LA32.041_Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là nghiên cứu cơ sở lý luận về thừa kế theo pháp luật, chỉ ra những điểm chưa phù hợp trong quy định của BLDS về vấn đề thừa kế theo pháp luật so với thực tiễn giải quyết những tranh chấp liên quan đến nội dung này, từ đó nhằm đưa ra những kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về thừa kế theo pháp luật, tạo hành lang pháp lý vững chắc hơn cho việc áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án đặt ra nhiệm vụ cần giải quyết những vấn đề sau:
Thứ nhất, làm sáng tỏ hơn các vấn đề lý luận về thừa kế theo pháp luật, bao gồm: khái niệm, đặc điểm của thừa kế theo pháp luật, khái niệm diện thừa kế, ý nghĩa của quy định về thừa kế theo pháp luật, thừa kế thế vị, xác định di sản thừa kế.
Thứ hai, nghiên cứu và phân tích các quy định pháp luật hiện hành về thừa kế theo pháp luật, có sự so sánh, đối chiếu với quy định pháp luật trước khi BLDS 2015 có hiệu lực và với quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới.
Thứ ba, nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế theo pháp luật trong thời gian gần đây. Từ đó, có những nhìn nhận về tính hợp lý hoặc những điểm chưa hợp lý trong các quy định pháp luật, dẫn đến khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc trong thực tiễn và đề xuất những kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về thừa kế theo pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả của việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến nội dung này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là pháp luật về thừa kế theo pháp luật theo BLDS nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
– Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu các quy định của BLDS nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015 về thừa kế theo pháp luật, tuy nhiên luận án không nghiên cứu thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài.
– Phạm vi về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu về thừa kế theo pháp luật ở trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam, bên cạnh đó có so sánh với một số quy định của pháp luật của một số quốc gia trên thế giới.
– Phạm vi về thời gian: Luận án nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực tiễn pháp lý liên quan đến thừa kế theo pháp luật, quy định của BLDS năm 2015 về thừa kế theo pháp luật và tập trung tìm hiểu thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật từ khi BLDS 2015 có hiệu lực. Trong bối cảnh BLDS năm 2015 mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, tác giả vẫn có sự so sánh, đối chiếu các vấn đề về lý luận và quy định pháp luật trong các BLDS trước đây (BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005), một số văn bản pháp luật trong thời kì cũ.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ………………………………………………………………………………………………………………….. 1
Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI………………………………………………………………………………………………… 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu……………………………………………………………………………. 7
1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu………………………………………………………………………………….. 26
CHƢƠNG 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT 29
2.1. Khái niệm, đặc điểm thừa kế theo pháp luật…………………………………………………………. 29
2.2. Ý nghĩa của quy định về thừa kế theo pháp luật……………………………………………………. 45
2.3. Một số vấn đề có liên quan đến thừa kế theo pháp luật …………………………………………. 48
CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ
THEO PHÁP LUẬT………………………………………………………………………………………………. 67
3.1.Những nguyên tắc của pháp luật Việt Nam về thừa kế theo pháp luật………….67
3.2. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật ……………………………………………………………. 72
3.3. Hàng thừa kế theo pháp luật………………………………………………………………………………… 84
3.4. Thừa kế thế vị……………………………………………………………………………………………………103
3.5. Phân chia di sản thừa kế theo pháp luật……………………………………………………………….107
Chƣơng 4. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ………………………………………………………………………..115
4.1. Đánh giá chung tình hình tranh chấp thừa kế theo pháp luật ở Việt Nam trong những
năm gần đây…………………………………………………………………………………………………………….115
4.2. Những hạn chế, tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật về thừa kế theo pháp luật và nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại ……………………………………………………………………117
4.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật ………………………….142
KẾT LUẬN……………………………………………………………………………………………………………149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………………………151
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS Bộ luật Dân sự BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự TANDTC Tòa án nhân dân tối cao XHCN Xã hội chủ nghĩa
LDN Luật Doanh nghiệp LSHTT Luật Sở hữu trí tuệ TNHH Trách nhiệm hữu hạn
BẢNG
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 4.1. Số liệu các tranh chấp thừa kế so với tranh chấp dân sự chung ở Việt Nam từ năm 2014 đến năm 2019 ………………………………………………………………………………………….115
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 4.1. Tranh chấp thừa kế ở Việt Nam từ năm 2014 đến năm 2019………………………116
1. Tính cấp thiết của đề tài
MỞ ĐẦU
Chế định thừa kế là một trong những chế định pháp luật quan trọng trong lĩnh vực dân sự. Với tư cách là một hiện tượng xã hội khách quan, thừa kế ra đời như một tất yếu của lịch sử. Sự tồn tại của con người là hữu hạn, đến một lúc nào đó con người cũng sẽ phải đối mặt với “cái chết”. Một người chết đi đương nhiên không kéo theo sự mất đi của những tài sản mà khi còn sống người đó đã nắm giữ, chi phối. Như là một tất yếu, những tài sản đó sẽ phải được dịch chuyển sang cho những người còn sống để tiếp tục phát huy giá trị kinh tế, tinh thần của tài sản, phục vụ cho cuộc sống của những người hưởng di sản nói riêng và xã hội loài người nói chung. Sự phát triển của xã hội ở một mức độ nhất định dẫn đến sự ra đời của nhà nước và pháp luật. Lúc này, các quan hệ xã hội không còn phát sinh, thay đổi, chấm dứt một cách
“tự phát” nữa mà chịu sự chi phối của các quy định pháp luật. Thừa kế cũng là một trong những quan hệ xã hội nằm trong sự điều chỉnh đó.
Có thể nói, chế định thừa kế là một trong những chế định có lịch sử ra đời khá sớm so với rất nhiều các chế định khác trong lĩnh vực dân sự. BLDS năm 2015 trên cơ sở kế thừa những quy định của chế định thừa kế trong BLDS năm 2005 cũng đã có rất nhiều sửa đổi, bổ sung mới trên tinh thần tạo nên sự phù hợp giữa quy định pháp luật với thực tiễn khách quan về vấn đề này. Về cơ bản, quy định pháp luật về thừa kế của Việt Nam cũng như của các quốc gia khác trên thế giới đều ghi nhận có hai hình thức thừa kế: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Nếu thừa kế theo di chúc hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của người để lại di sản được thể hiện trong di chúc, thì thừa kế theo pháp luật là sự phản ảnh một cách rõ nét nhất ý chí của nhà nước trong việc điều chỉnh, tác động vào các quan hệ thực tiễn về việc dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho những người còn sống. BLDS năm 2015 đã quy định những vấn đề liên quan đến thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các vụ việc tranh chấp về thừa kế đã cho thấy: có rất nhiều tranh chấp liên quan đến trường hợp thừa kế theo pháp
luật. Thậm chí, có những trường hợp người để lại di sản có lập di chúc nhưng di
1
chúc lại không phát sinh hiệu lực pháp luật một phần, dẫn đến tranh chấp giữa những người thừa kế theo di chúc và người thừa kế theo pháp luật. Hoặc có những trường hợp tranh chấp thừa kế theo pháp luật do tranh chấp về tư cách người thừa kế, tranh chấp do di sản thừa kế bị xác định sai… Mặc dù vấn đề về thừa kế theo pháp luật đã có rất nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu, tuy nhiên cùng với sự phát triển của kinh tế, văn hóa, xã hội cũng ngày một thay đổi, di sản thừa kế ngày nay đã không chỉ còn là những di sản truyền thống nên các tranh chấp về thừa kế theo pháp luật cũng thay đổi cả về đối tượng, chủ thể, tính chất, quy mô của vụ việc. BLDS năm 2015 mới có hiệu lực từ 01/01/2017, tác giả thiết nghĩ việc nghiên cứu về những cơ sở lý luận cũng như cơ sở thực tiễn của vấn đề thừa kế theo pháp luật, qua đó đưa ra những đánh giá và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành về nội dung này, tạo cơ sở pháp lý vững chắc hơn cho công tác áp dụng pháp luật của tòa án trong giải quyết các tranh chấp về thừa kế theo pháp luật vẫn luôn là một việc làm cần thiết và đáng được quan tâm, coi trọng. Tương ứng với sự thay đổi, phát triển của nền kinh tế xã hội, tranh chấp về thừa kế cũng ngày càng phức tạp về quy mô và tính chất, nhiều trường hợp dẫn đến mất trật tự an toàn xã hội, băng hoại đạo đức, phong tục, truyền thống dân tộc. Do đó luận án nghiên cứu và đề xuất các giải pháp mới nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hơn nữa hiệu quả áp dụng pháp luật về thừa kế theo pháp luật. Từ những lý do trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015” làm đề tài nghiên cứu luận án của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là nghiên cứu cơ sở lý luận về thừa kế theo pháp luật, chỉ ra những điểm chưa phù hợp trong quy định của BLDS về vấn đề thừa kế theo pháp luật so với thực tiễn giải quyết những tranh chấp liên quan đến nội dung này, từ đó nhằm đưa ra những kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về thừa kế theo pháp luật, tạo hành lang pháp lý vững chắc hơn cho việc áp dụng pháp
luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
2
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án đặt ra nhiệm vụ cần giải quyết những vấn đề sau:
Thứ nhất, làm sáng tỏ hơn các vấn đề lý luận về thừa kế theo pháp luật, bao gồm: khái niệm, đặc điểm của thừa kế theo pháp luật, khái niệm diện thừa kế, ý nghĩa của quy định về thừa kế theo pháp luật, thừa kế thế vị, xác định di sản thừa
kế.
Thứ hai, nghiên cứu và phân tích các quy định pháp luật hiện hành về thừa kế theo pháp luật, có sự so sánh, đối chiếu với quy định pháp luật trước khi BLDS
2015 có hiệu lực và với quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới.
Thứ ba, nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế theo pháp luật trong thời gian gần đây. Từ đó, có những nhìn nhận về tính hợp lý hoặc những điểm chưa hợp lý trong các quy định pháp luật, dẫn đến khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc trong thực tiễn và đề xuất những kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về thừa kế theo pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả của việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến nội dung này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là pháp luật về thừa kế theo pháp luật theo BLDS nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
– Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu các quy định của BLDS nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015 về thừa kế theo pháp luật, tuy nhiên luận án không nghiên cứu thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài.
– Phạm vi về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu về thừa kế theo pháp luật ở trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam, bên cạnh đó có so sánh với một số quy
định của pháp luật của một số quốc gia trên thế giới.
3
– Phạm vi về thời gian:
Luận án nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực tiễn pháp lý liên quan đến thừa kế theo pháp luật, quy định của BLDS năm 2015 về thừa kế theo pháp luật và tập trung tìm hiểu thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế theo pháp luật từ khi BLDS 2015 có hiệu lực. Trong bối cảnh BLDS năm 2015 mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2017, tác giả vẫn có sự so sánh, đối chiếu các vấn đề về lý luận và quy định pháp luật trong các BLDS trước đây (BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005), một số văn bản pháp luật trong thời kì cũ.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử trên cơ sở quan điểm, mục tiêu, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Luận án sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó chủ yếu là các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn và phương pháp nghiên cứu khoa học luật như phân tích, so sánh, tổng hợp cho từng nội dung cụ thể, nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu và thực hiện được nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra. Cụ thể:
Để thực hiện được nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề lý luận tại Chương 2, luận án sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên cứu: mô tả, phân tích, so sánh để đưa ra được khái niệm thừa kế theo pháp luật, đặc điểm của thừa kế theo pháp luật, và một số vấn đề lý luận khác.
Để thực hiện được nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề về quy định pháp luật hiện hành về thừa kế theo pháp luật tại Chương 3, luận án đã chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, diễn dịch, quy nạp, so sánh đối chiếu giữa quy định pháp luật của BLDS năm 2015 với quy định pháp luật trong BLDS năm 2005 và quy định pháp luật trong chế độ cũ.
Trong chương 4, với nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn giải quyết các tranh chấp về thừa kế theo pháp luật, đồng thời chỉ ra những điểm bất cập và đưa ra
những kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật, luận án sử dụng một số phương
4
pháp nghiên cứu như phân tích, bình luận, diễn dịch, quy nạp, và so sánh đối
chiếu.
5. Những đóng góp mới của Luận án
Luận án “Thừa kế theo pháp luật theo Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015” đã thể hiện được những điểm mới sau
đây:
Thứ nhất, luận án đã bổ sung, hoàn thiện thêm một số vấn đề lý luận cơ bản về thừa kế theo pháp luật như khái niệm thừa kế theo pháp luật, diện thừa
kế theo pháp luật… Bên cạnh đó luận án cũng chỉ ra được bản chất, đặc điểm của thừa kế theo pháp luật, cũng như ý nghĩa của các quy định về thừa kế theo pháp luật.
Thứ hai, luận án đã phân tích lại một cách có hệ thống những quy định pháp luật trong BLDS năm 2015 về thừa kế theo pháp luật trên cơ sở những vấn đề lý luận đã được nghiên cứu trong chương về lý luận, so sánh với quy định pháp luật của một số quốc gia, cùng với việc nghiên cứu các quy định về thừa kế trong các luật chuyên ngành như Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009), qua đó đưa ra những quan điểm cá nhân về những điểm hợp lý hoặc hạn chế của những quy định này so với quy định trước đó.
Thứ ba, luận án đã có những phân tích, nhận xét về một số bản án tiêu
biểu, một số tình huống trong thực tiễn về các tranh chấp thừa kế theo pháp luật trong thời gian từ khi BLDS năm 2015 có hiệu lực pháp luật. Từ đó, chỉ ra được những nguyên nhân và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề thừa kế theo pháp luật. Ví dụ: kiến nghị bổ sung quy định về điều kiện để con nuôi được hưởng di sản thừa kế của cha mẹ đẻ của cha mẹ nuôi mình, về từ chối nhận di sản; về điều kiện hưởng di sản thừa kế theo pháp luật của cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; bổ sung quy định về điều kiện của người thừa kế trong trường hợp được sinh ra
theo phương pháp khoa học…
5
6. Ý nghĩa của luận án
6.1. Ý nghĩa khoa học
Luận án bổ sung và góp phần hoàn thiện thêm lý luận về thừa kế theo pháp luật trong việc bảo đảm, bảo vệ quyền để lại di sản và quyền được hưởng di sản thừa kế của mỗi công dân.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể là một tài liệu tham khảo có giá trị cho các nhà lập pháp nghiên cứu, tìm hiểu, nhằm dự liệu và xây dựng những quy định pháp luật có giá trị và khả năng thực thi cao trong thực tiễn trên cơ sở những vấn đề lý luận và những kiến nghị mà luận án đưa ra. Luận án cũng là một nguồn tài liệu tham khảo có giá trị khoa học nhất định cho các chuyên gia giảng dạy về pháp luật nói chung, cũng như pháp luật về thừa kế nói riêng. Ngoài ra, luận án có thể trở thành tài liệu tham khảo có giá trị trong các cơ sở đào tạo luật học nhằm cung cấp những góc nhìn, cách tiếp cận khác nhau về thừa kế theo pháp luật cho bạn đọc.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu gồm 04 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến đề
tài
Chương 2: Một số vấn đề lý luận về thừa kế theo pháp luật
Chương 3: Thực trạng quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật
Chương 4: Thực tiễn áp dụng pháp luật về thừa kế theo pháp luật và một số
kiến nghị
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu lý luận về thừa kế theo pháp luật
Thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng là một vấn đề có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Một người lúc còn sống có tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình đều có quyền để lại di sản thừa kế sau khi họ chết cho những người còn sống, không phụ thuộc vào việc người đó có năng lực hành vi dân sự đầy đủ hay không. Tương tự, một người hoàn toàn có thể trở thành người nhận di sản thừa kế, khi người đó được chỉ định trong di chúc, hoặc đáp ứng những điều kiện pháp luật quy định về người thừa kế theo pháp luật. Đề tài về thừa kế là một trong những đề tài nhận được sự quan tâm của rất nhiều nhà khoa học, nhất là các nhà khoa học trong lĩnh vực khoa học pháp lý.
Trên cơ sở nghiên cứu các công trình về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng, qua đó nhìn nhận được những vấn đề đã được nghiên cứu, cũng như các vấn đề còn bỏ ngỏ về nội dung thừa kế theo pháp luật, nghiên cứu sinh nhận thấy các tài liệu tham khảo về nội dung này rất đa dạng và phong phú về thể loại như sách, đề tài nghiên cứu khoa học, các luận văn, luận án, các bài viết trong các tạp chí, hội thảo khoa học… Các công trình đó đã nghiên cứu về khái niệm thừa kế theo pháp luật, về ý nghĩa của quy định về thừa kế theo pháp luật, những trường hợp thừa kế theo pháp luật, về hàng thừa kế và phạm vi người thừa kế theo pháp luật ở nhiều góc độ và cách nhìn khác nhau, mỗi một công trình có cách nghiên cứu, tiếp cận riêng nhưng nhìn chung đều đã phân tích và phản ánh được những nét cơ bản nhất về các vấn đề nghiên cứu, cụ thể như sau:
* Về khái niệm thừa kế theo pháp luật:
Khái niệm thừa kế theo pháp luật đã được một số tác giả nghiên cứu trong các công trình như sách “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay” của tác giả Phùng Trung Tập, do Nxb Tư pháp xuất bản năm 2004, sách “Pháp luật về thừa
kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp”, Nxb Tư pháp Hà Nội xuất bản năm 2017 của tác
7
giả Phạm Văn Tuyết và Lê Kim Giang, tác giả Nguyễn Văn Huy trong cuốn sách “Thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam”, Nxb. Tư pháp, Hà Nội 2017, cho thấy có sự thống nhất cao và đều dựa trên quy định của các BLDS như Điều 677 BLDS 1995, Điều 674
BLDS 2005, Điều 649 BLDS 2015: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế,
điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”.
* Về đặc điểm thừa kế theo pháp luật
Trong các công trình nghiên cứu về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng, có rất ít công trình nghiên cứu có đề cập tới đặc điểm của thừa kế theo pháp luật. Cụ thể:
Sách: Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp của tác giả Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang (2017) [83] là một trong số rất ít cuốn sách đề cập tới đặc điểm của thừa kế theo pháp luật. Trong cuốn sách này, tác giả đã thông qua việc so sánh thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật để nêu lên những đặc điểm của thừa kế theo pháp luật như sau:
Thứ nhất, việc dịch chuyển di sản trong thừa kế theo pháp luật phải được dịch chuyển theo hàng thừa kế mà pháp luật đã quy định trước. Hay nói cách khác là trong thừa kế theo di chúc thì di sản được định đoạt dựa theo ý chí của người có tài sản, nhưng trong thừa kế theo pháp luật thì những ai sẽ được hưởng di sản thừa kế do pháp luật dự liệu trước trong mọi trường hợp, mọi gia đình là như nhau, tức là được định đoạt theo ý chí của nhà làm luật [83, tr. 270].
Thứ hai, người thừa kế theo pháp luật chỉ được hưởng di sản khi có đủ hai điều kiện: thứ nhất không thuộc các trường hợp không được hưởng di sản quy định tại Khoản 1, Điều 643, BLDS 2005 và không bị người để lại di sản truất quyền thừa kế. Trong khi người thừa kế theo di chúc chỉ cần điều kiện là không thuộc một trong các trường hợp không được hưởng di sản theo quy định tại Khoản 1, Điều 643, BLDS 2005 vì khi người để lại di sản đã thể hiện ý chí của mình trong di chúc bằng việc định đoạt cho người được hưởng di sản đồng nghĩa với việc họ không tước quyền hưởng di sản của người được
hưởng di sản Trường hợp người thừa kế theo di chúc thuộc một trong các trường hợp
8
không được hưởng di sản [46, Khoản 1, Điều 643] nhưng người để lại di sản biết mà vẫn cho họ hưởng di sản thì họ vẫn được hưởng [46, Khoản 2, Điều 643]
Thứ ba, trong thừa kế theo pháp luật, việc dịch chuyển di sản từ người để lại di sản sang những người được hưởng di sản phải theo trình tự do pháp luật quy định. Đó là người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng di sản khi tất cả những người ở hàng thừa kế trước không còn ai hoặc không được hưởng, bị tước quyền hưởng hoặc từ chối nhận di sản. Còn trong thừa kế theo di chúc thì chỉ cần căn cứ vào ý chí của người để lại di sản định đoạt cho ai thì người đó sẽ được nhận, không cần theo trình tự nào [83, tr. 270 – 271]
Sách: “Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam” của Trường Đại học Kiểm sát do tác giả Vũ Thị Hồng Vân làm chủ biên (2016) cũng nêu lên đặc điểm của thừa kế theo pháp luật so với thừa kế theo di chúc là người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân có một trong ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng với người để lại di sản, nhưng người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức và không cần có mối quan hệ gì với người để lại di sản.
Trong Nguyễn Văn Huy (2017), Thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tác giả Nguyễn Văn Huy nêu ba đặc điểm của thừa kế theo pháp luật là:
Một là về dịch chuyển tài sản, đồng quan điểm với tác giả Phạm Văn Tuyết và Lê Kim Giang (2013) trong Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, tác giả Nguyễn Văn Huy nêu rõ: “Việc dịch chuyển tài sản theo hàng thừa kế do pháp luật quy định mà không theo ý chí của người để lại di sản. Việc dịch chuyển tài sản phải theo trình tự căn cứ vào hàng thừa kế. Người thừa kế ở hàng sau chỉ được hưởng nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước” [23, tr.85]
Hai là, “căn cứ xác định người thừa kế: Người thừa kế phải thuộc diện thừa kế theo pháp luật, có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng với người để lại di sản” [23, tr.85]. Đây là điểm khác biệt rất lớn của thừa kế theo pháp luật so với thừa kế theo di chúc. Trong thừa kế theo di chúc thì vấn đề này hoàn toàn không được đặt ra.
Ba là, đối với phần di sản được hưởng thì “những người thừa kế theo pháp luật được hưởng những kỷ phần bằng nhau” [23, tr.85] nhưng trong thừa kế theo di chúc thì các kỷ
phần có giá trị lớn nhỏ phụ thuộc vào ý chí của người để lại di sản.
9
Tóm lại, dù đặc điểm mà các tác giả nêu lên là khác nhau nhưng các tác giả đều xuất phát từ nguyên nhân dẫn đến việc áp dụng thừa kế theo pháp luật là do người để lại di sản không thể hiện ý chí của mình đối với khối tài sản mà họ có trước khi chết nên pháp luật thay cho ý chí của người để lại di sản để định đoạt khối tài sản của họ sau khi họ chết. Pháp luật phân chia cho những người gần gũi nhất với người để lại di sản dựa trên ba mối quan hệ: hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng theo những điều kiện và trình tự luật định.
* Về ý nghĩa của quy định về thừa kế theo pháp luật
Về ý nghĩa của quy định về thừa kế theo pháp luật, đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới ý nghĩa của quy định về thừa kế như sau:
Bài viết: “Một số vấn đề về chế định quyền thừa kế trong Luật Dân sự” của tác giả Hà Thị Mai Hiên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5 năm 1995. Trong bài viết này, tác giả đã đề cập tới ý nghĩa của quy định pháp luật về thừa kế là “thiết lập một trật tự xác định người nào có thể thay thế người đã chết tham gia vào các quan hệ tài sản và bằng cách đó bảo đảm sự vận hành bình thường quá trình phát triển kinh tế xã hội” [17, tr.31].
Sách: “Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của BLDS”, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1997), do tác giả Hoàng Thế Liên làm chủ biên, đã dành toàn bộ chương 5 viết về thừa kế. Tác giả nêu lên ý nghĩa của các quy định về thừa kế có ý nghĩa “đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi của đời sống trong lĩnh vực này, tạo điều kiện cũng như khuyến khích mọi cá nhân tích cực lao động sản xuất, tăng thêm của cải vật chất cho gia đình và xã hội” [93, tr.262].
Luận án Tiến sĩ luật học: “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ 1945 đến nay”, tác giả Phùng Trung Tập (2002), trong Luận án này, tác giả đã đưa ra ý nghĩa của các quy định về thừa kế là “điều chỉnh kịp thời các quan hệ trong lĩnh vực thừa kế, cũng như tạo cơ sở pháp lý cơ bản cho việc giải quyết những tranh chấp phát sinh từ quan hệ thừa kế” [53].
Sách: “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay” của tác giả Phùng Trung Tập (2004). Trong cuốn sách này, tác giả đã bổ sung thêm ý nghĩa của quy định về thừa kế là “theo đó quyền và lợi ích về tài sản của công dân được chú ý
bảo vệ phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước” [55, tr.5].
10
Sách: “Hỏi đáp pháp luật về thừa kế”, của các tác giả Phạm Minh Lương, Tạ Mạnh Tấn (2006). Trong cuốn sách này, tác giả có cách nhìn khác hơn về ý nghĩa của quy định về thừa kế là nhằm “hạn chế tối đa các tranh chấp” [28, tr.3] về thừa kế từ lâu đã rất phức tạp và xảy ra ngày càng nhiều trong xã hội.
Luận án Tiến sĩ luật học“Cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định chung về thừa kế trong BLDS” năm 2007 của tác giả Nguyễn Minh Tuấn đã khẳng định ý nghĩa của quy định pháp luật về thừa kế nói chung là “đóng vai trò quan trọng, điều chỉnh việc chuyển dịch di sản của người chết cho những người khác còn sống theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật” [75, tr.5].
Sách: “Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử”, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2009, tác giả Tưởng Duy Lượng đã nói về ý nghĩa của quy định về thừa kế là “một trong những phương tiện pháp lý cần thiết để bảo toàn và gia tăng sự tích lũy của cải xã hội” [32, tr.139]. Bởi vì tâm lý của đa số cá nhân đều muốn dành tài sản của mình cho những người mà họ thương yêu kể cả khi họ còn sống hay đã chết. Bản thân họ có thể lao động vất vả, chi tiêu tiết kiệm trước hết để duy trì cuộc sống, sau đó là dành lại cho những người thân của mình. Giả sử, pháp luật không công nhận quyền thừa kế của cá nhân mà cá nhân chỉ có quyền sở hữu tài sản của mình tới khi chết thì sẽ dẫn tới những hậu quả rất đáng tiếc, không thể tránh khỏi. Đó là việc triệt tiêu nguồn động lực khiến họ hăng say lao động, bên cạnh đó còn triệt tiêu động lực để duy trì khối tài sản mình có. Khi đó họ sẽ tiêu dùng hoang phí dẫn tới lãng phí nguồn của cải của xã hội, thậm chí do không có tích lũy, có những người còn trở thành gánh nặng của xã hội khi có những biến cố trong cuộc sống. Chính vì vậy, ý nghĩa của quy định về thừa kế là rất lớn, giúp cá nhân “không chỉ kích thích tính tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng mà còn kích thích lòng say mê lao động sáng tạo, kích thích sự quản lý năng động của mỗi người; tạo ra sự thi đua thầm lặng của mỗi cá nhân nhằm nâng khối tài sản của mình lên bằng sức lực và khả năng sáng tạo mà họ có, chỉ khi đó, quyền sở hữu và quyền thừa kế mới trở thành một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế xã hội” [32, tr.5].
Sách: “Tìm hiểu các quy định của pháp luật về thừa kế” của tác giả Dương Bạch
Long và Nguyễn Xuân Anh (2009). Trong cuốn sách này tác giả đã phát hiện ra ý nghĩa
11
của quy định pháp luật về thừa kế:“đáp ứng được những đòi hỏi của đời sống xã hội trong lĩnh vực này; đồng thời tạo điều kiện cũng như khuyến khích mọi cá nhân tích cực lao động sản xuất, tăng thêm của cải vật chất cho gia đình và xã hội” và “nhằm bảo vệ tốt hơn nữa quyền của người để lại di sản, cũng như quyền và nghĩa vụ của những người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật” [3, tr.6].
Luận án Tiến sĩ luật học: “Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất từ thực tiễn xét xử tại tòa án ở Việt Nam” của tác giả Trần Văn Hà (2017). Trong công trình này, tác giả đã chứng minh ý nghĩa của quy định về thừa kế là “có vai trò, ý nghĩa rất lớn trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thừa kế [15, tr 54].
Các công trình nghiên cứu trên đều đề cập tới ý nghĩa của quy định về thừa kế nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu riêng về ý nghĩa của quy định về thừa kế theo pháp luật. Mỗi công trình đều nêu lên được ý nghĩa của quy định về thừa kế dưới góc nhìn của tác giả. Mỗi góc nhìn của một tác giả khác nhau lại nêu lên một ý nghĩa khác nhau của quy định thừa kế. Đối với kinh tế thì quyền và lợi ích về tài sản của công dân được chú ý bảo vệ phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đối với đời sống xã hội thì quy định về thừa kế sẽ góp phần bảo toàn, gia tăng tích lũy của cải xã hội, hạn chế tối đa các tranh chấp cũng như tạo cơ sở pháp lý cơ bản cho việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ thừa kế nếu có, khuyến khích cá nhân tích cực tham gia sản xuất, đối với đời sống. Đối với đời sống tình cảm mỗi cá nhân thì quy định về thừa kế sẽ góp phần tránh được những mâu thuẫn tình cảm của những người trong gia đình có liên quan đến di sản. Nhưng dù xét dưới góc độ nào cũng có thể thấy được ý nghĩa và vai trò rất to lớn của quy định về thừa kế trong việc điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội hiện nay.
* Về những trường hợp thừa kế theo pháp luật
Các trường hợp thừa kế theo pháp luật là các giả thiết, các tình huống giả định mà khi các giả thiết, tình huống này xảy ra thì những quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật sẽ được sử dụng để định đoạt tài sản cho người đã chết.
Các công trình nghiên cứu về những trường hợp thừa kế theo pháp luật, có các
công trình như:
12
Sách: “Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của BLDS”, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1997) [93], do tác giả Hoàng Thế Liên làm chủ biên đã phân tích rất chi tiết các trường hợp thừa kế theo pháp luật theo quy định tại Điều 678 BLDS 1995.
Sách: “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay” của tác giả Phùng Trung Tập (2004) [55], trong cuốn sách này, tác giả đã nêu lên và phân tích các trường hợp thừa kế theo pháp luật ở nước ta trước Cách mạng tháng Tám do chế độ thực dân quy định chỉ có hai trường hợp. Sau năm 1945, Sắc lệnh 97 được ban hành nhưng các trường hợp thừa kế theo pháp luật không được quy định. Sau đó Thông tư 1742 của Bộ Tư pháp được ban hành nhưng cũng chỉ quy định hai trường hợp áp dụng thừa kế theo pháp luật là: người chết không để lại di chúc và người chết có để lại di chúc nhưng di chúc không hợp pháp. Tiếp theo tới Thông tư 594 của Tòa án nhân dân tối cao, Thông tư số 81 và kể cả Pháp lệnh thừa kế trước đây đã không có được những dự liệu toàn diện và đầy đủ dẫn tới nhiều bất cập khi áp dụng. Sau khi BLDS 1995 ra đời thì những trường hợp thừa kế theo pháp luật được quy định tại Điều 678 mới dự liệu được đầy đủ và toàn diện những trường hợp thừa kế theo pháp luật. Đến khi BLDS 2005 và BLDS 2015 có hiệu lực thi hành thì những quy định về trường hợp thừa kế theo pháp luật về cơ bản được giữ nguyên chỉ thay đổi một số câu chữ cho phù hợp hơn mà không làm ảnh hưởng tới nội dung của các Điều 675 BLDS 2005 và Điều 650 BLDS 2015.
Sách: “Bình luận khoa học BLDS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015” (2016) [76], của tác giả Nguyễn Minh Tuấn cùng tập thể tác giả là giảng viên Bộ môn Luật Dân sự Khoa Pháp luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội biên soạn, đã dành trọn 100 trang (từ trang 872 tới trang 972) bình luận về phần thứ tư: Thừa kế. Trong chương XXIII về thừa kế theo pháp luật, các tác giả đã nêu lên các trường hợp thừa kế theo pháp luật theo quy định tại Điều 650 BLDS 2015 và phân tích, bình luận về các trường hợp này.
Sách: “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp” của tác giả Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang (2017) [83], trong cuốn sách này, tác giả Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang cũng đề cập tới những trường hợp áp dụng thừa kế theo pháp luật. Các tác giả
nêu lên các trường hợp áp dụng của thừa kế theo pháp luật trong từng thời kỳ và so sánh
13
làm nổi bật sự hoàn thiện, tịnh tiến theo thời gian để độc giả tiếp cận được vấn đề một cách có hệ thống, thấy được sự hoàn thiện ngày càng cao về kĩ thuật cũng như tư duy lập pháp.
Sách: “Luật Dân sự Việt Nam – bình giải và áp dụng, luật thừa kế”, của tác giả Phùng Trung Tập (2017) [63] đã phân tích những nội dung về thừa kế trong BLDS 2015, bên cạnh đó, tác giả còn đưa ra những bình giải về những quy định của pháp luật về thừa kế như các trường hợp thừa kế theo pháp luật theo quy định tại Điều 650 BLDS 2015 một cách khá chi tiết và sâu sắc, như với trường hợp di chúc không hợp pháp, tác giả đã chỉ ra rất nhiều nguyên nhân dẫn tới việc di chúc bị coi là không hợp pháp như: di chúc được lập ra trái ý chí của người để lại di sản, di chúc lập cho người không có thực, không xác định được người đó là ai…
Các công trình trên đều có sự thống nhất là nêu lên các trường hợp thừa kế theo pháp luật theo quy định của pháp luật hiện hành tại thời điểm mà công trình đó được công bố. Riêng cuốn sách “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay” (2004) [55], tác giả Phùng Trung Tập đã nêu lên và phân tích các trường hợp thừa kế theo pháp luật ở nước ta trước Cách mạng tháng Tám và sau giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám đến năm 2004. Tiếp đó là cuốn sách: “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp” của tác giả Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang (2017) [83], trong cuốn sách này, tác giả Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang cũng đề cập tới những trường hợp áp dụng thừa kế theo pháp luật trong từng thời kì. Tuy nhiên, mỗi lần BLDS mới được ban hành thì các trường hợp thừa kế theo pháp luật lại được bổ sung hoàn thiện hơn BLDS trước đó (trừ quy định về các trường hợp thừa kế theo pháp luật trong BLDS 2015 về cơ bản được giữ nguyên chỉ thay đổi một số câu chữ cho phù hợp hơn mà không làm ảnh hưởng tới nội dung của các Điều 675 BLDS 2005 và Điều 650 BLDS 2015) nên các công trình dù có nêu lên các trường hợp thừa kế theo pháp luật trong từng thời kì nhưng về cơ bản vẫn dựa trên các trường hợp thừa kế theo pháp luật mà BLDS hiện hành quy định. Vì vậy, những công trình ra đời sau sẽ đề cập đến quy định về các trường hợp thừa kế theo pháp luật một cách đầy đủ, hoàn thiện hơn các công trình ra đời trước.
* Về hàng thừa kế và phạm vi người thừa kế theo pháp luật:
14
Trong những năm qua, có rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới vấn đề hàng thừa kế theo pháp luật,
Sách: “Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của BLDS”, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1997) [93], do tác giả Hoàng Thế Liên làm chủ biên cũng đề cập khá chi tiết những quy định của pháp luật và những bình luận của các tác giả về những vấn đề có liên quan tới việc một người có được hưởng thừa kế theo pháp luật của người kia hay không như: cơ sở để vợ chồng được hưởng thừa kế theo pháp luật của nhau, trường hợp vợ chồng xin ly hôn mà chưa được tòa án cho ly hôn bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, hay trường hợp vợ chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết…
Bài viết: “Quyền của trẻ em đối với tài sản và thừa kế tài sản, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, của tác giả Hà Thị Mai Hiên đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5 năm 1998 [18], tác giả đã làm rõ bản chất pháp lý và những nguyên tắc chung về quyền của trẻ em đối với tài sản và thừa kế tài sản, quyền về tài sản của trẻ em, quyền của trẻ em về thừa kế tài sản. Ngoài việc được hưởng thừa kế tài sản của cha mẹ, ông bà, các cụ dựa trên quy định về các hàng thừa kế theo pháp luật thì trẻ em còn được hưởng di sản thừa kế của cha mẹ không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, được hưởng thừa kế thế vị tài sản của ông bà, các cụ và có thể được hưởng thừa kế theo pháp luật của cha dượng, mẹ kế…Từ đó tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm bảo vệ quyền của trẻ em về tài sản và thừa kế tài sản.
Sách: “Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật Dân sự Việt Nam”(1999) [11] của tác giả Nguyễn Ngọc Điện, là một công trình khá chuyên sâu. Trong phần di chuyển di sản, tác giả đề cập tới quyền hưởng di sản thừa kế theo pháp luật của từng người được hưởng di sản một cách khá chi tiết như các con đã thành niên, chưa thành niên, con đẻ, con nuôi, con ngoài giá thú, cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi… với các ví dụ cụ thể về những người không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản…
Bài viết “Bàn về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng” của tác giả Thái
Công Khanh đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2/2002. Trong bài viết này tác giả nêu
lên các trường hợp như: con riêng nhỏ tuổi hay lớn tuổi, con riêng có ở chung với bố
15
dượng hay không, con riêng đi làm con nuôi một người khác, con riêng có một hoặc có nhiều bố dượng, con riêng có quan hệ chăm sóc với bố dượng hay không… từ đó tác giả đưa ra những quan điểm, kiến nghị một số nội dung trong BLDS 1995.
Sách: “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay” của tác giả Phùng Trung Tập (2004) [55]. Trong cuốn sách này, tác giả đã đề cập tới diện và hàng thừa kế theo pháp luật dọc theo quá trình phát triển của chế định thừa kế theo pháp luật ở nước ta từ năm 1945 đến khi cuốn sách được xuất bản (năm 2004) và đưa ra những phân tích, bình luận của mình về vấn đề này, ví dụ như quy định của Thông tư 594 về quyền hưởng di sản thừa kế của một người khi người đó đã là con nuôi hợp pháp của một người khác. Tác giả đã chỉ ra những bất cập của các quy định pháp luật về diện và hàng thừa kế ở các văn bản quy định về thừa kế nói chung cũng như quy định trong Thông tư
594 nói riêng.
Bài viết: Những hạn chế và bất cập của các quy định về thừa kế trong BLDS 1995, Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2004 của tác giả Phùng Trung Tập [56] đề cập tới vấn đề thừa kế thế vị, trường hợp đặc biệt của thừa kế theo pháp luật. Sau các phân tích, tác giả kiến nghị sửa đổi Điều 680 BLDS 1995.
Bài viết: “Vài suy nghĩ về Điều 680 BLDS (thừa kế thế vị)”, tác giả Nguyễn Hải An đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4 năm 2004 [1]. Trong bài viết này, tác giả đã nêu lên một số vấn đề như sau: Điều 680 BLDS 1995 “chưa đề cập đến trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết trong cùng một thời điểm thì con hoặc cháu của họ có được thừa kế thế vị hay không?”. Tác giả đưa ra các quan điểm của nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Điện, ông Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Tưởng Duy Lượng về vấn đề này, từ đó, tác giả tổng hợp, nêu lên một số kiến nghị của các nhà nghiên cứu trên nhằm bổ sung Điểm b, Khoản 1, Điều 679, BLDS 1995 cho cháu được hưởng thừa kế theo pháp luật của ông bà vào hàng thừa kế thứ hai và chắt được hưởng thừa kế theo pháp luật của cụ ở hàng thừa kế thứ ba. Tiếp đó tác giả còn nêu một số ý kiến chỉ ra sự bất cập của Điều 680 vì chưa quy định cụ thể trường hợp cha mẹ của cháu bị truất quyền
hưởng thừa kế của ông bà thì cháu có được hưởng thừa kế thế vị hay không, chắt có được
16
hưởng thừa kế thế vị của cụ khi ông bà của chắt bị tước quyền hưởng di sản của cụ hay vấn đề con nuôi có được hưởng thừa kế thế vị hay không cũng đã được tác giả đặt ra.
Sách: “Bình luận khoa học BLDS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015” của tác giả Nguyễn Minh Tuấn cùng tập thể tác giả là giảng viên Bộ môn Luật Dân sự, Khoa Pháp luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội biên soạn (2015) [76] đã trình bày về diện và hàng thừa kế theo quy định tại Điều 651 BLDS 2015 và đưa ra những giải thích rất chi tiết, cụ thể như cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi là gì…trường hợp nào họ được hưởng di sản thừa kế của nhau, trường hợp nào không.
Sách: “Luật Dân sự Việt Nam bình giải và áp dụng Luật thừa kế (2017) [63], tác giả Phùng Trung Tập đã đề cập tới diện và hàng thừa kế theo pháp luật một cách khá chi tiết như trường hợp cần xác định con ngoài giá thú, trường hợp một người đàn ông có nhiều vợ, hay trường hợp hôn nhân thực tế thì vợ chồng có được hưởng di sản thừa kế của nhau hay không…
Sách: “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp” (2017) của tác giả Phạm Văn Tuyết và Lê Kim Giang đã đề cập tới quy định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật của pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ và pháp luật thừa kế của một số quốc gia trên thế giới như của Cộng hòa Pháp, của Thái Lan [83]… Theo tác giả, dù theo quy định của pháp luật Việt Nam hay quy định của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới thì diện và hàng thừa kế theo pháp luật cũng được quy định dựa vào “ý chí mang tính truyền thống” của người để lại di sản, có nghĩa là dù không bày tỏ được ý chí cụ thể của mình nhưng thông thường, người chết sẽ để lại di sản cho những người thân thích nhất của họ. Có thể nói những ai thuộc diện và hàng thừa kế theo pháp luật cũng chính là dựa vào sự “phỏng đoán ý chí của người để lại di sản”.
Tập tài liệu “Promoting and protecting the inheritance rights of women” (Thúc đẩy và bảo vệ quyền thừa kế của phụ nữ) do Trung tâm về quyền và nhà ở tiến hành khảo sát về pháp luật và thực tiễn ở vùng cận Sahara châu Phi vào năm 2004 [97]. Tập tài liệu là kết quả của cuộc khảo sát về quyền thừa kế của phụ nữ ở vùng cận Sahara châu Phi. Đây là khu vực kém phát triển, quyền và lợi ích của người phụ nữ chưa được chú trọng, trong
đó có quyền thừa kế. Kết quả của cuộc khảo sát chủ yếu phục vụ cho công tác báo cáo,
17
đánh giá và đề ra các giải pháp nhằm bảo vệ quyền thừa kế của phụ nữ, làm sao để phụ nữ ở những khu vực kém phát triển trên thế giới có được quyền hưởng di sản thừa kế như những khu vực phát triển trên thế giới.
Các công trình trên đều bàn về hàng thừa kế và phạm vi những người được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật. Các công trình đó bàn về sự phù hợp hay chưa phù hợp của các quy định của pháp luật Việt Nam về những người được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật như cha mẹ, vợ chồng, con, con nuôi, con riêng với cha dượng, mẹ kế, về những hạn chế của pháp luật Việt Nam khi chưa quy định quyền thừa kế thế vị của các con, cháu khi bố mẹ, ông bà bị truất quyền hưởng thừa kế từ đó các tác giả đưa ra các giải pháp sửa đổi bổ sung quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật về thừa kế
theo pháp luật
Trong thời gian qua, nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật, có rất nhiều các công trình trong đó có các công trình tiêu biểu như sau:
Sách: “Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật Dân sự Việt Nam”của tác giả Nguyễn Ngọc Điện (1999) [11] là một công trình khá chuyên sâu, nhưng tác giả chủ yếu nghiên cứu về những quy định chung về thừa kế. Trong phần Di chuyển di sản, tác giả đề cập tới quyền hưởng di sản thừa kế theo pháp luật của những người được hưởng di sản một cách khá chi tiết với cả các ví dụ cụ thể về những người không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản…
Sách: “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay” của tác giả Phùng Trung Tập (2004) [55], cuốn sách giúp độc giả xác định được tầm quan trọng của chế định thừa kế theo pháp luật trong hệ thống pháp luật dân sự nước ta. Giá trị lớn của cuốn sách là đã chỉ ra được những quy định chưa phù hợp về thừa kế theo pháp luật (kể cả các quy định trong BLDS 1995).
Bài viết: “Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự một số nước trên thế giới” của tác giả Trần Thị Huệ” [19] đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật tháng 10 năm 2006, Số
222, tr.78 – 83 đã nói về di sản trong một số BLDS của một số quốc gia như: Luật Dân sự
La Mã, BLDS của nước Cộng hòa Pháp, BLDS và Thương mại Thái Lan, BLDS Nhật
18
Bản, BLDS của bang Quebec, Canada. Trong bài viết này, tác giả đưa ra kiến nghị đưa khái niệm di sản thừa kế vào trong BLDS Việt Nam thì mới có cơ sở lí luận để xem xét và xác định di sản thừa kế trên bình diện chung nhất.
Sách: “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp” của tác giả Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang (2017) [83]. Cũng như những cuốn sách viết về thừa kế theo pháp luật khác, cuốn Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, tác giả Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang cũng viết về những trường hợp áp dụng, những người được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật, thừa kế thế vị. Nhưng đa số các cuốn sách khác đều đề cập tới những vấn đề trên bằng cách liệt kê. Trong cuốn Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp, hai tác giả đã dựa vào sự liệt kê các trường hợp thừa kế theo pháp luật của các văn bản ra đời sau hoàn thiện hơn các văn bản ra đời trước để nêu lên các trường hợp áp dụng của thừa kế theo pháp luật trong từng thời kỳ và so sánh làm nổi bật sự hoàn thiện, tịnh tiến theo thời gian. Cùng với cách giải quyết vấn đề như vậy, các tác giả đã viết về những người thừa kế theo pháp luật và thừa kế thế vị làm cho độc giả tiếp cận được vấn đề nghiên cứu một cách hệ thống.
Sách: “Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS năm 2015”, của tác giả Đỗ Văn Đại (2016) [10]. Đúng như tên gọi cuốn sách, nội dung trong cuốn sách chỉ bình luận về những điểm mới của BLDS 2015. Trong nội dung thừa kế, cuốn sách chỉ tập trung bình luận những điểm mới trong phần những quy định chung, phần thừa kế theo di chúc và phần thanh toán di sản. Phần thừa kế theo pháp luật, tác giả nhận định không có sự thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 nên cuốn sách này không đề cập tới.
Sách: “Bình luận khoa học BLDS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015” của tác giả Nguyễn Minh Tuấn cùng tập thể tác giả là giảng viên Bộ môn Luật Dân sự, Khoa Pháp luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội biên soạn (2015) [76] đã dành trọn 100 trang (từ trang 872 tới trang 972) bình luận về phần thứ tư: Thừa kế. Trong chương XXI là những quy định chung về thừa kế, chương XXIII về thừa kế theo pháp luật, các tác giả đã phân tích, bình luận khá chi tiết và sâu sắc nội dung lần lượt từng điểm, từng khoản của các điều luật. Bên cạnh đó, các tác giả còn đưa ra những ví dụ cụ thể để
phân tích, minh họa giúp cho độc giả hiểu chính xác nhất tinh thần của các điều luật.
19
Sách: “Luật Dân sự Việt Nam – bình giải và áp dụng, luật thừa kế”, của tác giả Phùng Trung Tập (2017) [63]. Trong cuốn sách này viết về thừa kế, là một phần nằm trong bộ sách khoa học “Luật Dân sự Việt Nam – bình giải và áp dụng”, tác giả nêu lên những điểm mới cơ bản về thừa kế trong BLDS 2015. Bên cạnh đó, tác giả còn đưa ra những bình giải về những quy định của pháp luật về thừa kế để người đọc hiểu và áp dụng những quy định đó vào đời sống thực tế. Cuốn sách này là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cho độc giả trong việc tìm hiểu, giảng dạy, học tập, áp dụng Luật Dân sự.
Sách “Inheritance in America from coloninal times to the present” (Thừa kế ở Hoa Kì từ thời thuộc địa đến hiện tại) (1987) của các tác giả Carole Shammas, Marylyn Salmon, Michel Dililin, Nxb Rutgers. Cuốn sách là sự tổng hợp các vấn đề có liên quan đến thừa kế theo quy định của pháp luật Hoa kì từ thời kì thuộc địa, cho thấy cái nhìn toàn diện về sự thay đổi trong quy định của pháp luật để phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn, nhất là đối với quốc gia có nhiều bang như Hoa Kì [98].
Sách “A survey of Canadian and German Succession Law” (Một cuộc khảo sát về luật thừa kế của Canada và Đức) của Eric P. Polten (2011) tập trung làm rõ những nội dung liên quan đến thừa kế theo pháp luật của Canada và Đức, trên cơ sở đó có sự đối chiếu và luận giải một số vấn đề về thừa kế [99]
Sách “Inheritance Law in Germany and Australia” (Pháp luật về thừa kế ở Đức và Australia) của tác giả Schuweizei Kobras (2012) [102]. Đây là cuốn sách tương đối mới nghiên cứu về pháp luật thừa kế của hai quốc gia thuộc hai châu lục khác nhau là Đức và Australia. Trên cơ sở phân tích những quy định của pháp luật quốc gia về vấn đề thừa kế, tác giả có sự so sánh, đối chiếu để làm rõ những điểm khác nhau cơ bản trong quy định của pháp luật về thừa kế ở hai quốc gia này.
Trong các công trình trên, ngoài việc các tác giả đã nêu lên các trường hợp áp dụng của thừa kế theo pháp luật, tác giả Phạm Văn Tuyết và Lê Kim Giang đã có sự so sánh làm nổi bật sự hoàn thiện, tịnh tiến theo thời gian về các trường hợp áp dụng của thừa kế theo pháp luật [83]. Trong cuốn sách “Luật Dân sự Việt Nam – bình giải và áp dụng, luật thừa kế” [63] tác giả Phùng Trung Tập còn đưa ra những bình giải về những quy định của pháp
luật về thừa kế để người đọc hiểu và áp dụng những quy định đó vào đời sống thực tế. Các
20
tác giả đã đưa ra những nhận xét của mình về thực trạng quy định của pháp luật về thừa kế
theo pháp luật.
1.1.1.3. Các công trình nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về thừa kế theo pháp
luật
Trong những năm gần đây, có rất nhiều các công trình khoa học, các bài viết trong
các báo, tạp chí, hội thảo khoa học chuyên ngành, các sách, tài liệu chuyên khảo bàn về nghiên cứu về có rất nhiều công trình trên nghiên cứu về thực tiễn áp dụng quy định thừa kế theo pháp luật, trong đó có các công trình tiêu biểu sau:
Bài viết: “Quyền của trẻ em đối với tài sản và thừa kế tài sản: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, của tác giả Hà Thị Mai Hiên đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5 năm 1998 [18], tác giả đã làm rõ bản chất pháp lý và những nguyên tắc chung về quyền của trẻ em đối với tài sản và thừa kế tài sản, quyền về tài sản của trẻ em, quyền của trẻ em về thừa kế tài sản. Từ đó tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm bảo vệ quyền của trẻ em về tài sản và thừa kế tài sản.
Bài viết: Hoàn thiện chế định thừa kế trong BLDS, của tác giả Nguyễn Văn Mạnh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5 năm 2002 [35]. Trong bài viết, tác giả phân tích một cách chi tiết, cụ thể, đưa ra những nhận định rất sâu sắc và đề xuất hướng hoàn thiện những quy định trong BLDS 1995 về thừa kế.
Bài viết: “Vài suy nghĩ về Điều 680 BLDS (thừa kế thế vị)”, tác giả Nguyễn Hải An đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4 năm 2004 [1]. Trong bài viết này, tác giả đã nêu lên một số vấn đề như sau: Điều 680 BLDS 1995 “chưa đề cập đến trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết trong cùng một thời điểm thì con hoặc cháu của họ có được thừa kế thế vị hay không?”. Tác giả đưa ra các quan điểm của tác giả Nguyễn Ngọc Điện, ông Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Tưởng Duy Lượng về vấn đề này; thứ hai, nêu lên một số ý kiến nghị bổ sung Điểm b, Khoản 1, Điều 679, BLDS 1995 cho cháu được hưởng thừa kế theo pháp luật của ông bà vào hàng thừa kế thứ hai và chắt được hưởng thừa kế theo pháp luật của cụ ở hàng thừa kế thứ ba. Tiếp đó tác giả còn nêu một số ý kiến chỉ ra sự bất cập của điều 680 vì chưa quy định cụ thể trường hợp cha mẹ
của cháu bị truất quyền hưởng thừa kế của ông bà thì cháu có được hưởng thừa kế thế vị
21
hay không, chắt có được hưởng thừa kế thế vị của cụ khi ông bà của chắt bị tước quyền hưởng di sản của cụ hay vấn đề con nuôi có được hưởng thừa kế thế vị hay không cũng đã được tác giả đặt ra.
Bài viết: “Những hạn chế và bất cập của các quy định về thừa kế trong BLDS
1995” của tác giả Phùng Trung Tập đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 4 năm 2004 [56]. Trong bài viết này, tác giả cũng nói về vấn đề thừa kế thế vị đồng quan điểm với các ý kiến có trong Nguyễn Hải An (2004), Vài suy nghĩ về Điều 680 BLDS (thừa kế thế vị), Tạp chí Tòa án nhân dân , số 4. Tác giả còn nêu một cách rất cụ thể nên sửa đổi Điều 680
BLDS 1995 như thế nào.
Sách: “Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử”, Tưởng Duy Lượng (2009) [32]. Về vấn đề thừa kế, trong cuốn sách này tác giả đề cập tới một số vấn đề về thừa kế, thừa kế quyền sử dụng đất, giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất. Từ đó tác giả nêu lên một số vấn đề về nâng cao năng lực cho các Thẩm phán, người trực tiếp giải quyết các tranh chấp, các Thẩm tra viên, các Thư ký Tòa án, các Hội thẩm, các cán bộ Viện kiểm sát trong hoạt động giải quyết tranh chấp dân sự nói chung và tranh chấp thừa kế theo pháp luật nói riêng.
Sách: “Tuyển tập các bản án, quyết định của tòa án Việt Nam về quyền sử dụng đất”, tác giả Đỗ Văn Đại (2010); Sách “Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án” (Tập 1, Tập 2), Đỗ Văn Đại (2016), trong các cuốn sách này, tác giả đã tập hợp những bản án, quyết định giải quyết tiêu biểu của tòa án liên quan đến thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng và bình luận việc giải quyết đó.
Bài viết “Chế định thừa kế trong BLDS 2015”, của tác giả Phùng Trung Tập (2016), Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề triển khai thi hành BLDS 2015 [62]. Trong bài viết này tác giả đã đưa ra những nhận xét, bình luận của mình về thực tiễn áp dụng quy định BLDS 2015 về thừa kế nói chung, thừa kế theo pháp luật nói riêng như thời hiệu chia di sản thừa kế quy định tại Điều 623, BLDS 2015 hay người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc được quy định tại Điều 644, BLDS 2015…
Sách: “Bình luận khoa học BLDS năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”, Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (2017). Cuốn sách cũng dành số lượng khá lớn
22
(từ trang 923 tới trang 1029) để bình luận về phần Thừa kế của BLDS 2015. Giá trị lớn nhất của cuốn sách này là tập thể tác giả đã đưa ra những bình luận về các quy định của BLDS đã phù hợp với thực tiễn, những điều còn hạn chế, chồng chéo, trùng lặp hay các lỗ hổng của Bộ luật, từ đó đưa ra các định hướng hoàn thiện.
Sách: “Pháp luật về thừa kế và thực tiễn giải quyết tranh chấp” của tác giả Phạm Văn Tuyết – Lê Kim Giang, xuất bản năm 2017 [83]. Trong cuốn sách này, các tác giả nêu lên thực trạng tranh chấp thừa kế ngày càng đa dạng và phức tạp. Các tác giả nêu lên các nguyên nhân thường gặp dẫn đến các tranh chấp về thừa kế như: do tính xác thực của di chúc, do thiếu tính tự nguyện của người lập di chúc, do người lập di chúc đã định đoạt cả tài sản của người khác, tranh chấp giữa những người thừa kế với nhau vì những người thừa kế cho rằng có người thừa kế không có quyền hưởng di sản… Mỗi nguyên nhân, các tác giả đều đưa ra những vụ án điển hình để minh họa. Trong cuốn sách này, các tác giả đã kịp thời tiếp cận một số quan điểm mới cho phù hợp với những thay đổi của pháp luật. Bên cạnh đó, tác giả còn chọn lọc và giới thiệu một số vụ tranh chấp điển hình và đưa ra bình luận của mình về các vụ án đó. Cuốn sách này là nguồn tham khảo quý cho các nhà nghiên cứu và các nhà hoạt động chuyên môn có thêm kinh nghiệm trong thực tiễn xét xử.
Sách: “Thời hiệu, thừa kế và thực tiễn xét xử” của tác giả Tưởng Duy Lượng (2017) [33]. Trong cuốn sách này, tác giả đã từ việc nghiên cứu về lí luận, thực tiễn trên cơ sở dựa vào những tình huống giả định hoặc có thực để minh họa làm rõ những chủ đề được nêu trong cuốn sách để đưa ra những nhận xét, đề xuất về những nội dung chưa rõ ràng, cần hướng dẫn hoặc sửa đổi bổ sung luật thừa kế. Cuốn sách là nguồn tài liệu quý cho các nhà nghiên cứu tham khảo. Nó cũng giúp các nhà chuyên môn ứng dụng để giải quyết các tranh chấp về thừa kế có liên quan và giúp người dân có thêm kiến thức để bảo vệ quyền của mình một cách tốt nhất.
Bên cạnh việc phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về thừa kế theo pháp luật, các tác giả đã đưa ra những đánh giá, nhận định về tình hình thực thi pháp luật về thừa kế theo pháp luật diễn ra trong thực tế. Một số tác giả đã chỉ rõ những hạn chế, bất cập của các quy định pháp luật về thừa kế theo pháp luật hiện hành tại thời điểm các công trình này
được thực hiện.
23
Có thể thấy có rất nhiều công trình nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài nghiên cứu về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào có sự nghiên cứu đầy đủ, chuyên sâu, toàn diện về thừa kế theo pháp luật theo BLDS nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015. Các công trình đã công bố chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một số nội dung nhất định hoặc liên quan đến các BLDS trước khi có BLDS năm 2015.
1.1.2. Đánh giá tổng quan các công trình nghiên cứu
1.1.2.1. Những kết quả đã đạt được
Về mặt lý luận: trên cơ sở tiếp thu, kế thừa quy định của BLDS, các công trình nghiên cứu đều đưa ra khái niệm thừa kế theo pháp luật một cách thống nhất, một số công trình đã có những nghiên cứu về ý nghĩa cũng như đặc điểm của chế định này. Dựa trên kết quả mà các công trình này đã đạt được, tác giả sử dụng để làm nền tảng cho phần cơ sở lí luận của luận án.
Về mặt thực tiễn: Nhiều công trình đã nghiên cứu về thực tiễn thực hiện pháp luật về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng. Các công trình này về cơ bản có những cách tiếp cận và xử lí số liệu phù hợp với diễn biến của thực tiễn qua các thời kì. Tác giả luận án cũng trên tinh thần kế thừa các phương pháp này để thực hiện việc nghiên cứu, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của công tác thực hiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật trên thực tiễn.
Về mặt giải pháp kiến nghị: Phần lớn các công trình hướng đến các giải pháp bảo đảm việc áp dụng quy định về thừa kế nói chung, thừa kế theo pháp luật nói riêng được hiệu quả. Tác giả kế thừa tinh thần của các giải pháp nói chung với những nội dung cơ bản về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ngành Tòa án, ngành Kiểm sát cũng như nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật của người dân và đưa ra một số kiến nghị khác nhằm bảo đảm việc áp dụng quy định về thừa kế theo pháp luật được hiệu quả.
1.1.2.2. Những vấn đề liên quan đến đề tài luận án đặt ra cần được tiếp tục nghiên
cứu
Thứ nhất, tuy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và bài viết về thừa kế nói chung
nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về thừa kế theo pháp luật nói riêng. Luận
24