LA35.018_Tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở châu thổ Bắc Bộ
Bà Chúa Kho là một trong những phúc thần của ngƣời Việt, chiếm vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của cộng đồng dân cƣ châu thổ Bắc Bộ. Nhân dân thờ cúng Bà Chúa Kho ở nhiều nơi, dƣới hình mẫu vị thần “chủ kho”, một nữ nhân vật thờ vốn tồn tại từ rất lâu trong lịch sử Việt Nam. Việc thờ cúng Bà Chúa Kho là nhằm tôn vinh một vị nữ thánh, một biểu tƣợng gợi nhắc về nguồn gốc quá khứ đem đến niềm tự hào của cộng đồng.
Cho đến nay, chƣa có tác giả nào đƣa ra con số thống kê chính xác về các điểm thờ cúng Bà Chúa Kho trên đất nƣớc Việt Nam nói chung và vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ nói riêng. Tuy nhiên, có thể nói rằng số lƣợng đền thờ Bà Chúa Kho ít nhất cũng hơn chục làng tôn thờ Bà. Kết quả khảo sát của chúng tôi gần đây cho thấy, các đền thờ Bà Chúa Kho xuất hiện ở các tỉnh, thành phố trong vùng châu thổ Bắc Bộ nhƣ Hà Nội, Hƣng Yên, Nam Định, Thái Bình, Bắc Ninh, Bắc Gi ang… Tại các địa phƣơng này, nhân dân thờ phụng và gọi các vị thánh của làng bằng một tên
gọi giống nhau là “Bà Chúa Kho”, mặc dù họ có nguồn gốc xuất thân và vai trò đóng góp đối với làng xã và đất nƣớc khác nhau.
Trong gần 30 năm trở lại đây, cùng với quá trình đổi mới của đất nƣớc, việc thờ cúng Bà Chúa Kho ở vùng châu thổ Bắc Bộ đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, trở thành một hiện tƣợng tín ngƣỡng dân gian khá đặc biệt của ngƣời Việt. Đặc biệt, sinh hoạt thờ cúng Bà Chúa Kho ở một số làng đã vƣợt khỏi quy mô địa phƣơng, trở thành một sự kiện tâm linh quan trọng của vùng, tạo sức thu hút hàng trăm nghìn lƣợt khách hành hƣơng đến chiêm bái mỗi năm. Sự phát triển tín ngƣỡng Bà Chúa Kho không chỉ tác động mạnh mẽ đến đời sống tâm linh của ngƣời Việt ở châu thổ Bắc Bộ mà còn ảnh
hƣởng đến cả phƣơng diện hoạt động kinh tế, xã hội và văn hóa của đông đảo ngƣời dân, trong một số trƣờng hợp nó tạo ra sự thay đổi về cơ cấu lao động nghề nghiệp, mức sống của cƣ dân trong khu vực có sinh hoạt nghi lễ. Sau Đổi mới, chúng ta chứng kiến sự bùng nổ hiện tƣợng thờ cúng nhân vật Bà Chúa Kho. Trƣớc hết, đó là sự xuất hiện đa dạng những “dị bản” về các nhân vật gọi là
Bà Chúa Kho. Có làng thờ Bà Chúa Kho nhƣ một nữ thần nông nghiệp. Có làng thờ Bà Chúa Kho nhƣ một nữ thần chủ kho. Lại có làng thờ Bà nhƣ một nữ thần “chủ ngân hàng” có khả năng cho ngƣời sống cõi dƣơng gian vay tiền của thế giới cõi âm hay cõi thần linh.
Trong số các điểm thờ cúng Bà Chúa Kho ở châu thổ Bắc Bộ, đền Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ, phƣờng Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh nổi lên nhƣ một trung tâm tín ngƣỡng lớn của vùng và có sự vƣợt trội so với các làng có thờ nhân vật “Bà Chúa Kho” khác. Nhiều bằng cứ cho thấy, có một sự chuyển dịch vai trò của Bà Chúa Kho trong bối cảnh hiện nay so với quá khứ. Tại đây, ngƣời dân thờ cúng Bà đã có sự thay đổi quan niệm khi coi Bà từ một vị thần nông nghiệp, rồi nữ thần coi kho lƣơng trở thành một Bà Chúa Kho tiền có khả năng ban phát các khoản vay cho dân chúng. Những câu chuyện về quyền năng cho vay tiền của Bà Chúa Kho đã đƣa Bà trở thành một vị thần quyền uy trong bối cảnh đổi mới kinh tế thị trƣờng [26, tr.1]. Tại đền Bà Chúa Kho ở Cổ Mễ, ngƣời dân và các khách thập phƣơng tìm về lễ bái tôn thờ Bà nhƣ một Bà chủ ngân hàng, xuất phát từ một niềm tin phổ biến rằng Bà rất linh thiêng, giữ ngân xuyến tiền bạc, có quyền năng ban phát những khoản vay vô hạn cho những tín đồ thành tâm. Bà còn là nơi ngƣời ta đặt hy vọng giúp tránh khỏi những tai ƣơng khúc mắc trên đƣờng đời, giải quyết vấn đề kinh tế, và nhiều việc khác trong cuộc sống.
Sự thay đổi chức năng của Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ đã góp phần làm cho ngôi đền này trở nên linh thiêng đối với tầng lớp thị dân, những ngƣời làm ăn kinh doanh buôn bán. Chính điều này khiến cho ngƣời dân ở nhiều địa phƣơng khác có xu hƣớng nhận nhân vật Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ là ngƣời gốc của làng mình và tranh thủ khai thác việc phụng thờ cúng ảo ảnh của Bà. Cũng có nơi, ngƣời dân tiếp thu cách sáng tạo của dân làng Cổ Mễ để áp dụng vào trƣờng hợp thờ cúng nhân vật đồng dạng ở địa phƣơng của họ.
Có thể nói, bối cảnh kinh tế, xã hội mới đã mang lại cho tín ngƣỡng Bà ChúaKho ở làng Cổ Mễ và một số địa phƣơng những yếu tố tạo dựng mới so với quá khứ. Tại đền Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ, trong khoảng vài thập niên trở lại đây, ngƣời ta chứng kiến quá trình không ngừng mở rộng khu di tích, hệ thống điện thờ và thậm chí cả những câu chuyện về nhân vật Bà Chúa Kho do ngƣời dân tạo dựng nhằm thu hút khách hành hƣơng từ nhiều nơi đến vay tiền xin lộc . Trong quá trình tạo dựng một “truyền thống” tín ngƣỡng mới, ngƣời dân làng Cổ Mễ đã tạo dựng một mô hình quản lý tín ngƣỡng mới. Mô hình quản lý này có nhiều điểm tƣơng đồng với cách tổ chức truyền thống, thể hiện mạnh mẽ vai trò tự quản của cộng đồng trong việc duy trì và phát triển tín ngƣỡng.
Trong bối cảnh ấy, tín ngƣỡng Bà Chúa Kho đã thu hút sự quan tâm mạnh mẽ của các nhà khoa học bởi nó thể hiện nhiều khía cạnh và động năng của một xã hội chuyển đổi. Cho đến nay, có hàng chục công trình nghiên cứu về Bà Chúa Kho. Các nhà nghiên cứu chủ yếu tập trung khám phá 2 nhóm vấn đề chủ yếu, đó là:
– Các tác giả muốn tìm hiểu, làm rõ nguồn gốc hình thành tín ngƣỡng Bà Chúa Kho. Trên cơ sở khảo cứu những tƣ liệu thƣ tịch và điền dã, các tác giả đã cung cấp cho ngƣời đọc thấy đƣợc những dị bản khác nhau về truyền thuyết Bà Chúa Kho trong bối cảnh không gian văn hóa vùng Kinh Bắc (tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang); sự thay đổi hệ thống di tích, điện thờ; nguồn gốc và hành trạng của nhân vật Bà Chúa Kho.
– Nhóm tác giả tập trung mô tả hiện trạng, những vấn đề bất cập và khám phá các nguyên nhân biến đổi của tín ngƣỡng Bà Chúa Kho đặt trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế xã hội Việt Nam sau giai đoạn Đổi mới (từ năm 1986 trở lại). Các nghiên cứu đã cho thấy sự ảnh hƣởng mạnh mẽ của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trƣờng, định hƣớng xã hội chủ nghĩa, sự thay đổi chính sách của Nhà nƣớc đối với hoạt động thực hành nghi lễ Bà Chúa Kho. Thông qua nghiên cứu trƣờng hợp, các bài viết đã làm rõ xu hƣớng “thƣơng mại hóa” lễ hội truyền thống Bà Chúa Kho ở bối cảnh đƣơng đại. Các tác giả có quan điểm khá thống nhất khi cho rằng tín ngƣỡng Bà Chúa Kho là một hiện tƣợng xã hội phản ánh sinh động thực tiễn đời sống kinh tế – xã hội đất nƣớc trong thời kỳ Đổi mới, với chủ trƣơng và chính sách khuyến khích mọi ngƣời làm giàu, với cơ chế kinh tế thị trƣờng để vận hành một nền kinh tế thị trƣờng nhiều thành phần. Một số bài viết khác có xu hƣớng phê phán những bất cập nảy sinh từ quá trình phục hồi và phát triển tín ngƣỡng Bà Chúa Kho nhƣ yếu tố lai căng, biến dạng của di sản hay yếu tố mê tín, thƣơng mại
hóa lễ hội. Những tác giả này thƣờng đứng trên quan điểm muốn bảo tồn “nguyên gốc” di sản tín ngƣỡng Bà Chúa Kho, phủ nhận sự tạo dựng nghi lễ vay tiền, xin lộc trong tín ngƣỡng gắn với vị thánh này.
Các nghiên cứu về tín ngƣỡng Bà Chúa Kho giúp làm sáng tỏ những nhận thức mới về nguồn gốc Bà Chúa Kho, vị trí, vai trò của tín ngƣỡng này trong đời sống đƣơng đại; không chỉ góp phần làm sáng tỏ một số nguyên nhân biến đổi sinh hoạt tín ngƣỡng Bà Chúa Kho ở bối cảnh sau Đổi mới, các nghiên cứu còn cung cấp một số giải pháp giúp các nhà quản lý văn hóa, chính quyền địa phƣơng có cơ sở quản lý lễ hội tốt hơn.
Tuy nhiên, các nghiên cứu trƣớc đây chƣa đƣa ra đƣợc một trƣờng hợp nghiên cứu nào nhằm làm rõ quy luật biến đổi tín ngƣỡng Bà Chúa Kho theo hƣớng truyền thống biến đổi cho phù hợp với bối cảnh mới; chƣa đặt hiện tƣợng tín ngƣỡng Bà Chúa Kho làng Cổ Mễ trong bối cảnh châu thổ Bắc Bộ để so sánh với các nơi khác thờ Bà Chúa Kho nhằm làm rõ hiện tƣợng “tín ngƣỡng có sức thu hút đặc biệt” này. Thực tế cho thấy, quá trình biến đổi tín ngƣỡng Bà Chúa Kho ở vùng châu thổ Bắc Bộ nói chung và ở làng Cổ Mễ nói riêng là một ví dụ điển hình về sự biến đổi văn hóa theo hƣớng truyền thống đƣợc sáng tạo cho phù hợp với bối cảnh kinh tế, xã hội, chính trị sau Đổi mới. Sự “sáng tạo truyền thống” ấy đƣợc thể hiện qua 4 khía cạnh: sáng tạo truyền thuyết; sáng tạo nghi lễ; sáng tạo điện thờ, không gian tín ngƣỡng; và sáng tạo cơ cấu tổ chức. Xuyên suốt quá trình tạo dựng hay sáng tạo truyền thống, cộng đồng nổi lên nhƣ một chủ thể có vai trò quyết định, bên cạnh sự ảnh hƣởng một phần nào của Nhà nƣớc và các tầng lớp xã hội khác bên ngoài cộng đồng. Các nghiên cứu trƣớc đây phần lớn tập trung phân tích các nguyên nhân bên ngoài và điều kiện dẫn đến sự biến đổi tín ngƣỡng Bà Chúa Kho, chƣa làm rõ đƣợc các nguyên nhân bên trong với vai trò chủ động, tích cực của cộng đồng địa phƣơng (kèm theo động cơ của họ về kinh tế, chính trị, xã hội…) trong việc tạo dựng văn hóa truyền thống để phù hợp với bối cảnh thay đổi.
Một số học giả cho rằng để giải thích sự biến đổi văn hóa bên trong cộng đồng, cần thiết phải xem xét lại quan niệm về truyền thống và hiện đại. Khi nào một yếu tố sáng tạo mới đƣợc coi là truyền thống? Việc sáng tạo truyền thống nhằm mục đích gì? Eric Hobsbawm (1917-2012), nhà sử học ngƣời Anh qua lý thuyết “sáng tạo truyền thống” của ông đã chỉ ra không có cái gọi là truyền thống một cách thuần khiết. Tạo dựng truyền thống vì thế là một công cụ đƣợc “cộng đồng hay nhóm xã hội sử dụng một cách tích cực chủ động hay vô thức để củng cố cho sự tồn tại và phát triển của mình trong sự cạnh tranh tồn tại” [55, tr.50].
Hiện tƣợng sinh hoạt tín ngƣỡng Bà Chúa Kho là một ví dụ điển hình đã gợi mở cho nhà nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề “sáng tạo truyền thống” của cộng đồng làng xã Việt Nam trong bối cảnh đất nƣớc tiến hành công cuộc Đổi mới. Từ những vấn đề nghiên cứu còn bỏ trống, chúng tôi thấy cần thiết phải có một đề tài nghiên cứu biến đổi tín ngƣỡng Bà Chúa Kho theo quan điểm lý thuyết “sáng tạo truyền thống” của tác giả Eric Hobsbawm . Chính vì vậy, chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: Tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở châu thổ Bắc Bộ: Nghiên cứu trường hợp thờ Bà Chúa Kho ở làng Cổ
Mễ, thành phố Bắc Ninh. Thông qua nghiên cứu trƣờng hợp Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ, thành phố Bắc Ninh trong bối cảnh với các vị thần “đồng dạng” ở châu thổ Bắc Bộ và khám phá quá trình “sáng tạo truyền thống” của cộng đồng làng Cổ Mễ; chúng tôi muốn đóng góp một phần nào kết quả nghiên cứu về làm rõ quy luật biến đổi tín ngƣỡng Bà Chúa Kho nói riêng, tín ngƣỡng dân gian Việt Nam nói chung, hy vọng đây sẽ là một nghiên cứu trƣờng hợp hữu ích để đối thoại với một số nghiên cứu của các tác giả khác cũng sử dụng cách tiếp cận này.