LA20.059_Thực trạng nhiễm HIVSTI, một số yếu tố liên quan và hiệu quả can thiệp dự phòng ở người dân tộc Dao tại 3 xã của tỉnh Yên Bái, 2006-2012
Đại dịch HIV/AIDS đang là vấn đề y tế và xã hội nghiêm trọng trên toàn cầu. Theo ước tính của Chương trình Phối hợp của Liên Hợp quốc về HIV/AIDS (UNAIDS), tính đến cuối năm 2012, toàn thế giới có khoảng 35,3 triệu người nhiễm HIV, trong đó 2,3 triệu người nhiễm mới, 1,6 triệu người chết vì AIDS. Mỗi ngày trôi qua, có 14.000 trường hợp nhiễm (trong đó có 2.000 trẻ em) và 95% các trường hợp nhiễm mới xảy ra ở các nước đang phát triển và gần 1% số người nhiễm HIV còn sống nằm trong độ tuổi từ 15-49 [123]. Theo số liệu của Cục phòng chống HIV/AIDS Việt Nam, đến tháng 12/2013, lũy tích các trường hợp nhiễm HIV còn sống được báo cáo trên toàn quốc là
197.335 người (48.720 trường hợp tiến triển thành AIDS còn sống và 52.325 người đã chết vì AIDS). Trong năm 2013, cả nước đã phát hiện 14.125 trường hợp nhiễm HIV mới, trong đó có 6.432 bệnh nhân AIDS và 2.413 trường hợp tử vong do AIDS [21]. Dịch HIV ở Việt Nam hiện vẫn trong giai đoạn tập trung, với tỷ lệ hiện nhiễm cao nhất được phát hiện trong các nhóm quần thể có nguy cơ cao chính, đó là những người nghiện chích ma túy (NCMT), phụ nữ bán dâm (PNBD) và nam quan hệ tình dục đồng giới (QHTDĐG). Nguy cơ lây nhiễm HIV ở Việt Nam chủ yếu qua đường tiêm chích ma túy và quan hệ tình dục. Người nhiễm HIV tập trung chủ yếu trong nhóm đối tượng từ 15-49 tuổi, trong đó nhóm 20-39 tuổi chiếm đến 79%. Phần lớn người nhiễm HIV là nam giới (trên 80%). Theo kết quả ước tính dự báo nhiễm HIV/AIDS giai đoạn 2007-2012, tỷ suất nam nữ nhiễm HIV đã giảm từ 3 lần năm 2007 xuống còn 2,6 lần năm 2012 do việc lây nhiễm HIV từ nam giới sang vợ, bạn tình của họ [20]. Cho đến nay dịch đã lan ra với quy mô toàn quốc và đã có mặt ở 63 tỉnh/thành phố, phân bố trên 97% quận/huyện và trên 70% xã/phường [21].
Không giống như trước năm 2000, dịch HIV chỉ tập trung chủ yếu ở các khu vực thành thị và đô thị lớn, hiện nay đại dịch HIV có mặt gần như mọi vùng miền đất nước kể cả những khu vực khó khăn, các thôn bản ở vùng núi cao, vùng sâu vùng xa.Phần lớn các tỉnh có tỷ suất người nhiễm HIV cao tập trung ở các tỉnh miền núi phía Bắc và các tỉnh biên giới Việt-Lào có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) sinh sống, nơi phần lớn người nhiễm HIV là người nghiện chích ma túy. Đối với những tỉnh này số trường hợp nhiễm HIV phát hiện được hàng năm tăng nhanh từ năm 2005 đến nay trong đối tượng nghiện chích ma túy, phụ nữ bán dâm và đang có dấu hiệu lây lan ra cộng đồng, đặc biệt vợ con người nghiện chích ma túy và khách làng chơi của phụ nữ bán dâm [21]. Việt Nam hiện có 53 dân tộc thiểu số và vấn đề dân tộc đã được Đảng, nhà nước xác định là “vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam” với chủ trương phát triển toàn diện về mọi mặt trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi trong đó có vấn đề về sức khỏe và y tế. Đồng bào dân tộc Dao có dân số đông thứ 8 trong nhóm các dân tộc thiểu số, có phong tục, tập quán, văn hóa đặc trưng riêng và trong đó có những đặc điểm tiềm ẩn nguy cơ về sức khỏe sinh sản và lây truyền các bệnh HIV/STI như phóng khoáng trong quan hệ tình dục qua việc quan hệ tình dục sớm và có nhiều bạn tình, vấn đề tảo hôn khá phổ biến… Sau một thời gian dài các hoạt động phòng chống HIV/AIDS cũng như các nghiên cứu trong lĩnh vực này tập trung chủ yếu vào các nhóm nguy cơ cao tại các địa bàn trọng điểm về HIV/AIDS, hiện nay các hoạt động phòng lây nhiễm HIV/STI trong nhóm dân tộc thiểu số đã và đang được xác định là một trong các ưu tiên hàng đầu trong công tác phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam. Việc tìm hiểu thực trạng các vấn đề nhiễm HIV/STI, một vấn đề y tế công cộng rất cần được quan tâm trong các nhóm dân tộc thiểu số sẽ giúp các nhà lãnh đạo, quản lý, nhà chuyên môn trong việc định hướng, lập kế hoạch, hoạch định chính sách trong việc thực hiện các chủ trương của Đảng và nhà nước với các nhóm dân tộc thiểu số nói chung và nhóm dân tộc Dao nói riêng.
Với các lý do này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Thực trạng nhiễm HIV/STI, một số yếu tố liên quan và hiệu quả can thiệp dự phòng ở người dân tộc Dao tại 3 xã của tỉnh Yên Bái, 2006-2012” .
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mô tả thực trạng nhiễm HIV/STI và các yếu tố liên quan ở người dân tộc Dao 15-49 tuổi tại 3 xã của tỉnh Yên Bái năm 2006
2. Đánh giá hiệu quả can thiệp dự phòng nhiễm HIV/STI ở người dân tộc Dao 15-49 tuổi tại 3 xã của tỉnh Yên Bái trong giai đoạn 2006-2012