự cân nhắc của tổ chức như sự vắng mặt và cam kết của nhân viên (Colquitt, 2001). Trên thực tế, khi một tổ chức tạo một môi trường làm việc không thiên vị, nhân viên rất vui và rất chăm chỉ.
Khi người lao động hạnh phúc thì không khó để thuyết phục họ tham gia làm tình nguyện viên cho các hoạt động trách nhiệm xã hội của công ty – gọi là nhân viên tình nguyện. Trung tâm công dân doanh nghiệp tại Đại học Boston (1999) kết luận rằng nhân viên tình nguyện cung cấp nhiều lợi ích theo ba cách (1) cho các công ty, (2) cho người lao động và (3) là cộng đồng. Theo Hahn (2003) những lợi ích của hoạt động tình nguyện “cải thiện mối quan hệ với cộng đồng xung quanh, cải thiện hình ảnh công cộng, xây dựng một lực lượng lao động gắn kết và năng động, làm tăng hiệu quả và năng suất lao động, giúp thiết lập và nâng cao uy tín hoặc thương hiệu của công ty trong các thị trường mới hoặc hiện tại”.
Ở đây điều quan trọng để thảo luận về sự cần thiết của các tổ chức thực hiện phương pháp trách nhiệm xã hội để tránh đình công hoặc tỷ lệ lao động có thu nhập cao, cải thiện quan hệ với người lao động và duy trì các thị trường tiêu dùng của các tổ chức. Collier và Esteban (2007) trong lời giải thích của họ về vai trò của trách nhiệm xã hội trong việc nâng cao động lực và cam kết của người lao động, cho rằng “việc
cung cấp hiệu quả của các sáng kiến trách nhiệm xã hội và môi trường của công ty

20
phụ thuộc vào phản ứng của nhân viên. Đối với nhân viên để thỏa mãn yêu cầu trách nhiệm xã hội, họ phải có động lực và cam kết khắc phục những thách thức và đạt được các mục tiêu của hành vi trách nhiệm công ty”.
2.2.3.2. Áp lực từ người tiêu dùng/khách hàng

Tương tự, áp lực từ người tiêu dùng/khách hàng bao gồm kỳ vọng rằng công ty sẽ sản xuất các sản phẩm an toàn và cung cấp thông tin cho người tiêu dùng nhiều hơn (Musah, 2008). Các tổ chức cần phải nhận thức được những nhu cầu của người tiêu dùng và hành động vì các nhu cầu của họ như một phần trong chiến lược kinh doanh của mình; ví dụ, các dịch vụ sau khi bán hàng, và các dịch vụ bảo vệ khách hàng.
Nói chung, khách hàng yêu cầu một khoảng thời gian bảo hành cho sản phẩm mà họ mua, các dịch vụ gia tăng giá trị và khả năng trả lại bất kỳ sản phẩm đã được mua, nếu nó không đáp ứng được kỳ vọng của họ (Maignan và cộng sự, 2005). Nếu tổ chức không xem xét nhu cầu của khách hàng, nó sẽ mất thị phần. Do đó, áp lực từ khách hàng ảnh hưởng đến rủi ro thị trường của tổ chức. Các tài liệu học thuật và quản lý đã ít cung cấp hướng dẫn để giúp các nhà tiếp thị tích hợp các sáng kiến khác nhau vào một chương trình quan trọng có thể bao gồm một loạt các trách nhiệm của công ty. Ví dụ, người ta cho rằng đáp ứng nhu cầu của khách hàng và động viên người lao động để thỏa mãn sự kỳ vọng của công ty (George, 2003). Nghiên cứu các bên liên quan cho thấy việc đối xử với khách hàng và nhân viên có ảnh hưởng nhiều lên hiệu quả tài chính (Berman và cộng sự, 1999). Vì vậy, cách tốt hơn để cải thiện việc đối xử với khách hàng là áp dụng trách nhiệm xã hội như một chiến lược tiếp thị (Maignan và cộng sự, 2005).
Smith và Langford (2009) đã chỉ ra rằng “kinh doanh có thể mang lại lợi ích trách nhiệm xã hội, đặc biệt là lợi ích thương mại do tác động của trách nhiệm xã hội lên hành vi và thái độ của người tiêu dùng” (p.100). Bhattacharya và Sen (2004) kết luận rằng người tiêu dùng sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho các sản phẩm của các tổ chức có trách nhiệm xã hội. Tuy nhiên, nếu công ty bỏ qua nhu cầu tiêu dùng của họ, hoạt động tẩy chay có thể dẫn đến kết quả xấu và trở thành một vấn đề lớn. Đây là một trong những biểu hiện của áp lực từ người tiêu dùng. Smith (2003) cho rằng thông điệp tẩy chay sản phẩm có liên quan đến những phản ứng tiêu cực lớn trên thị trường
chứng khoán. Smith (2003) giải thích rằng “tẩy chay có thể là một ví dụ rõ ràng nhất

21
của một hiện tượng lớn hơn về hành vi tiêu dùng chịu ảnh hưởng bởi nhận thức trách nhiệm xã hội sai lầm của tổ chức”.
2.2.3.3. Áp lực từ cộng đồng

Ngoài việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ, xã hội hy vọng rằng các tổ chức sẽ cung cấp sự an toàn, cải thiện đời sống, việc làm, cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi trường mà không ảnh hưởng đến hoạt động và lợi ích văn hóa (Agarwal, 2008). Sự mong đợi của xã hội đối với việc cải thiện đời sống bao gồm sự phát triển của giáo dục, y tế, tôn giáo, chính trị và công nghệ hiện đại. Idemudia và Ite (2006) nói rằng các công ty thực hành trách nhiệm xã hội chủ yếu nhắm đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo, công tác phòng chống vi phạm quyền con người và bảo vệ môi trường. Những kỳ vọng này khác nhau đối với từng nền văn hóa. Mong đợi của xã hội và mong đợi của tổ chức khá khác nhau. Sự không phù hợp này đặt áp lực lên các tổ chức, vì nếu những mong đợi của người tiêu dùng không được thỏa mãn, cộng đồng có thể cấm sản phẩm của công ty và thực thi nhiều chế tài. Tuy nhiên, Idemudia và Ite (2006) nói rằng ngay cả khi các công ty tham gia vào các hoạt động trách nhiệm xã hội tốt như đầu tư cho hoạt động từ thiện và xã hội, phân bổ thêm nguồn vốn cho phát triển cộng đồng, người dân vẫn tham gia vào các cuộc xung đột với các tổ chức. Newell (2005) đã chứng minh bằng trường hợp của các ngành công nghiệp khai thác mỏ, lý do các cuộc xung đột là thiếu sự đại diện của cộng đồng trong việc thiết lập các quy tắc và quy định.
2.2.3.4. Áp lực từ môi trường

Hoạt động của các công ty gây ô nhiễm môi trường và thậm chí gây ra các cuộc khủng hoảng. Các nhà nghiên cứu khác (Brown và cộng sự, 1989; Clark, 1989; Pryde,
1992) thảo luận về các thiệt hại môi trường như sự suy giảm ozone do CFC, sự nóng lên toàn cầu gây ra bởi ô nhiễm công nghiệp trong khí quyển, mưa axit, ô nhiễm không khí đô thị, chất thải độc hại và hạt nhân, sự tuyệt chủng các nguồn tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học (Shrivastava, 1995). Đồng thời, các tổ chức sử dụng các tài nguyên thiên nhiên đang suy giảm như dầu, nước và khí đốt trong quá trình sản xuất của họ. Shrivastava (1995) cho rằng việc duy trì một môi trường sạch sẽ là một trách nhiệm lớn đối với các tổ chức.
2.2.4. Lợi ích khi thực hiện trách nhiệm xã hội (CSR)

Các công ty cần xác định chi phí và lợi ích của trách nhiệm xã hội. Các công ty

đầu tư vốn chủ sở hữu của chúng vào các hoạt động trách nhiệm xã hội, kỳ vọng tối đa

22
hóa lợi nhuận và tối thiểu hóa rủi ro. Tsoutsoura (2004) đã nhấn mạnh điều này và nói rằng: “trách nhiệm xã hội là đạt được những lợi ích cốt yếu để có được sự bền vững”. Sự phát triển của khái niệm trách nhiệm xã hội sẽ được thảo luận từ những quan điểm kinh tế và xã hội. Có một số lợi ích hữu hình và vô hình từ trách nhiệm xã hội đã được xác định bởi các nhà nghiên cứu (Jenkins, 2006; Grayson và Hodges, 2004; Greening và Turban, 2000; Orlitzky và cộng sự, 2003). Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cho rằng động lực của nhân viên, và cải thiện hình ảnh công ty có thể là những lợi ích nổi bật của trách nhiệm xã hội đem lại.
Nhiều lợi ích của trách nhiệm xã hội đã được xác định. Một là, hình ảnh thương hiệu và uy tín của các công ty thực hiện các hoạt động trách nhiệm xã hội thì cao hơn so với các công ty không thực hiện trách nhiệm xã hội, hay các công ty thiếu trách nhiệm xã hội (Jenkins, 2006). Tsoutsoura (2004), một số khía cạnh trách nhiệm xã hội có thể làm giảm chi phí điều hành của một công ty. Hai là, các công ty có trách nhiệm xã hội sẽ có ít các rủi ro liên quan đến các sự kiện tiêu cực hiếm có hơn. Kết quả là, Turban và Greening (1997) cho rằng sự cam kết mạnh mẽ về việc thực hiện trách nhiệm xã hội làm tăng khả năng thu hút và giữ chân người giỏi cho công ty. Ba là, thực hành trách nhiệm xã hội dẫn đến tăng năng suất và giảm tỷ lệ lỗi (Tsoutsoura,
2004). Vì vậy, những lợi ích này được kết hợp với sự hài lòng của các bên liên quan. Ví dụ, hiệu quả tăng năng suất từ việc cải thiện điều kiện làm việc và thực hành lao động (Tsoutsoura, 2004). Hình ảnh thương hiệu và uy tín là một lợi thế cho các tổ chức, cho phép các tổ chức tăng vốn và thu hút và giữ chân đối tác kinh doanh của họ. Một lợi thế nữa của việc thực hành trách nhiệm xã hội là thu hút và giữ được nhân viên, do đó chi phí tuyển dụng, đào tạo và phát triển của các công ty giảm.
Những lợi ích này đã được xác định trong nhiều nghiên cứu, và đã được sử dụng trong việc phát triển các khái niệm trách nhiệm xã hội. Các nghiên cứu đã chứng minh lợi thế của việc cải thiện trách nhiệm xã hội.
Những lợi ích đã được nhấn mạnh bởi nhiều nhà nghiên cứu như làm tăng giá trị thị trường (Aupperle và cộng sự, 1985; McWilliams và Siegel, 2000), làm giảm rủi ro (Moore, 2001), động lực thúc đẩy nhân viên (Turban và Greening, 1997), và làm tăng lòng trung thành của nhân viên và nâng cao uy tín của công ty (Maignan và cộng sự, 1999).
2.3. Hiệu quả tài chính công ty (Coporate financial performance – CFP)

23
2.3.1. Định nghĩa

Trong chiến lược kinh doanh và quản lý ngày nay, người ta tin rằng hiệu quả tài chính là một trong những khái niệm quan trọng nhất. Hơn nữa, hiệu quả tài chính là mục tiêu mà tất cả các công ty phải cải thiện để tồn tại hay để thỏa mãn các bên liên quan của nó. Mặc dù có một số lượng lớn các tài liệu và nghiên cứu xem xét hiệu quả tài chính như là biến phụ thuộc chính, nhưng những định nghĩa chính xác và phổ biến của hiệu quả tài chính vẫn không tồn tại (Richard và cộng sự, 2009). Các nghiên cứu liên quan đến hiệu quả tài chính cho kết quả khác nhau do thiếu sự đồng thuận, do cách đo lường khác nhau về hiệu quả tài chính của công ty. Do đó, Glick và cộng sự (2005) cho rằng các nhà nghiên cứu có xu hướng sử dụng chỉ có một hoặc một số chỉ số để đại diện cho hiệu quả tài chính.
Trên thực tế, hiệu quả công ty là một khái niệm phức tạp với cấu trúc đa chiều. Venkatraman và Ramanujam (1987) phân loại hiệu quả công ty thành ba khía cạnh khác nhau: hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh doanh và hiệu quả tổ chức. Hiệu quả tài chính của một công ty có thể được đánh giá bởi một số chỉ tiêu dựa trên kế toán hoặc tài chính của công ty đó. Các chỉ số này có xu hướng đo lường lợi nhuận công ty bằng cách quan sát tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của công ty. Một số biến đại diện cơ bản cho hiệu quả tài chính có thể là ROA (lợi nhuận trên tài sản), ROE (lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu), và ROS (lợi nhuận trên doanh thu). Ngoài ra, hiệu quả kinh doanh giữ một vị trí cơ bản trong nghiên cứu quản lý và thực tiễn. Nó có thể được coi là biện pháp dựa trên thị trường bao gồm cả hiệu quả tài chính và hiệu quả hoạt động. Một số chỉ số có thể được sử dụng để đo lường hiệu quả kinh doanh: tăng trưởng doanh thu, thị phần, phát triển sản phẩm, v.v… Hiệu quả tổ chức là một khía cạnh khác của hiệu quả công ty đại diện cho hiệu quả hoạt động kinh doanh công ty để đạt được mục tiêu của công ty. Các công ty luôn cố gắng để đạt được hiệu quả công ty thông qua lãnh đạo, cơ cấu, chất lượng, sự hài lòng của nhân viên công ty, v.v…
2.3.2. Đo lường hiệu quả tài chính
Việc đo lường hiệu quả tài chính rất phổ biến trong các nghiên cứu trách nhiệm xã hội; tuy nhiên, có rất ít sự đồng thuận về các công cụ đo lường được áp dụng. Các nghiên cứu trước đây cho rằng hiệu quả công ty có thể được đo lường bằng một trong hai thước đo là dựa vào kế toán và/hoặc dựa trên thị trường:

24
Dựa vào kế toán: sử dụng các chỉ số kế toán như ROA, ROE hoặc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp/công ty (Ruf và cộng sự, 2001; Elsayed và Paton
2005). Các chỉ số này có thể phản ánh hoạt động của công ty ở một góc độ tổng thể nhưng không quan sát các đặc tính đa quốc gia của quá trình sản xuất của doanh nghiệp/công ty. Một số thước đo dựa vào kế toán đã được sử dụng để đánh giá hiệu quả tài chính bao gồm ROE, ROS và ROA (Cochran và Wood, 1984; Aupperle và cộng sự, 1985; Waddock và Graves, 1997; Stanwick và Stanwick, 1998; Tsoutsoura,
2004). Simpson và Kohers (2002) sử dụng ROA và tổn thất cho vay, Berman và cộng sự (1999) chỉ áp dụng ROA. Lý do sử dụng ba biến trên để đo hiệu quả tài chính là những dữ liệu này ít có khả năng bị ngụy tạo, và cũng là các thước đo được sử dụng rộng rãi nhất cho hiệu quả tài chính (Yoshikawa và Phan, 2003). Nhưng sự hạn chế cố hữu của các thước đo dựa vào kế toán là chúng chỉ nắm bắt các dữ liệu lịch sử của hiệu quả tài chính. Thứ hai, các dữ liệu có thể bị sai lệch bởi nhận thức quản lý và thủ tục kế toán khác nhau được sử dụng bởi các công ty khác nhau (Branch, 1983; McGuire và cộng sự, 1986.).
Dựa trên thị trường, một số nghiên cứu đã sử dụng các thước đo thị trường (Vance 1975; Alexander và Buchholz 1978). Bởi vì thước đo hiệu quả tài chính dựa trên thị trường tránh được một số những hạn chế về kế toán vì nó cho thấy các yếu tố tương lai và tập trung vào các hiệu quả thị trường (McGuire và cộng sự 1986). Những thước đo này ít liên quan đến thủ tục kế toán và là chỉ số của các nhà đầu tư lựa chọn để đánh giá khả năng của một công ty tạo ra lợi nhuận trong tương lai. Ví dụ, Ullmann (1985) cho rằng việc sử dụng các thước đo dựa trên thị trường cho thấy việc đánh giá hiệu quả tài chính của nhà đầu tư là một thước đo hiệu quả phù hợp (McGuire và cộng sự, 1988; Tsoutsoura, 2004). Song, việc sử dụng cổ phiếu như là các thước đo dựa trên thị trường của hiệu quả tài chính cũng có những hạn chế.
Ngoài ra, một số nghiên cứu đã sử dụng cả dữ liệu liệu kế toán và dữ liệu thị trường (Han và Suk, 1998; Saleh và cộng sự, 2008) với ba biến như ROA, suất sinh lợi trên thị trường chứng khoán và Tobin’s q. Hơn nữa, Han và Suk (1998) sử dụng lợi nhuận cổ phiếu như là biến phụ thuộc để đo lường hiệu quả tài chính. Orlitzky và cộng sự (2003) lập luận rằng cả hai chỉ số kế toán và thị trường có thể được áp dụng để đo
hiệu quả tài chính của doanh nghiệp/công ty.

25
Việc sử dụng hai phương pháp khác nhau để đo hiệu quả tài chính có nghĩa là rất khó để so sánh trực tiếp kết quả của các nghiên cứu khác nhau (Tsoutsoura, 2004). Tuy nhiên, hai phương pháp dựa vào kế toán và dựa trên thị trường trên cho thấy quan điểm khác nhau về việc đánh giá hiệu quả tài chính của công ty và có ý nghĩa lý thuyết khác nhau (Hillman và cộng sự, 2001). McGuire và cộng sự (1986) cho rằng mỗi phương pháp tùy thuộc vào những khuynh hướng nhất định. Do đó từ những lập luận trên, hiệu quả tài chính trong nghiên cứu này được đo lường dựa vào thước đo dựa vào kế toán và dựa trên thị trường.
2.4. Các quan điểm lý thuyết về trách nhiệm xã hội (CSR)

Mối quan hệ giữa đầu tư trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính đã được thảo luận trong nhiều lý thuyết nổi tiếng. Phần này tóm tắt các lý thuyết nền trong các nghiên cứu trước đó về trách nhiệm xã hội:
2.4.1. Lý thuyết cổ đông (Shareholder Theory)

Lý thuyết cổ đông có thể được coi là lý thuyết đầu tiên về trách nhiệm xã hội sẽ được sử dụng để hình thành khái niệm trách nhiệm xã hội. Quan điểm này xuất phát từ các lý thuyết của công ty với ý tưởng rằng mục tiêu chính của công ty là tối đa hóa lợi nhuận của mình. Theo quan điểm ban đầu này, Friedman (1962, 1970) cho rằng các công ty chỉ nên tập trung vào việc tối đa hóa lợi nhuận của mình và không bắt buộc phải làm bất cứ trách nhiệm xã hội nào. Nói cách khác, các cổ đông là những người quan trọng nhất và công ty cần phải sử dụng tất cả các nguồn lực của mình để gia tăng sự giàu có của cổ đông. Quan điểm này sau đó bị chỉ trích mạnh mẽ bởi nhiều học giả và các bên liên quan khác của công ty. Kết quả là, có rất nhiều lý thuyết đã xuất hiện để giải quyết những lời chỉ trích: Lý thuyết đại diện, lý thuyết các bên liên quan, và mô hình kim tự tháp của trách nhiệm xã hội.
2.4.2. Lý thuyết đại diện (Agency Theory)
Lý thuyết này được phát triển đầu tiên bởi Jensen và Meckling (1976). Quan điểm của lý thuyết đại diện chỉ ra rằng luôn luôn có xung đột lợi ích giữa các cổ đông và các nhà quản lý doanh nghiệp. Cuộc xung đột này thường được đặt tên là “vấn đề đại diện”. Nhìn chung, một công ty bao gồm các nhóm lợi ích khác nhau và vấn đề đại diện duy nhất có thể được giải quyết khi các điểm cân bằng của các lợi ích khác nhau có thể đạt được (Krisnawati và cộng sự, 2014). Theo lý thuyết này, lợi ích của các cổ đông và các nhà quản lý của công ty sẽ không bao giờ gắn kết và trách nhiệm xã hội

26
có thể là kết quả của những cuộc xung đột (Jensen và Meckling, 1976). Trong ý nghĩa này, các nhà quản lý có thể sử dụng các nguồn lực của công ty để tăng sự giàu có và tiện ích của riêng họ thay vì đầu tư vào các dự án tiềm năng có thể cải thiện hiệu quả tài chính. Do vậy, các hoạt động trách nhiệm xã hội có thể dẫn đến hiệu quả của công ty kém và sự giàu có của cổ đông có thể giảm. Lý thuyết này cho rằng các nguồn lực và các khoản đầu tư cho trách nhiệm xã hội phải được chi một cách hiệu quả để cải thiện hiệu quả công ty của nhưng nó lại không giúp ích cho lợi ích của nhà quản lý. Dựa trên quan điểm của lý thuyết đại diện, lý thuyết các bên liên quan xuất hiện để giải quyết các vấn đề đại diện.
2.4.3. Lý thuyết các bên liên quan (Stakeholder theory)

Trái ngược với lý thuyết cổ đông có thể chỉ ra mối quan hệ ngược chiều giữa trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính, lý thuyết đại diện cho thấy những tác động tích cực của trách nhiệm xã hội lên hiệu quả tài chính. Quan điểm các bên liên quan từ Freeman (1984) đề xuất ý tưởng rằng một công ty chỉ có thể tồn tại nếu nó có khả năng đáp ứng nhu cầu các bên liên quan – những người có thể ảnh hưởng đáng kể đến phúc lợi của công ty. Bởi vì các bên liên quan có thể đóng góp vào khả năng tạo ra của cải của một công ty (Post và cộng sự, 2002), để duy trì sự tăng trưởng, các công ty nên quan tâm đến lợi ích cho các bên liên quan (Van der La, 2009) và tính đến các quan điểm và các hoạt động của họ. Trong trường hợp này, các bên liên quan chính là nhóm, cá nhân có quyền lợi và mối quan hệ với các công ty, chẳng hạn như khách hàng, nhân viên, nhà cung cấp v.v…
Lập luận này có hai lý do. Đầu tiên, các bên liên quan cung cấp các nguồn lực như vốn, lao động và doanh thu (Sweeney, 2009). Nếu các công ty hành động vô trách nhiệm đối với nhân viên, khách hàng và xã hội, thì họ có nguy cơ mất đi những nguồn lực quan trọng này. Thứ hai, các bên liên quan vừa là người hưởng lợi tiềm năng vừa là người chịu rủi ro cao (Post và cộng sự, 2002). Họ thường xuyên phải đối diện với những rủi ro liên quan đến những hành vi vô trách nhiệm xã hội, chẳng hạn như các sản phẩm kém chất lượng, khai thác lao động và môi trường tự nhiên quá mức. Theo nguyên tắc phân phối công bằng (Sweeney, 2009), lợi nhuận công ty nên được chia đều giữa các thành viên chịu rủi ro, bao gồm cả các bên liên quan. Việc phân loại các bên liên quan thành quan trọng và thứ yếu của Metcalfe (1998) đã giúp phân định rõ
khái niệm này. Các bên liên quan quan trọng là những người tham gia vào các hoạt

27
động quan trọng của công ty, ví dụ, khách hàng, người lao động và cổ đông. Các bên liên quan thứ yếu là những người ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng bởi các hoạt động của một công ty, nhưng không được tham gia vào các hoạt động của công ty, ví dụ, các phương tiện truyền thông (Metcalfe, 1998). Sự phân biệt này làm rõ các yếu tố quyết định của các sáng kiến trách nhiệm xã hội.
Lý thuyết này được chấp nhận rộng rãi giữa các nhà nghiên cứu và phát triển hơn nữa trong nhiều cách khác nhau. Ví dụ, Blombäck và Wigren (2009) cho rằng công ty và các bên liên quan nên hợp tác với nhau để cùng hưởng tất cả các lợi ích có liên quan lẫn nhau. Nói cách khác, bên cạnh mục tiêu tăng lợi nhuận cho các cổ đông, các doanh nghiệp/công ty nên tham gia vào các hoạt động trách nhiệm xã hội để đáp ứng các bên liên quan phi tài chính, người có thể cung cấp sự hỗ trợ mạnh mẽ cho các họ. Hơn nữa, Clarkson (1995) cho rằng việc đem lại sự giàu có và giá trị cho các bên liên quan là cách duy nhất cho phép các công ty để thịnh vượng hơn. Jensen (2002) giới thiệu khái niệm tối đa hóa giá trị phù hợp với lý thuyết các bên liên quan và giá trị công ty trong thời gian dài. Trên thực tế, tối đa hóa giá trị cho thấy rằng giá trị thị trường dài hạn là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của công ty trong khi lý thuyết các bên liên quan cố vấn cho các nhà quản lý để đáp ứng lợi ích và lợi ích của tất cả các bên liên quan. Jensen khẳng định rằng mục tiêu chính của công ty là tối đa hóa giá trị công ty và chứng minh rằng tối đa hóa giá trị công ty không phải luôn luôn xung đột với một đối tác cụ thể. Cách tiếp cận này đã loại bỏ việc thực hành các mục tiêu khác nhau của công ty ở góc độ các bên liên quan truyền thống như tiền lương cao cho nhân viên, giá thấp cho khách hàng hoặc tổ chức từ thiện cho trẻ em mồ côi.
Theo Deegan và cộng sự (2000), lý thuyết các bên liên quan có thể được chia thành hai nhánh gồm nhánh thuộc về đạo đức và nhánh thuộc về quản lý. Nhánh đạo đức được dựa trên tiền đề “tất cả các bên liên quan có quyền được đối xử công bằng bởi một tổ chức, và các nhà quản lý nên quản lý tổ chức vì lợi ích của các bên liên quan”, nghĩa là tất cả các bên liên quan có quyền được cung cấp các thông tin về các hoạt động của công ty ảnh hưởng lên họ. Các bên liên quan cần biết tất cả các thông tin, bao gồm các thông tin về việc chất thải độc hại, ô nhiễm nước, hỗ trợ xã hội, thậm chí các thông tin không có liên quan trực tiếp đến họ. Nhánh quản lý dựa trên tranh luận là các tổ chức sẽ phản ứng với xã hội thông qua quyền lực các bên liên quan để
tác động lên quản trị công ty/doanh nghiệp. Dựa trên quan điểm này, các tổ chức sẽ

28
cung cấp nhiều thông tin nhắm tới sự quan tâm và kỳ vọng của những nhóm cụ thể hoặc các bên liên quan chính liên quan đến tổ chức. Kết quả là, việc công bố thông tin của doanh nghiệp/công ty sẽ được sử dụng như là chiến lược để duy trì sự ủng hộ của các bên liên quan chính (Deehan và Blomquist, 2006; Islam và Deegan, 2008).
Các nghiên cứu trước về CSR đã định nghĩa vai trò của các bên liên quan trong việc tác động lên quyết định tổ chức (McGuire và cộng sự, 1988). Theo Jensen (2001), các nhà quản lý nên đưa ra các nhận định về lợi ích của các bên liên quan trong một công ty/doanh nghiệp. Mặc dù, điều này có thể khó để các nhà quản lý xác định những sự đánh đổi cần thiết giữa lợi ích cạnh tranh của các bên liên quan khác nhau, các nhà quản lý được kỳ vọng làm cân bằng các lợi ích này bên trong lợi ích tốt nhất của tổ chức. Lý thuyết các bên liên quan giúp giải thích lợi ích cạnh tranh và ảnh hưởng của các bên liên quan lên quyết định quản lý. Lý thuyết các bên liên quan được sử dụng để đánh giá tác động lên hiệu quả tài chính, chiến lược quy hoạch và sự tập trung của các bên liên quan vào số lượng công bố trách nhiệm xã hội của các tổ chức (Roberts, 1992).
Theo lý thuyết các bên liên quan, các tổ chức nhắm đến việc cân bằng kỳ vọng của tất cả các nhóm bên liên quan thông qua hoạt động của họ. Các tổ chức cần chắc chắn mối quan hệ của họ với tất cả các bên liên quan. Các nhà quản lý nên xem xét và duy trì kỳ vọng của tất cả các nhóm bên liên quan khi họ đưa ra quyết định công bố trách nhiệm xã hội. Lý thuyết các bên liên quan được sử dụng trong nghiên cứu này để giải thích cái gì đã thúc đẩy doanh nghiệp/công ty thực hành/công bố trách nhiệm xã hội. Việc phát triển khuôn khổ trách nhiệm xã hội sẽ sử dụng các bên liên quan quan trọng, những người mà có liên quan đến các hoạt động trách nhiệm xã hội của các công ty được điều tra.
Lý thuyết các bên liên quan được sử dụng để giải thích các mô hình trách nhiệm xã hội; các động lực của công ty liên quan đến việc thực hành trách nhiệm xã hội. Vì vậy, nghiên cứu này giả định các yếu tố trách nhiệm xã hội chính bao gồm trách nhiệm với người lao động, với sản phẩm, với cộng đồng và với môi trường đã ảnh hưởng đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội của công ty.
2.4.4. Lý thuyết tính chính đáng (Legitimacy theory)
Lý thuyết tính chính đáng được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu về xã hội và kế toán để giải thích tại sao các công ty/doanh nghiệp cần phải công bố thông

29
tin về xã hội và môi trường. Suchman (1995) đã định nghĩa lý thuyết tính chính đáng “hoạt động của một thực thể được kỳ vọng là thích hợp, hoặc phù hợp với một số hệ thống kiến trúc xã hội về các chuẩn mực, giá trị, niềm tin và khái niệm”.
Lý thuyết tính chính đáng dựa trên quan điểm là quyền và trách nhiệm của tổ chức phải đến từ xã hội. Các tổ chức kinh doanh phải hoạt động trong ranh giới của xã hội để đáp ứng các kỳ vọng của xã hội, bao gồm việc cung cấp các hàng hóa và dịch vụ tốt hơn cho xã hội. Bởi vì tổ chức là một phần của hệ thống xã hội rộng lớn, các tổ chức cần phải hoạt động trong hệ thống xã hội, mà không có bất kỳ tác động tiêu cực nào đến xã hội (Deegan, 2002). Điều này có thể làm cho tổ chức đạt được các mục tiêu và lợi nhuận ổn định. Suchman (1995) đã định nghĩa ba hình thức của tính chính đáng: thực dụng (dựa vào đối tượng tư lợi), bình thường (dựa vào tính chất quy phạm), và nhận thức (dựa trên tính toàn diện và sự trợ cấp) nó được sử dụng trong các thuật ngữ tham nhũng và sự ủng hộ của xã hội. Ba hình thức này được sử dụng để giải thích mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội với lý thuyết tính chính đáng. Guthrie và Parker (1989), O’Donovan (2002) đã tranh luận, lý thuyết tính chính đáng được dựa trên quan điểm đó là các tổ chức được quản lý bởi xã hội thông qua một hợp đồng xã hội mà các nhà quản lý đã thỏa thuận để có được, dựa trên một số yêu cầu xã hội, bù đắp lại cho chính các mục tiêu của tổ chức. Các tổ chức cần phải hành xử và công bố đầy đủ các thông tin cho xã hội để xã hội đánh giá đó có phải là một công dân tốt. Các công ty được công nhận là một “công dân doanh nghiệp tốt” khi hoạt động theo các cam kết với xã hội.
Vì mục tiêu “hoạt động như một công dân doanh nghiệp tốt”, nhiều tổ chức có thể cần phải thay đổi quy trình tổ chức của họ. Newson và Deegan (2002) đã tranh luận, lý thuyết tính chính đáng được cho là bị ảnh hưởng bởi việc công bố thông tin chứ không phải bởi những thay đổi trong hoạt động kinh doanh. Khi các kỳ vọng của xã hội thay đổi, các tổ chức sẽ được yêu cầu chứng minh sự thay đổi trong các chiến lược hoạt động của mình cho phù hợp. O’Donovan (2002) tranh luận, các tổ chức cố gắng thay đổi các kỳ vọng xã hội, nhận thức và giá trị thông qua một số phương pháp tiếp cận như là một phần của quy trình tính chính đáng.
Lindblom (1994), Gray và cộng sự (1995a) đã xác định bốn chiến lược hay
phương pháp tiếp cận về cách tổ chức đạt được tính chính đáng. Một là, một tổ chức có thể cần phải giáo dục và thông tin cho công chúng liên quan về sự thay đổi trong

30

LA02.241_Trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính bằng chứng từ các công ty niêm yết Việt Nam

4.3 / 5 ( 3 votes )
Tags: công ty niêm yếthiệu quả tài chínhtrách nhiệm xã hội
Previous Post

Chất lượng mối quan hệ trong kinh doanh: Trường hợp các doanh nghiệp logistics ở Việt Nam

Next Post

Đầu tư hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại ở tỉnh Thừa Thiên Huế

admin

admin

✍✍✍ Với kinh nghiệm hơn 10 năm, Luận Văn A-Z nhận hỗ trợ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ một cách UY TÍN và CHUYÊN NGHIỆP. ✍✍✍ Liên hệ: 092.4477.999 - Mail : luanvanaz@gmail.com

Related Posts

thị trường mua bán nợ xấu
Kinh Tế

Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng

by admin
February 24, 2020
Luận án tiến sĩ Kinh tế phát triển
Kinh tế phát triển

Phát triển kinh doanh dịch vụ viễn thông ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế Nghiên cứu trường hợp Công ty Cổ phần viễn thông Hà Nội

by admin
February 21, 2020
Luận án tiến sĩ tài chính ngân hàng
Tài Chính Ngân Hàng

Quản lý tài chính các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Tài chính

by admin
February 21, 2020
Luận án tiến sĩ tài chính ngân hàng
Tài Chính Ngân Hàng

Tái cấu trúc tài chính các doanh nghiệp vận tải biển niêm yết ở Việt Nam

by admin
February 9, 2020
Luận án tiến sĩ Kinh tế phát triển
Kinh tế phát triển

Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tỉnh Phú Thọ

by admin
February 9, 2020
Next Post
Luận án tiến sĩ Kinh tế phát triển

Đầu tư hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại ở tỉnh Thừa Thiên Huế

Leave a Reply Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Recommended

Luận án tiến sĩ quản trị kinh doanh

LA08.010_Hệ thống tiêu chí nhận diện văn hoá doanh nghiệp – Vận dụng cho doanh nghiệp Việt Nam

July 18, 2015
Luận án tiến sĩ tài chính ngân hàng

LA02.007_Quản lý tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Hà Nội

July 5, 2015
Luận văn thạc sĩ Tài chính ngân hàng

Đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào hoạt động thăm dò khai thác dầu khí ở Việt Nam

October 3, 2015
Cách tiếp cận kiểm thử khác nhau và đề xuất phương pháp kiểm thử hệ thống

Phương pháp xử lý phân tích trực tuyến áp dụng trong xây dựng hệ trợ giúp quyết định dựa vào dữ liệu

May 8, 2016

Don't miss it

thị trường mua bán nợ xấu
Kinh Tế

Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng

February 24, 2020
Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tài chính - Ngân hàng

Các lý thuyết về rủi ro và lợi nhuận

February 23, 2020
Luận án tiến sĩ Kinh tế phát triển
Kinh tế phát triển

Phát triển kinh doanh dịch vụ viễn thông ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế Nghiên cứu trường hợp Công ty Cổ phần viễn thông Hà Nội

February 21, 2020
Luận án tiến sĩ tài chính ngân hàng
Tài Chính Ngân Hàng

Quản lý tài chính các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Tài chính

February 21, 2020
Luận án tiến sĩ tài chính ngân hàng
Tài Chính Ngân Hàng

Tái cấu trúc tài chính các doanh nghiệp vận tải biển niêm yết ở Việt Nam

February 9, 2020
Luận án tiến sĩ Kinh tế phát triển
Kinh tế phát triển

Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tỉnh Phú Thọ

February 9, 2020
Luận án tiến sĩ quản lý kinh tế
Quản lý kinh tế

Các yếu tố tác động đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

February 9, 2020
Luận án tiến sĩ quản lý kinh tế
Quản lý kinh tế

Tăng cường tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

February 9, 2020
Luận án tiến sĩ quản trị nhân lực
Quản trị kinh doanh

Nâng cao năng lực quản lý chuỗi cung ứng trong công tác khám, chữa bệnh tại các Bệnh viện Quân y trên địa bàn Hà Nội (108, 105, 354)

February 9, 2020
Luận án tiến sĩ tài chính ngân hàng
Tài Chính Ngân Hàng

Thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế biển đảo phía Nam Việt Nam

February 9, 2020
Download Luận Văn

iLuận văn chia sẻ luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ hoàn toàn miễn phí. Nhận hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. LH: 092.4477.999


Xem thêm

No Result
View All Result

Recent News

thị trường mua bán nợ xấu

Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng

February 24, 2020
Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài

Các lý thuyết về rủi ro và lợi nhuận

February 23, 2020

© 2023 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.

No Result
View All Result
  • Landing Page
  • Buy JNews
  • Support Forum
  • Pre-sale Question
  • Contact Us

© 2023 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.