ThS06.008_Tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá tr̀nh hội nhập Quốc Tếv
1. Giới thiệu
Trong nền kinh tế toàn cầu hoá nói chung và điều kiện của nền kinh tế mới nổi đang trong giai đoạn mở cửa hội nhập như Việt Nam nói riêng, hệ thống ngân hàng vẫn giữ vai trò rất quan trọng, là một trong những kênh huy động và điều hòa nguồn vốn chính của nền kinh tế, đồng thời cũng là công cụ quan trọng trong việc ổn định thị trường tài chính và quản lý kinh tế của nhà nước. Tại thời điểm hiện tại, hệ thống ngân hàng, đặc biệt là hệ thống các NHTM Việt Nam, vẫn đang là “xương sống” của nền kinh tế Việt Nam. Sự tăng trưởng và phát triển của hệ thống này tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến sự tăng trưởng của toàn nền kinh tế.
Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) cùng các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực. Tiến trình thực hiện các cam kết mở cửa và cải cách nền kinh tế theo cơ chế thị trường đang diễn ra theo một lộ trình định sẵn. Cũng như các ngành khác, ngành ngân hàng Việt Nam chịu một sức ép khá lớn trong cả việc thay đổi, cải cách hệ thống theo những chuẩn mực, thông lệ quốc tế; cũng như sức ép cạnh tranh từ phiá các ngân hàng nước ngoài khi tiến hành mở cửa đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính ngân hàng. Làm gì và làm thế nào để gia tăng sức mạnh cạnh tranh cho sự tồn tại và phát triển bền vững đang là một câu hỏi được đặt ra đối với Chính phủ cũng như các nhà quản lý của hệ hống ngân hàng Việt Nam khi xuất phát điểm của chúng ta cả về môi trường vĩ mô và các yếu tố nội lực (khả năng tài chính, quản trị điều hành, kinh nghiệp hoạt động,…) cuả hệ thống đều đều thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh đến từ bên ngoài. Trong bối cảnh như thế, việc tìm hiểu năng lực của hệ thống NHTM để từ đó đưa ra những bước đi phù hợp nhằm gia tăng hiệu quả, gia tăng tính cạnh tranh, nâng cao vị thế, qui mô của hệ thống NHTM Việt Nam trong quá trình hội nhập là một vấn đề cấp thiết đang được đặt ra
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vào các vấn đề:
– Lý luận cạnh tranh và các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
– Phân tích, đánh giá, làm rõ hiện trạng năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam; không chỉ giới hạn nhận biết các điểm yếu và điểm mạnh, mà còn bao gồm cả việc xác định các cản trở hạn chế năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam; sự chuẩn bị của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam mở cửa hội nhập vào thị trường thế giới.
– Đề xuất giải pháp, cơ chế, chính sách để nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các ngân hàng thương mại Việt Nam, bao gồm các NHTM QD và các NHTM CP (trong đó chủ yếu là các NHTM CP đô thị) đang hoạt động trên thị trường tài chính – ngân hàng Việt Nam. Số liệu và các dữ liệu liên quan đến hoạt động của các ngân hàng này được tập trung khai thác và phân tích trong giai đoạn 2000 – 2006.
4. Khung lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
Dưạ trên số liệu và các dữ liệu thu thập được của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2000 – 2006 phân tích khả năng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam. Mô hình SWOT được sử dụng đưa ra những đánh giá ngắn gọn về điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của hệ thống NHTM Việt Nam trong giai đoạn hội nhập. Phân tích SWOT tập trung vào phân tích toàn bộ ngành ngân hàng Việt Nam và không đi sâu phân tích đối với từng loại hình ngân hàng. Tuy nhiên, có một số trường hợp ranh giới giữa từng loại hình ngân hàng nói riêng vẫn có thể làm rõ ràng.
5. Khó khăn của luận văn
Công khai và minh bạch thông tin chưa trở thành một quy định có tính triệt để và thông lệ của các ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là nhóm các NHTM QD; làm hạn chế khả năng tiếp cận các yếu tố nhạy cảm như nợ quá hạn, chi phí, cơ cấu lợi nhuận, chiến lược phát triển …của các thành viên trong hệ thống. Bên cạnh đó, do những hạn chế về mặt nguồn lực và thời gian, luận văn chưa đi sâu
phân tích đối với các NHTM CP nông thôn, ngân hàng chính sách xã hội, một bộ phận, tuy không có tính đại diện cao nhưng cũng đang là những thực thể tồn tại trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.