LA20.090_Thực trạng kiến thức, thái độ, hành vi và hiệu quả mô hình can thiệp phòng lây nhiễm HIV trong nhóm dân tộc thái 15 – 49 tuổi tại 2 huyện thuộc tỉnh Thanh Hóa
Kể từ 5 trường hợp bệnh nhân AIDS đầu tiên được phát hiện tại Los Angeles – Mỹ vào giữa năm 1981 đến nay (cuối năm 2011), ước tính toàn thế giới đã có 34 triệu người nhiễm HIV hiện đang còn sống. Không có bệnh dịch nào có sức lan tỏa nhanh như dịch HIV/AIDS, đe dọa mọi châu lục, mọi quốc gia, mọi cộng đồng. Không có một đại dịch nào mà toàn nhân loại phải quan tâm như đại dịch HIV/AIDS vì nó không còn chỉ là vấn đề sức khỏe con người đơn thuần mà còn là vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc gia, khu vực và là vấn đề phát triển bền vững của toàn cầu [3], [127].
Ở Việt Nam, kể từ trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện vào tháng 12 năm 1990, đến nay dịch HIV/AIDS đã lan ra khắp các tỉnh trong toàn quốc, vừa phức tạp về quy mô và diện mắc. Tính đến 30/12/2012, toàn quốc đã phát hiện người nhiễm HIV tại 79% xã/phường, 98% quận/huyện và 100% tỉnh/thành phố với số trường hợp nhiễm HIV hiện còn sống là 210.703 trường hợp, số bệnh nhân AIDS hiện còn sống là 61.699 người và 63.372 trường hợp tử vong do AIDS [7]. Tác hại của dịch không chỉ đối với các nhóm hành vi nguy cơ cao mà đã lây truyền ra cho nhóm người dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em và kể cả đồng bào dân tộc thiểu số [28], [128].
Qua hơn hai thập kỷ kể từ ca phát hiện nhiễm HIV đầu tiên ở Việt Nam, các hoạt động phòng chống HIV/AIDS đã được triển khai khá toàn diện, hàng trăm nghiên cứu về HIV/AIDS bao gồm cả nghiên cứu về hành vi, nghiên cứu về huyết thanh học… đã được tiến hành và cung cấp nhiều dữ liệu quan trọng cho việc lập kế hoạch và hoạch định chính sách [4]. Tuy nhiên, các nghiên cứu tập trung nhiều cho nhóm có hành vi nguy cơ cao và ở các tỉnh, thành phố trọng điểm, rất ít các nghiên cứu cho nhóm đồng bào dân tộc thiểu số. Mới chỉ có rất ít thông số về kiến thức, thái độ, thực
hành dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS được báo cáo, đặc biệt chưa có các nghiên cứu đánh giá hiệu quả mô hình can thiệp dự phòng nào cho nhóm người này [28]. Trong khi đó, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tới 14% dân số cả nước và một số dân tộc được đánh giá là có phong tục, tập tục dễ dẫn đến nguy cơ lây nhiễm HIV như phiên chợ tình, tục ngủ thăm, tục quan hệ tình dục trước hôn nhân, lấy chồng lấy vợ sớm… điều đó làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS cho nhóm này.
Để góp phần lấp chỗ trống nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Thực trạng kiến thức, thái độ, hành vi và hiệu quả mô hình can thiệp phòng lây nhiễm HIV trong nhóm dân tộc Thái tại Thanh Hóa”. Nghiên cứu được tiến hành tại 2 huyện vùng cao của tỉnh Thanh Hóa, nơi có trên 70% người dân tộc Thái sinh sống, trong giai đoạn từ năm 2007 tới năm 2012, có đánh giá giữa kỳ vào năm 2009 với mục tiêu như sau:
1. Mô tả thực trạng về kiến thức, thái độ, hành vi và tiếp cận dịch vụ phòng chống lây nhiễm HIV của nhóm người Thái 15 – 49 tuổi tại hai huyện thuộc tỉnh Thanh Hóa năm 2007.
2. Đánh giá hiệu quả mô hình can thiệp cộng đồng phòng chống HIV/AIDS của người dân tộc Thái tại địa bàn nghiên cứu, 2007-2012