LA02.054_Tăng cường Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các Công ty cổ phần chứng khoán ở Việt Nam
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau 13 năm đi vào hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc và đã có lúc được đánh giá là một trong những thị trường có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới; đặc biệt là mức độ, tỷ lệ và tốc độ tăng vốn hóa. Để đáp ứng nhu cầu của thị trường và nắm bắt cơ hội kinh doanh mới, nhiều công ty chứng khoán đã được thành lập. Mười ba năm qua, từ chỗ chỉ có 4 công ty chứng khoán khi thị trường đi vào hoạt động, tính đến 31/12/2012 UBCKNN đã cấp phép hoạt động cho 105 công ty. Thông qua các hoạt động kinh doanh chính như môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành và tư vấn đầu tư, các công ty chứng khoán đã góp phần nâng cao tính thanh khoản cho thị trường, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước cho nền kinh tế và thúc đẩy thị trường phát triển.
Tuy nhiên, những diễn biến phức tạp của thị trường chứng khoán trong thời gian qua, đặc biệt cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008, đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các công ty chứng khoán Việt Nam. Nhiều yếu kém của các công ty dần lộ diện: số lượng các công ty quá nhiều so với quy mô thị trường, năng lực tài chính yếu kém, khả năng cạnh tranh chưa cao, công tác quản trị công ty chưa hiệu quả … dẫn đến hiệu quả kinh doanh kém, thậm chí nhiều công ty rơi vào tình trạng thua lỗ nhiều năm, mất khả năng thanh khoản và phải nằm trong diện cảnh báo đặc biệt của UBCKNN.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng nêu trên, song một trong những nguyên nhân chính là do công tác quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các công ty chứng khoán chưa tốt. Thực tế cho thấy hoạt động kinh doanh chứng khoán là loại hình kinh doanh tiềm ẩn rủi ro lớn do đối tượng kinh doanh liên quan trực tiếp đến các loại chứng khoán có biến động giá mạnh và thường xuyên. Mặc dù vậy, nhiều công ty chưa xác định đúng được tầm quan trọng của việc quản lý rủi ro đối với hoạt động kinh doanh của mình; chưa xây dựng được một quy trình hợp lý cũng như một bộ máy tổ chức chặt chẽ để quản lý được hết các rủi ro. Ở một vài công ty việc quản lý rủi ro nếu có cũng chỉ mang tính hình thức hoặc dừng ở góc độ xử lý rủi ro chứ chưa đi vào bản chất là cảnh báo rủi ro nhằm giảm thiểu những thiệt hại có thể xảy ra cho công ty.
Trong xu thế hội nhập với các thị trường tài chính quốc tế, để thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục phát triển lành mạnh, đảm bảo tính công khai, minh bạch, bên cạnh việc tăng cường kiểm tra giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường, bản thân các tổ chức này trong đó có hệ thống các công ty chứng khoán cần phải nâng cao hơn nữa công tác quản lý rủi ro để chủ động phòng ngừa, giảm thiểu các rủi ro nội tại, những sai sót, gian lận trong việc cung cấp dịch vụ, từ đó phát triển ổn định và bền vững.
Dưới góc độ quản trị doanh nghiệp, quản lý rủi ro là một nội dung quan trọng giúp công ty có thể chủ động đưa ra các quyết định kinh doanh và thực hiện các hoạt động này một cách công khai, minh bạch, hiệu quả. Vai trò của quản lý rủi ro đối với doanh nghiệp đã được các nhà nghiên cứu tại các nước trên thế giới nghiên cứu sâu sắc dưới nhiều góc độ khác nhau. Nghiên cứu của Clup (2002) về mối quan hệ giữa quản lý rủi ro và cấu trúc vốn của doanh nghiệp đã chỉ ra rằng khi những giả định của Lý thuyết cấu trúc vốn M&M (Modigliani & Miller) thay đổi, quản lý rủi ro có thể giúp gia tăng giá trị công ty thông qua việc gia tăng giá trị dòng tiền kỳ vọng của công ty, giảm thiểu chi phí sử dụng vốn [36].
Tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu chính thức và quy mô về những vấn đề này cho công ty chứng khoán. Chính vì vậy trong phạm vi nghiên cứu của luận án tiến sỹ, với mong muốn nghiên cứu và đánh giá thực trạng công tác quản lý rủi ro tại các công ty chứng khoán, từ đó góp thêm tiếng nói phản biện cho các công ty chứng khoán, giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý có cơ sở vững chắc hơn trong việc ra quyết định để quản lý rủi ro một cách tốt nhất, đề tài “Tăng cường Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các Công ty cổ phần chứng khoán ở Việt Nam” đã được chọn làm đề tài luận án tiến sỹ.