Friday, February 26, 2021
  • Home
  • About
  • Viết thuê luận văn
  • Luận Án Tiến Sĩ
Download Luận Văn
Advertisement
  • Luận Văn – Luận Án
  • Download
    • Đại Học – Cao Đẳng
      • Công Nghệ – Môi Trường
      • Công Nghệ Thông Tin
      • Khoa Học Tự Nhiên
      • Khoa Học Xã Hội
      • Kinh Tế – Quản Lý
      • Kinh Tế Thương Mại
      • Kỹ Thuật
      • Lý Luận Chính Trị
      • Nông-Lâm-Ngư
      • Y Khoa – Dược
    • Thạc Sĩ – Cao Học
      • Công Nghệ Thông Tin
      • Khoa Học Tự Nhiên
      • Khoa Học Xã Hội
      • Kiến Trúc – Xây Dựng
      • Kinh Tế
      • Kỹ Thuật
      • Luật
      • Nông – Lâm – Ngư
      • Sư Phạm
      • Y Dược – Sinh Học
    • Tiến Sĩ
    • Báo Cáo Khoa Học
    • Tiểu Luận
  • Hướng Dẫn
  • Tin chuyên ngành
No Result
View All Result
Download Luận Văn
  • Luận Văn – Luận Án
  • Download
    • Đại Học – Cao Đẳng
      • Công Nghệ – Môi Trường
      • Công Nghệ Thông Tin
      • Khoa Học Tự Nhiên
      • Khoa Học Xã Hội
      • Kinh Tế – Quản Lý
      • Kinh Tế Thương Mại
      • Kỹ Thuật
      • Lý Luận Chính Trị
      • Nông-Lâm-Ngư
      • Y Khoa – Dược
    • Thạc Sĩ – Cao Học
      • Công Nghệ Thông Tin
      • Khoa Học Tự Nhiên
      • Khoa Học Xã Hội
      • Kiến Trúc – Xây Dựng
      • Kinh Tế
      • Kỹ Thuật
      • Luật
      • Nông – Lâm – Ngư
      • Sư Phạm
      • Y Dược – Sinh Học
    • Tiến Sĩ
    • Báo Cáo Khoa Học
    • Tiểu Luận
  • Hướng Dẫn
  • Tin chuyên ngành
No Result
View All Result
Download Luận Văn
No Result
View All Result
Home Tiến Sĩ Tài Chính Ngân Hàng

Quản lý tài sản công các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam

admin by admin
July 24, 2019
in Tài Chính Ngân Hàng, Tiến Sĩ
0
Luận án tiến sĩ tài chính ngân hàng
595
SHARES
3.3k
VIEWS
Share on FacebookShare on Twitter

You might also like

Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng

Phát triển kinh doanh dịch vụ viễn thông ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế Nghiên cứu trường hợp Công ty Cổ phần viễn thông Hà Nội

Quản lý tài chính các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Tài chính

LA02.259_Quản lý tài sản công các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài luận án

3.1. Mục tiêu nghiên cứu:

Xây dựng các quan điểm và giải pháp hoàn thiện quản lý TSC các cơ sở GDĐH công lập phù hợp với tiến trình thực hiện cơ chế tự chủ của các cơ sở GDĐH công lập và đổi mới cơ chế quản lý TSC ở Việt Nam.

Tham khảo thêm :

  • Quản lý tài chính các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Tài chính
  • Hoàn thiện việc công bố thông tin báo cáo bộ phận trong hệ thống báo cáo…
  • Quản lý tài nguyên nước dựa vào cộng đồng Nghiên cứu sự tham gia của…
  • Trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính bằng chứng từ các công ty niêm…
  • Quản trị chất lượng trong chuỗi cung ứng thịt gia súc, gia cầm ở Việt Nam
  • Các nhân tố ảnh hưởng đến nhận thức về sự công bằng trong thu nhập của…
  • Quản lý nhà nước đối với hoạt động quan hệ quốc tế của Giáo hội Công…
  • Công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ…
  • Tác động của quan hệ kinh tế Việt Nam – Trung Quốc đến quốc phòng Việt Nam
  • Nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thủy sản ở Việt Nam

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Hệ thống hóa, phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về TSC các cơ sở GDĐH công lập và quản lý TSC các cơ sở GDĐH công lập.

– Tổng hợp, phân tích và minh chứng làm rõ những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng quản lý TSC các cơ sở GDĐH công lập ở Việt Nam.

– Đề xuất quan điểm và các giải pháp hoàn thiện quản lý TSC các cơ sở GDĐH công lập ở Việt Nam có luận cứ khoa học về lý luận và thực tiễn, có tính khả thi cao, phù hợp với tiến trình thực hiện cơ chế tự chủ của các cơ sở GDĐH công lập và đổi mới cơ chế quản lý TSC ở Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án: những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến quản lý TSC các cơ sở GDĐH công lập ở Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án

Phạm vi về nội dung: luận án tập trung nghiên cứu quản lý TSC các cơ sở GDĐH công lập trên góc độ quản lý quá trình hình thành, khai thác, sử dụng và kết thúc TSC theo những quy định pháp luật hiện hành ở Việt Nam về quản lý TSC các cơ sở GDĐH công lập Việt Nam. TSC các cơ sở GDĐH công lập rất đa dạng về chủng loại và giá trị, luận án chỉ tập trung nghiên cứu quản lý 2 nhóm TSC đã được tập hợp vào CSDL quốc gia về TSC do Bộ Tài chính đang quản lý, gồm: (1) Tài sản là nhà và (2) Tài sản khác có nguyên giá 500 triệu đồng/1đơn vị tài sản trở lên, trong đó tài sản khác nguyên giá 500 triệu đồng/1 đơn vị trở lên chỉ nghiên cứu đối với TSCĐ hữu hình. Chủ thể quản lý TSC được xác định trong luận án này là Nhà nước quản lý. Đồng thời, trong xu thế hạn chế việc trang bị bằng hiện vật trong hoạt động quản lý của Nhà nước về TSC, luận án sẽ không đi sâu phân tích hình thức trang bị tài sản thông qua hình thức giao cho cơ sở GDĐH công lập.

Phạm vi về không gian và thời gian:

Ngày 24 tháng 10 năm 2014, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở GDĐH công lập và tính đến tháng 12/2017, thệ thống GDĐH Việt Nam có 170 cơ sở GDĐH công lập; trong đó có 21 cơ sở GDĐH công lập đã thực hiện tự chủ và có 12 cơ sở GDĐH công lập có thời gian tự chủ trên 2 năm theo Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP. Vì vậy, để đảm bảo tính hệ thống của dữ liệu nghiên cứu và phù hợp xu thế phát triển của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, luận án chỉ tập trung nghiên cứu 12 cơ sở GDĐH công lập tự chủ trên 2 năm theo Nghị quyết số 77/2014/NQ-CP của Chính phủ trong giai đoạn 2014 – 2018.

Về kinh nghiệm của các nước trên thế giới, Luận án nghiên cứu ở các nước với những mốc thời gian khác nhau nhưng nhìn chung đều là thời gian mà có sự đổi mới về quản lý các cơ sở GDĐH công lập như bắt đầu chuyển sang cơ chế tự chủ hoặc Chính phủ các nước chú trọng đổi mới trong hoạt động quản lý các cơ sở GDĐH công lập nói chung, quản lý tài sản và tài chính cơ sở GDĐH công lập nói riêng.

Quan điểm và giải pháp hoàn thiện quản lý TSC các cơ sở GDĐH công lập ở Việt Nam được nghiên cứu áp dụng cho giai đoạn 2020 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030.

5. Phương pháp nghiên cứu của luận án

Phương pháp luận NCKH được sử dụng nghiên cứu luận án là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong quá trình nghiên cứu luận án gồm: thống kê, so sánh, định lượng, phân tích, tổng hợp, suy luận….

Phương pháp thu thập số liệu:

– Số liệu thứ cấp: Nguồn tài liệu, số liệu sử dụng bao gồm: hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Đảng và Nhà nước liên quan đến quản lý TSC, các số liệu thứ cấp từ sách, các công trình nghiên cứu đã được thực hiện, các báo cáo, kết quả đã được công bố từ các cuộc điều tra, kiểm kê tài sản, số liệu nghiên cứu của Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ chủ quản của các cơ sở GDĐH công lập trong phạm vi nghiên cứu và của 12 cơ sở GDĐH công lập tự chủ.

– Số liệu sơ cấp: Các thông tin, số liệu sơ cấp được thực hiện trong quá trình nghiên cứu bằng các phương pháp điều tra xã hội học do NCS thực hiện. Cụ thể, NCS tiến hành phỏng vấn trực tiếp 5 viên chức làm công tác quản lý tài chính – tài sản tại Cục QLCS (Bộ Tài chính); bảng hỏi được phát trực tiếp hoặc thông qua phần mềm Servey Monkey đối với 10 cán bộ Phòng Kế hoạch – Tài chính (Bộ Giáo dục & Đào tạo); 24 cán bộ làm việc ở bộ phận Kế hoạch – Tài chính hoặc Quản lý dự án tại 12 cơ sở GDĐH công lập; 66 giáo viên ở các cơ sở GDĐH công lập trong phạm vi nghiên cứu. Các bảng hỏi được trình bày ở Phụ lục 6, Phụ lục 7 và Phụ lục 8; Kết quả của bảng hỏi được trình bày ở Phụ lục 9.

Phương pháp phân tích số liệu:

– Phương pháp so sánh: được sử dụng để phân tích, đánh giá và so sánh số liệu giữa các thời kỳ với nhau, so sánh các chỉ tiêu phản ánh thực trạng.

– Phương pháp thống kê mô tả: NCS sử dụng số tương đối, tuyệt đối, bảng biểu, sơ đồ thể hiện các nội dung được trình bày.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của Luận án được chia thành 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về quản lý tài sản công các cơ sở giáo dục đại học công lập.

Chương 2: Thực trạng quản lý tài sản công các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện quản lý tài sản công các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam.

TẢI XUỐNG 。◕‿◕。

Nhận viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Hotline: 092.4477.999
Website: https://luanvanaz.com
Email: luanvanaz@gmail.com
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP 26
1.1. TÀI SẢN CÔNG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP 26
1.1.1. Cơ sở giáo dục đại học công lập 26
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm tài sản công các cơ sở giáo dục đại học công lập 28
1.1.3. Phân loại tài sản công các cơ sở giáo dục đại học công lập 33
1.1.4. Vai trò của tài sản công các cơ sở giáo dục đại học công lập 35
1.2. QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP 37
1.2.1. Khái niệm quản lý tài sản công các cơ sở giáo dục đại học công lập 37
1.2.2. Các yêu cầu quản lý tài sản công các cơ sở giáo dục đại học công lập 40
1.2.3. Nội dung quản lý tài sản công các cơ sở giáo dục đại học công lập 43
1.2.4. Nhân tố ảnh hưởng đến quản lý tài sản công các cơ sở giáo dục đại học công lập 61
1.3 . KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP VÀI BÀI HỌC CHO CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM 66
1.3.1. Kinh nghiệm quản lý tài sản công các cơ sở giáo dục đại học công lập của một số nước trên thế giới 66
1.3.2. Bài học cho các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam 72
Kết luận chương 1 75
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM 76
2.1. CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP VÀ TÀI SẢN CÔNG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM 76
2.1.1. Khái quát về hệ thống các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam 76
2.1.2. Thực trạng tài sản sản công các cơ sở giáo dục đại học công lập 78
2.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM 88
2.2.1. Tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công 88
2.2.2. Thực trạng quản lý quá trình hình thành tài sản công 91
2.2.3. Thực trạng quản lý quá trình khai thác, sử dụng tài sản công 113
2.2.4. Thực trạng quản lý quá trình kết thúc sử dụng tài sản công 128
2.2.5. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chế độ quản lý tài sản công 131
2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM 133
2.3.1. Các kết quả đạt được 133
2.3.2. Những hạn chế 136
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế 140
Kết luận chương 2 153
CHƯƠNG 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM 154
3.1. QUAN ĐIỂM HOÀN HIỆN QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM 154
3.1.1. Quan điểm hoàn thiện quản lý tài sản công 154
3.1.2. Quan điểm hoàn thiện quản lý tài sản công các cơ sở giáo dục đại học công lập 156
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM 158
3.2.1. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách 158
3.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện 166
3.3. KIẾN NGHỊ 179
3.3.1. Tăng cường hiệu quả tự chủ đại học, đặc biệt là tự chủ tài chính 179
3.3.2. Nâng cao năng lực quản lý tài sản công 181
3.3.3. Cơ sở giáo dục đại học công lập cần thực hiện kiểm kê tài sản thường xuyên và thực chất 184
3.3.4. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra trong hoạt động quản lý, sử dụng tài sản công 185
Kết luận chương 3 186
KẾT LUẬN 188
PHỤ LỤC 191
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 224

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CQNN : Cơ quan nhà nước
CSDL : Cơ sở dữ liệu
ĐVSN : Đơn vị sự nghiệp
GDĐH : Giáo dục đại học
HCSN : Hành chính sự nghiệp
NCS : Nghiên cứu sinh
NSNN : Ngân sách nhà nước
NCKH : Nghiên cứu khoa học
PTĐL : Phương tiện đi lại
QLCS : Quản lý công sản
TAND : Tòa án nhân dân
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TSC : Tài sản công
TSCĐ : Tài sản cố định
TSNN : Tài sản nhà nước
TSLV : Trụ sở làm việc
XDCB : Xây dựng cơ bản

DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
Hình 1.1: Phân loại TSC các cơ sở GDĐH công lập theo công dụng của tài sản 34
Bảng 2.1: Biến động về số lượng TSC 12 cơ sở GDĐH công lập tự chủ giai đoạn 2014 – 2018 79
Bảng 2.2: Cơ cấu số lượng TSC 12 cơ sở GDĐH công lập tự chủ giai đoạn 2014 – 2018 81
Bảng 2.3: Diện tích TSC là nhà 12 cơ sở GDĐH công lập tự chủ giai đoạn 2014 – 2018 83
Bảng 2.4: Nguyên giá TSC 12 cơ sở GDĐH công lập tự chủ giai đoạn 2014 – 2018 85
Bảng 2.5: Tỷ lệ các hạng mục đầu tư 12 cơ sở GDĐH công lập tự chủ 96
Bảng 2.6: Tỷ lệ ngân sách cấp so với nguyên giá TSC 12 cơ sở GDĐH công lập tự chủ giai đoạn 2014 – 2018 109
Bảng 2.7: Kinh phí duy tu, bảo dưỡng TSC 12 cơ sở GDĐH công lập tự chủ giai đoạn 2014 – 2018 126
Bảng 3.1: Phân loại chi phí đào tạo theo mức độ hoạt động 179
Biểu đồ 2.1: Số lượng các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng giai đoạn 2013 – 2017 76
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu theo giá trị tài sản là nhà 12 cơ sở GDĐH công lập tự chủ 86
giai đoạn 2014 – 2018 86
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu theo giá trị tài sản là khác trên 500 triệu 12 cơ sở GDĐH công lập tự chủ giai đoạn 2014 – 2018 87
Biểu đồ 2.4: Cơ cấu các hạng mục đầu tư tài sản 12 cơ sở GDĐH công lập tự chủ giai đoạn 2010 – 2018 97
Biểu đồ 2.5: Kinh phí duy tu, bảo dưỡng đối với từng loại tài sản 12 cơ sở GDĐH công lập tự chủ 127
Sơ đồ 3.1: Tập hợp chi phí và tính giá dịch vụ theo bộ phận chức năng và loại hoạt động 178

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
TSC là một bộ phận quan trọng của tài sản quốc gia, là nguồn lực của đất nước do Nhà nước làm chủ sở hữu và đại diện chủ sở hữu quản lý, sử dụng nhằm thực thi có hiệu lực và hiệu quả chức năng tổ chức và quản lý xã hội. Ở mỗi quốc gia, TSC có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất và quản lý xã hội, đồng thời việc quản lý tốt TSC luôn được coi là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá chất lượng quản lý nhà nước của quốc gia đó.
Cơ sở GDĐH công lập là cơ sở GDĐH do nhà nước (trung ương hoặc địa phương) đầu tư về kinh phí và cơ sở vật chất (đất đai, nhà cửa) và hoạt động chủ yếu bằng kinh phí từ các nguồn tài chính công hoặc các khoản đóng góp phi vụ lợi. Sự ra đời và hoạt động của các cơ sở GDĐH công lập thể hiện vai trò của Nhà nước đối với GDĐH.
Nhà nước là chủ thể đặc biệt của xã hội, là người đại diện cho tất cả các thành viên trong cộng đồng, do đó nhà nước có chủ quyền đối với tài sản quốc gia, là người đại diện chủ sở hữu TSC. Với vai trò là đại diện chủ sở hữu đối với TSC, Nhà nước có quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Nhà nước là đại diện chủ sở hữu về tài sản và giao cho các cơ sở GDĐH công lập quản lý và sử dụng để phục vụ công tác cho bộ máy của Nhà nước. Việc hoàn thiện quản lý TSC các cơ sở GDĐH công lập là cần thiết vì các lý do sau:
Về mặt lý luận:
Thứ nhất, quản lý TSC tốt góp phần kích thích quá trình phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia. Những yếu kém trong quản lý và sử dụng TSC dẫn đến thất thoát, lãng phí, từ đó làm suy giảm nội lực của đất nước. Do đó cần thiết phải hoàn thiện quản lý TSC, từ đó hướng hoạt động sử dụng TSC phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia.
Thứ hai, Chính phủ là đại diện chủ sở hữu của tất cả TSC, tuy nhiên Chính phủ giao quyền quản lý và sử dụng những TSC cho các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp sử dụng, do vậy các cơ quan, đơn vị được giao quyền quản lý và sử dụng những TSC để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của nhà nước phải đảm bảo quản lý chặt chẽ TSC theo đúng quy định của pháp luật, tiết kiệm và hiệu quả. Vì vậy, cần thiết phải hoàn thiện quản lý TSC theo hướng phân cấp cho các cơ quan chủ quản các cơ sở GDĐH công lập ở trung ương và địa phương cũng như các cơ sở GDĐH công lập nhằm quản lý chặt chẽ và hiệu quả công tác quản lý TSC các cơ sở GDĐH công lập.
Thứ ba, TSC các cơ sở GDĐH công lập là tiền đề, là yếu tố vật chất để Nhà nước có thể tổ chức thực hiện các mục tiêu giáo dục – đào tạo đề ra. Nguồn kinh phí ban đầu của các cơ sở GDĐH công lập được Nhà nước cấp bằng nguồn vốn NSNN, do vậy công tác quản lý TSC các cơ sở GDĐH công lập cần đảm bảo quản lý chặt chẽ các khoản kinh phí bằng nguồn NSNN cho các cơ sở GDĐH công lập; đồng thời đảm bảo cơ chế quản lý các khoản kinh phí bằng nguồn kinh phí khác tại các cơ sở GDĐH công lập vừa tạo ra sự tự chủ, vừa bảo đảm cung cấp các dịch vụ về giáo dục và đào tạo phục vụ cho phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội.
Thứ tư, quản lý tốt TSC các cơ sở GDĐH công lập sẽ đảm bảo việc thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho các cơ sở GDĐH công lập. Do TSC hình thành chủ yếu từ nguồn chi tiêu công, do vậy việc sử dụng tiết kiệm, chống thất thoát lãng phí là trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan quản lý cũng như bản thân các cơ sở GDĐH công lập.
Về mặt thực tiễn:
Luật Quản lý, sử dụng TSNN năm 2008 là văn bản pháp luật cao nhất lần đầu tiên được ban hành ở Việt Nam về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước. Qua thời gian triển khai thực hiện từ 1/1/2009, công tác quản lý, sử dụng tài sản nhà nước của nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật Quản lý, sử dụng TSNN và công tác quản lý, sử dụng TSNN cũng đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế như: cơ chế quản lý tài sản nhà nước còn phân tán, được điều chỉnh bởi nhiều luật khác nhau, chưa có luật chung để quy định những nguyên tắc thống nhất trong quản lý, sử dụng, khai thác tài sản; quy trình đầu tư, mua sắm, xử lý tài sản nhà nước bị phân tán do nhiều cơ quan, đơn vị cùng làm, tính chuyên nghiệp thấp, còn nặng về hành chính, bao cấp; hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao; vai trò điều tiết của các cơ quan quản lý TSC hạn chế nên còn tình trạng nơi thừa, nơi thiếu tài sản, việc sử dụng tài sản sai công năng, sai mục đích gây lãng phí, thất thoát vẫn diễn ra; chưa tách bạch giữa nhiệm vụ quản lý về TSNN và cung cấp dịch vụ công trong quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; việc quản lý, sử dụng một số loại tài sản nhà nước chưa được quan tâm đúng mức, chậm đổi mới, chưa đồng bộ với cơ chế quản lý tài chính, chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới về khai thác nguồn lực, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, thất thoát, tham nhũng; các cơ quan quản lý chưa nắm được tổng thể về TSNN, công tác hạch toán chưa đầy đủ, thống nhất, chưa gắn quản lý về giá trị với quản lý về hiện vật…
Với những hạn chế trên, Chính phủ đã ban hành Luật số 15/2017/QH14. Thời gian triển khai Luật mặc dù chưa dài nhưng cũng đã cho thấy một số hạn chế nhất định. Đặc biệt, quản lý, sử dụng TSC các cơ sở GDĐH công lập ở Việt Nam vẫn còn tình trạng như: áp dụng hệ thống các tiêu chuẩn, định mức sử dụng TSC chưa đồng bộ, chưa thống nhất; cơ chế phân cấp quản lý chưa rõ ràng, dẫn đến việc lập hồ sơ tài sản, quản trị tài sản, kế toán tài sản, báo cáo thống kê tăng giảm tài sản, công tác bảo dưỡng, sửa chữa, đổi mới, thay thế tài sản chưa được tiến hành một cách thường xuyên; công tác thanh tra, kiểm tra việc sử dụng TSC chưa thật sự được coi trọng; công tác chỉ đạo hướng dẫn, cập nhật văn bản quy định mới chậm so với yêu cầu quản lý… Những hạn chế, bất cập đó một mặt làm giảm hiệu quả sử dụng của TSC, mặt khác chưa đáp ứng yêu cầu quản lý TSC theo Hiến pháp sửa đổi 2013 về việc tăng cường công tác quản lý TSC ở các ĐVSN công lập nói chung.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, NCS đã lựa chọn đề tài “Quản lý tài sản công các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
1. Bond Sandy và Dent Peter (1998), “Efficient management of public sector assets – The call for correct evaluation criteria and techniques” (Quản lý hiệu quả TSC, yêu cầu về chỉ tiêu và kỹ thuật đánh giá chính xác), Journal of Property Valuation & Investment [71].
Các tác giả đã nêu vấn đề tại Anh cũng như nhiều nước khác, cho đến nay vẫn nhiều cơ quan Chính phủ thất bại trong việc lưu trữ hồ sơ sở hữu nhà đất. Theo các tác giả, để thực hiện quản lý chủ động các tài sản loại này, cải cách chế độ kế toán và thông tin đủ chi tiết về các danh mục đầu tư chính là ưu tiên hàng đầu cần thực hiện. Điều này cần được hỗ trợ đầy đủ bởi các phương tiện truy cập thông tin. Ngoài ra, việc hài hoà giữa mục tiêu lợi nhuận và mục tiêu xã hội trong việc quản lý TSC cũng cần được tập trung xử lý bằng cách xác định rõ các mục tiêu cuối cùng, đảm bảo việc tối đa hoá lợi ích từ TSC nhưng không từ bỏ lợi ích xã hội của chúng.
2. Đinh Học Đông (2000), “Quản lý tài sản công”, Nxb Kinh tế tài chính Trung Quốc [74].
Cuốn sách này đã phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về TSC, mối quan hệ giữa TSC và tài chính công; hiện trạng TSC và khái quát về cải cách thể chế quản lý TSC, đặc trưng cơ bản của quản lý TSC trong chế độ xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc trong 3 thời kỳ: thời kỳ quản lý tài sản quốc hữu trong thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung 1949 – 1978, thời kỳ cải cách thể chế quản lý tài sản quốc hữu 1979 – 1998 và thời kỳ hoàn thiện thể chế quản lý TSC 1998 – 2000. Trên cơ sở phân tích mục tiêu và hiện trạng quản lý của hai loại TSC (bao gồm TSC mang tính kinh doanh, TSC mang tính HCSN), tác giả đã nêu định hướng cải cách quản lý TSC ở Trung Quốc trong những năm tiếp theo. Trong đó, đối với quản lý TSC ở đơn vị HCSN có ba mục tiêu: sở hữu thống nhất TSC của nhà nước; quản lý trên cơ sở phân cấp của Chính phủ đối với TSC của các đơn vị HCSN và làm rõ quyền chiếm hữu và sử dụng đối với TSC. Nghiên cứu này cũng chỉ ra 3 thực trạng về quản lý TSC tại các đơn vị HCSN ở Trung Quốc là: quản lý TSC thiếu hiệu quả, tài sản tồn tại không rõ ràng; thiếu chế độ quản lý, việc bố trí tài sản chưa thống nhất với quy định; thiếu sự quản lý có hiệu quả đối với TSC mang tính HCSN phi kinh doanh chuyển sang kinh doanh. Từ đó, tác giả đề xuất 6 vấn đề cần cải cách quản lý TSC tại các đơn vị HCSN ở quốc gia này.
3. Conway Francisand, Charles Undelan, George Peteson, Olga Kaganova và James Mckellar (2006), “Managing Government Property Assets: International Experiences (Quản lý tài sản Chính phủ: những kinh nghiệm quốc tế)”, The Urban Institute Press, Washington DC [73].
Các tác giả đã tập trung nghiên cứu đánh giá cơ chế quản lý TSC trong khu vực công ở tầm vĩ mô ở một số nước trên thế giới như Úc, Pháp, Canada, Thụy sĩ, Mỹ, New Zealand, Trung Quốc… Kết quả của các nghiên cứu đó là: đã đánh giá được những hạn chế trong cơ chế quản lý TSC ở khu vực HCSN ở các nước nêu trên trước khi cải cách; tổng kết được những kết quả khi tiến hành việc hoàn thiện cơ chế quản lý TSC trong khu vực HCSN; chỉ ra những thách thức và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện cơ chế quản lý TSC trong thời gian tới, bao gồm: (i) mối quan hệ giữa cải cách kế toán và cải cách cơ chế quản lý TSC trong khu vực HCSN; (ii) mức độ phân chia giữa quyền sở hữu và quyền quản lý TSC trong khu vực HCSN; (iii) hệ thống thông tin quản lý TSC trong khu vực HCSN.
4. Yiu C Y; Wong S K và Yau Y (2006), “Property management as property rights governance: Exclusion and internal conflict resolution” (Quản lý tài sản như là quản trị quyền sở hữu tài sản: giải pháp ngăn chặn và giải quyết các mâu thuẫn bên trong), Property Management [83].
Các tác giả đã đánh giá vai trò của quản lý tài sản từ góc độ thể chế kinh tế vĩ mô. Tác giả cũng nêu ra việc quản trị đối với quyền tài sản nên được chia theo 3 phương thức: tài sản dùng chung, tài sản sở hữu công – tư và tài sản cá nhân. Từ đó đưa ra những ý kiến phân tích đối với từng phương thức quản lý tài sản nêu trên, cách thức vận hành trong nền kinh tế vĩ mô.
5. Hentschel John và Olga Kaganova (2007), “Government Property Resources: A Case for Asset Management” (Nguồn lực tài sản Chính phủ: Nghiên cứu đối với lĩnh vực quản lý tài sản), PM. Public Management [76].
Công trình trên đã nghiên cứu, phân tích sự liên quan vai trò của cả lĩnh vực tư nhân và của Chính phủ trong việc tham gia quản lý TSC (tạo lập, hỗ trợ tài chính và quản lý tài sản); đồng thời khuyến nghị một số giải pháp nâng cao hiệu quả, minh bạch hóa vai trò của các bên tham gia mô hình công tư hợp doanh (public – private partnerships) trong lĩnh vực quản lý tài sản.
6. Grubisic Mihaela, Nusinovic Mustafa và Roje Gorana (2009), “Towards efficient public sector asset management” (Hướng tới quản lý hiệu quả tài sản khu vực công), Financial Theory and Practice [75].
Các tác giả đã nghiên cứu thách thức trong việc nâng cao hiệu quả quản lý TSC tại Croatia như một biện pháp nâng cao hiệu quả cải cách lĩnh vực quản lý công của Chính phủ. Bằng việc tập trung nghiên cứu, phân tích mô hình quản lý TSC tại Croatia, phân tích các ưu nhược điểm và cuối cùng nhấn mạnh các yêu cầu chính của việc cải cách quản lý TSC tại Croatia gồm: (1) tăng cường hệ thống thông tin TSC, đăng ký tài sản đảm bảo nguyên tắc minh bạch ; (2) có sự phân loại rõ ràng các loại TSC; (3) sự ghi nhận và đo lường TSC; (4) phải có danh mục đầu tư TSC; (5) đảm bảo tính thể chế và chuyên nghiệp trong quản lý TSC; và (6) sử dụng phương pháp đánh giá chi phí và kết quả đầu ra trong quản lý TSC.
7. Muhammad Hasbi Hanis, Trigunarsyah Bambang và Susilawati Connie (2011), “The application of public asset management in Indonesian local government” (Việc áp dụng cơ chế quản lý TSC tại chính quyền địa phương Indonesia), Journal of Corporate Real Estate [78].
Tác giả đã xác định những thách thức chính quyền địa phương tại Indonesia phải đối mặt khi đưa ra một khung quản lý TSC. Trong đó, chính quyền địa phương Nam Sulawesi là đối tượng của việc nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi đưa ra một mô hình quản lý TSC, các khó khăn chính quyền địa phương gặp phải là: sự thiếu hụt khung pháp lý hỗ trợ cho việc áp dụng mô hình quản lý tài sản; nguyên tắc phi lợi nhuận đối với TSC; sự chồng chéo về pháp lý đối với quy trình quản lý TSC; sự phức tạp của mục tiêu chính quyền địa phương; sự thiếu hụt dữ liệu đối với TSC và sự giới hạn về nguồn lực con người.
8. Olga Kaganova (2011), “Government Property Assets in the Wake of the Dual Crisis in Public Finance and Real Estate: An Opportunity to Do Better Going Forward?” (Tài sản Chính phủ trong điều kiện khủng hoảng kép về tài chính công và bất động sản: Cơ hội ở phía trước?), Real Estate [79].
Tác giả đã đánh giá vai trò của Chính phủ (cả ở trung ương và địa phương) tại Mỹ và Liên minh Châu Âu trong quản lý các tài sản là bất động sản, công trình hạ tầng. Theo đó, đối với công tác quản lý TSC, mặc dù các tài sản trên chiếm phần lớn trong giá trị TSC nói chung nhưng lại rất ít được ghi nhận trong hệ thống chính quyền. Chúng thường có liên hệ trực tiếp tới hoạt động tài chính công bằng nhiều cách thông qua việc đầu tư vốn, hỗ trợ tài chính và ngân sách của Chính phủ mà chưa có sự giới hạn tương ứng giữa số lượng và nhu cầu sử dụng TSC cho các hoạt động công ích của các cơ quan chính phủ. Trên cơ sở các phân tích thực tế, tác giả nêu ra các quan điểm cho một chính sách quản lý TSC hiệu quả trong điều kiện khủng hoảng, đó là: xem xét, đánh giá lại các quy định đã lạc hậu gây cản trở hiệu quả và hiệu năng quản lý TSNN, bao gồm cả việc dỡ bỏ các rào cản việc tư nhân cùng tham gia quản lý TSC; quy định thêm các nội dung có thể làm tăng cơ hội làm cho giá trị kinh tế của TSNN được ghi nhận và sử dụng đúng đắn; quy hoạch lại các các tài sản và có chiến lược sử dụng TSC phù hợp có tính đến tất cả nguồn vốn và tài sản vô hình tại tất cả các cấp chính quyền; chính phủ cần đưa ra các hướng dẫn cụ thể hoá về lĩnh vực quản lý tài sản tới các cơ quan, đơn vị.
9. Malawi Makaranga Ngwira; Parsa Ali và Manase David (2012), “Effectiveness of property asset management in Scottish councils” (Hiệu quả quản lý tài sản tại Hội đồng Scottland), Journal of Corporate Real Estate [77].
Công trình đã nghiên cứu, đánh giá hiệu quả của quản lý tài sản là bất động sản của Hội đồng Scottland so với mục tiêu đặt ra nhằm đạt giá trị cao nhất. Trong đó đã nêu và phân tích một số nhân tố chính để có thể nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản là bất động sản nói chung và áp dụng riêng đối với đối tượng của nghiên cứu gồm: giảm mức độ bảo dưỡng cần thiết, giảm chi phí vận hành hàng năm, cải thiện cơ sở cung cấp dịch vụ, giới thiệu tập quán làm việc mới, tăng không gian sử dụng, cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ, tăng việc sử dụng dịch vụ, mở rộng phạm vi của các dịch vụ tăng cường tính bền vững của các tài sản.
2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
2.2.1. Các luận án tiến sĩ
1. Nguyễn Mạnh Hùng (2009), “Cơ chế quản lý tài sản công trong khu vực hành chính sự nghiệp ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội [45].
Trong luận án này, tác giả đã nghiên cứu về cơ chế quản lý nhà nước đối với TSC bao gồm: trụ sở làm việc, phương tiện đi lại và các tài sản khác trong khu vực HCSN từ khâu hình thành, sử dụng đến khâu kết thúc. Cụ thể:
Tác giả đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về TSC trong khu vực HCSN; luận giải khái niệm TSC trong khu vực HCSN với tư cách là đối tượng nghiên cứu cơ bản xuyên suốt trong toàn bộ luận án. Luận án cũng đưa ra khái niệm và phân tích những nội dung cơ bản của cơ chế quản lý nhà nước đối với TSC trong khu vực HCSN. Đưa ra các chỉ tiêu đánh giá hiệu lực, hiệu quả cơ chế quản lý TSC trong khu vực HCSN.
Luận án đã đánh giá thực trạng về cơ chế quản lý nhà nước đối với TSC trong khu vực HCSN ở nước ta từ năm 1995 đến năm 2008, đặc biệt là từ sau khi có Luật quản lý, sử dụng TSNN; từ đó đánh giá những kết quả đã đạt được cần phát huy, những tồn tại cần khắc phục và nguyên nhân của nó; phân tích đánh giá thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu lực và hiệu quả của cơ chế quản lý TSC trong khu vực HCSN.
Cuối cùng, tác giả đề xuất những quan điểm, yêu cầu và các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý TSC trong khu vực HCSN ở Việt Nam giai đoạn 2009 – 2020. Các giải pháp đề xuất được dựa trên những luận cứ khoa học và thực tiễn cơ chế quản lý TSC trong khu vực HCSN ở Việt Nam và tiếp thu những kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong quá trình hoàn thiện cơ chế quản lý TSC trong khu vực HCSN.
Tuy nhiên, tác giả nghiên cứu toàn bộ khu vực HCSN (bao gồm CQNN, ĐVSN công lập và các tổ chức) mà không có mục đích nghiên cứu chuyên sâu về ĐVSN công lập nên tác giả chỉ phân tích cơ chế quản lý TSC trong khu vực HCSN nói chung. Ngoài ra, luận án giới hạn về thời gian: từ năm 1995 (thời điểm thành lập Cục QLCS – Bộ Tài chính) đến năm 2008, trong khi đó tính đến nay, đã có nhiều thay đổi liên quan đến TSC và công tác quản lý TSC, đặc biệt là về hệ thống văn bản chính sách.
2. Phan Hữu Nghị (2009), “Quản lý tài sản công trong các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội [53].
Tác giả đã trình bày tổng quan về cơ quan hành chính nhà nước và TSC, quản lý TSC trong các cơ quan hành chính nhà nước, đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm quản lý TSC của Trung Quốc, Austrailia, Pháp và của bang Quécbec – Canada trong việc quản lý TSC là trụ sở làm việc, từ đó rút ra 4 bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Mặt khác, trên cơ sở phân tích quy định chung về quản lý TSC và thực trạng quản lý trụ sở làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước của Việt Nam, tác giả đã tổng kết các kết quả đạt được, phân tích những tồn tại và nguyên nhân, từ đó đề ra mục tiêu, yêu cầu đổi mới và hệ thống giải pháp hoàn thiện quản lý trụ sở làm việc của cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam. Như vậy có thể thấy, đề tài chỉ nghiên cứu TSC của CQNN, không nghiên cứu đối với ĐVSN công lập.
3. Lê Thị Việt Hà (2016), “Quản lý tài sản nhà nước tại ngành Tòa án nhân dân ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ, Học viện Hậu cần [38].
Về mặt lý luận: Luận án đã đưa ra 3 mô hình quản lý TSC trong các CQNN bao gồm: mô hình quản lý tập trung, mô hình quản lý kiểu doanh nghiệp và mô hình hợp tác nhà nước tư nhân. Trên cơ sở phân tích ưu nhược điểm của từng mô hình, cơ chế quản lý TSC hiện nay với ngành TAND nên áp dụng mô hình quản lý tập trung. Ngoài ra, luận án cũng đã xây dựng khái niệm về hiệu quả quản lý, sử dụng TSNN trong các CQNN, đưa ra 4 tiêu chí đánh giá hiệu quả làm cơ sở đánh giá hiệu quả quản lý sử dụng TSNN trong các CQNN nói chung và ngành TAND nói riêng. Để đánh giá kết quả công tác quản lý TSC, luận án xây dựng hệ thống chỉ tiêu bao gồm 15 chỉ tiêu. Trong đó đã xác định tên gọi, ý nghĩa và công thức tính của từng chỉ tiêu. Các chỉ tiêu này phản ảnh tất cả các khâu của quản lý tài sản từ quá trình hình thành tài sản, khai thác sử dụng đến quá trình kết thúc của tài sản.
Về mặt thực tiễn: Tác giả đề xuất giải pháp hoàn thiện khung khổ pháp lý về quản lý TSNN tại ngành TAND, trọng tâm là hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng TSNN. Trên cơ sở định mức và biên chế tổ chức xây dựng đề án trang bị phương tiện làm việc tại ngành TAND giai đoạn 2015-2020; nghiên cứu ứng dụng phương thức quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra. Kiến nghị với Chính phủ cần có tổng kết và sửa đổi luật quản lý TSNN. Trên cơ sở những bất cập trong công tác quản lý TSNN tại ngành TAND, kiến nghị một số vấn đề cần phải thay đổi, bổ sung trong luật để tạo khung khổ pháp lý phù hợp với công tác quản lý TSNN trong giai đoạn hiên nay.
Từ những phân tích trên có thể thấy, luận án này chỉ nghiên cứu TSNN và quản lý TSNN tại CQNN, cụ thể là tòa án nhân dân các cấp, không nghiên cứu về ĐVSN công lập.
4. Trần Việt Phương (2016), “Quản lý TSC tại cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ, Học viện Tài chính [56].
Luận án đã nghiên cứu một cách hệ thống những lý luận cơ bản
TSC tại CQNN và ĐVSN công lập như: khái niệm, đặc điểm, vai trò của TSC trong đời sống kinh tế; Nội dung quản lý TSC tại CQNN và ĐVSN công lập; Hiệu quả quản lý TSC CQNN và ĐVSN công lập, với các chỉ tiêu để đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý TSC tại CQNN và ĐVSN công lập. Luận án cũng nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, để rút ra bài học kinh nghiệm cho việc tiếp tục tăng cường công tác quản lý TSC tại CQNN và ĐVSN công lập ở Việt Nam. Đồng thời, luận án đã khái quát về cơ chế quản lý TSC tại CQNN và ĐVSN công lập ở Việt Nam qua các thời kỳ và tập trung phân tích, đánh giá thực trạng quản lý, sử dụng TSNN từ năm 2009 đến nay (theo Luật Quản lý, sử dụng TSNN năm 2008, có hiệu lực từ ngày 01/01/2009).
Luận án đã đánh giá về kết quả đã đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân; để làm tiền đề cho việc đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý TSC tại CQNN và ĐVSN công lập trong thời gian tới.
Tác giả đã đưa ra hai nhóm giải pháp để quản lý TSC hiệu quả bao gồm:
(i) Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý TSC thông qua việc khắc phục những tồn tại, hạn chế trong hệ thống chính sách hiện nay.
(ii) Nhóm giải pháp tổ chức thực hiện như tuyên truyền, phổ biến cơ chế chính sách, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao năng lực cán bộ quản lý TSC.
Đề tài này mặc dù có nghiên cứu về ĐVSN công lập nhưng chỉ chung các ĐVSN công lập, không nghiên cứu riêng về ĐVSN công lập là các cơ sở GDĐH công lập.
5. Phạm Thị Thanh Vân (2016), “Quản lý tài chính nội bộ các trường đại học công lập ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ, Học viện Tài chính [69].
Tác giả đã làm rõ bản chất của quản lý tài chính nội bộ trong các trường ĐHCL, đưa ra các mục tiêu của quản lý tài chính nội bộ các trường ĐHCL, phân tích các công cụ thường sử dụng trong quản lý tài chính nội bộ các trường ĐHCL và làm rõ việc áp dụng các công cụ quản lý tài chính nội bộ được áp dụng cụ thể vào từng nội dung quản lý thu, quản lý chi và quản lý tài sản như thế nào.
Trên cơ sở lý luận về quản lý tài chính nội bộ, tác giả đã tiến hành phân tích thực trạng quản lý tài chính nội bộ các trường ĐHCL ở Việt Nam, trong đó tập trung trên 3 khía cạnh: quản lý thu, quản lý chi và quản lý tài sản. Đánh giá những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong quản lý tài chính nội bộ các trường ĐHCL; từ đó đưa ra một số giải pháp có tính thực tiễn nhằm hoàn thiện quản lý tài chính nội bộ các trường ĐHCL ở Việt Nam trong thời gian tới.
2.2.2. Các đề tài nghiên cứu khoa học
1. Nguyễn Văn Xa (2000), “Chiến lược đổi mới cơ chế quản lý TSC giai đoạn 2001-2010”, Đề tài NCKH cấp Bộ [70].
Đề tài đã nghiên cứu thực trạng quản lý, sử dụng TSC ở nước ta từ năm 1995 (sau khi thành lập Cục QLCS thuộc Bộ Tài chính) đến năm 2000; đánh giá những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế, trên cơ sở đó kiến nghị những quan điểm, giải pháp để đổi mới cơ chế quản lý TSC tại các đơn vị HCSN giai đoạn 2001 – 2010. Tuy nhiên, do thời gian thực hiện từ năm 2000, các số liệu đề tài sử dụng chỉ được thống kê đến năm 2000 nên các kết quả nghiên cứu của đề tài cơ bản chỉ có giá trị đóng góp ở thời điểm thực hiện, khi mà lĩnh vực quản lý TSC ở nước ta đang ở giai đoạn xác định đối tượng quản lý, xác định chủ thể quản lý và bước đầu thiết lập hệ thống các công cụ quản lý. Mặt khác đề tài chưa thực sự phân biệt quản lý TSC trong cơ quan quản lý nhà nước và quản lý TSC trong các ĐVSN để phù hợp với chủ trương phân định rõ chức năng của cơ quan quản lý nhà nước và CQNN cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng.
2. Phạm Đức Phong (2002), “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản nhà nước tại đơn vị sự nghiệp”, Đề tài NCKH cấp Bộ [54].
Trong đề tài này, tác giả đã chú trọng nghiên cứu sâu về cơ chế quản lý TSC được Nhà nước giao cho các ĐVSN trực tiếp sử dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được Nhà nước giao. Trong đó, đề tài chủ yếu đi sâu hệ thống hóa các cơ chế, chính sách đang áp dụng đối với quản lý TSC tại các ĐVSN, đánh giá những kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những tồn tại khi thực hiện các cơ chế, chính sách đó để kiến nghị các giải pháp hoàn thiện, đổi mới. Tuy nhiên, trong điều kiện văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý TSC còn thiếu, chưa đồng bộ thì đề tài chưa thực sự quan tâm đánh giá đến hiệu quả của các cơ chế chính sách đó để có những giải pháp giúp các cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.
3. Cục Quản lý công sản (2013), “Đổi mới cơ chế quản lý tài sản nhà nước tại đơn vị sự nghiệp công lập”, Đề tài NCKH cấp Bộ [21].
Đề tài đã tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá đề xuất nhiều giải pháp đổi mới công tác quản lý TSNN tại ĐVSN với mục tiêu: trao quyền tự chủ cho các ĐVSN công lập để phát triển các hoạt động sự nghiệp, thực hiện xã hội hoá, giảm sức ép chi từ NSNN, trên cơ sở thực hiện thông qua các phương thức: đi thuê và cho thuê tài sản; cho phép sử dụng TSNN để sản xuất kinh doanh dịch vụ, liên doanh, liên kết… Theo đó, cơ chế tài chính đối với một số lĩnh vực, một số đối tượng cũng có những thay đổi quan trọng. Trên cơ sở các mục tiêu đó, đề tài đã đề xuất 05 nhóm giải pháp cơ bản: 1- Phân định rõ cơ chế quản lý TSNN của CQNN với ĐVSN công lập, đảm bảo sự tách biệt giữa mô hình quản lý nhà nước với các đơn vị công lập cung cấp dịch vụ công. 2- Đề xuất nghiên cứu, ban hành và hoàn thiện quy định tiêu chuẩn, định mức và chế độ quản lý, sử dụng TSNN theo hướng có sự phân biệt giữa ĐVSN công lập và cơ quan quản lý nhà nước: Quy định “mở” hơn về việc sử dụng nguồn thu sự nghiệp để đầu tư, mua sắm tài sản; phân cấp mạnh hơn cho các ĐVSN trong việc quyết định đầu tư, mua sắm, xử lý TSNN. 3- Đổi mới cơ chế quản lý khấu hao TSCĐ tại ĐVSN công lập: Cần thống nhất một cơ chế khấu hao TSCĐ, khấu hao TSCĐ sẽ được xác định đầy đủ như đối với doanh nghiệp vào giá thành các sản phẩm, trong đó có cả dịch vụ công. Trước mắt, khi hiện nay cơ chế tài chính, cơ chế hoạt động của ĐVSN công lập chưa đổi mới và đồng bộ với cơ chế quản lý TSNN, chưa thể tính khấu hao tài sản vào giá thành dịch vụ công thì Bộ Tài chính cần có hướng dẫn việc hạch toán khấu hao và hao mòn áp dụng chung tại một ĐVSN. 4 – Đổi mới cơ chế quản lý đất đai tại ĐVSN công lập: Hiện nay, hầu hết các ĐVSN công lập đang được Nhà nước “bao cấp” về đất đai, sử dụng đất nhưng không phải thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước (không phải nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất), dẫn đến còn trình trạng sử dụng đất chưa thực sự hiệu quả. Mặt khác, Nhà nước cũng đã quy định, khi các ĐVSN sử dụng tài sản trên đất vào mục đích sản xuất, kinh doanh dịch vụ, liên doanh, liên kết thì phải nộp tiền thuê đất, tuy nhiên, quy định này vẫn cần được tiếp tục hoàn thiện, bổ sung để thực sự đi vào cuộc sống theo hướng cần đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cơ chế quản lý đất đai đối với ĐVSN công lập từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, trong đó các ĐVSN phải thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với đất đai và các chi phí sử dụng đất (tiền thuê đất) đồng thời ĐVSN được xác định vào giá thành các sản phẩm, bao gồm cả dịch vụ công do Nhà nước đặt hàng. 5- Nhóm giải phải về tăng cường công tác quản lý. Bên cạnh đó, đề tài đề xuất 2 nhóm giải pháp cần thiết để đảm bảo thực hiện đổi mới quản lý TSNN tại ĐVSN một cách có hiệu quả, đó là: (i) Đổi mới tổ chức, hoạt động, nâng cao quyền tự chủ; (ii) Đổi mới chính sách và phương thức quản lý tài chính.
2.2.3. Các bài báo khoa học
1. Tào Hữu Phùng (2006), “Đổi mới và tăng cường công tác giám sát tài sản nhà nước của Quốc hội là biện pháp rất quan trọng”, Tạp chí Tài chính [55].
Bài báo này đã cho rằng một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến nhiều vụ việc tham nhũng, lãng phí, thất thoát liên quan đến TSNN là việc buông lỏng công tác quản lý, kiểm tra và giám sát sử dụng TSNN, nhất là công tác giám sát. Tác giả đã đưa ra một số kiến nghị nhằm phát huy hơn nữa vai trò của Quốc hội – cơ quan giám sát tối cao trong việc giám sát quản lý và sử dụng TSNN; đồng thời khẳng định việc đổi mới và tăng cường công tác giám sát TSNN của Quốc hội là biện pháp rất quan trọng để quản lý và sử dụng TSNN có hiệu quả.
2. Lê Ngọc Khoa (2006), “Hoàn thiện, bổ sung hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản nhà nước”, Tạp chí Tài chính [47].
Tác giả một mặt khẳng định vai trò quan trọng của hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản trong quản lý, sử dụng TSNN; mặt khác đánh giá hệ thống tiêu chuẩn, định mức hiện hành còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ và chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý. Vì vậy, nhằm tăng cường chống lãng phí trong quản lý, sử dụng TSC tại các cơ quan HCSN, tác giả đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện, bổ sung hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng TSNN đối với một số loại tài sản trong đó nhấn mạnh việc cần có sự phân biệt tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản của các cơ quan hành chính nhà nước và ĐVSN công.
3. Ngọc Hương (2006), “Kinh nghiệm quản lý và chống lãng phí tài sản công ở Anh”, Tạp chí Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương [46].
Bài báo đã trình bày khái quát về hệ thống quản lý TSC ở Anh, một trong những quốc gia có hệ thống quản lý TSNN hiệu quả, hạn chế được tình trạng thất thoát, lãng phí trong công tác quy hoạch, sử dụng TSC. Cụ thể, bài báo tập trung trình bày những biện pháp quản lý, giám sát đầu tư, quy hoạch và phân bổ TSC mà chính phủ Anh tăng cường triển khai từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Trên cơ sở nghiên cứu hệ thống quản lý TSC của Anh, tác giả đã rút ra một số bài học tham khảo cho Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển nói chung trong quản lý TSC ở trung ương và địa phương, trong đó đề nghị Chính phủ nên xem xét mối quan hệ giữa đầu tư và quản lý TSCĐ ở mức chiến lược, đảm bảo cân bằng giữa kế hoạch đầu tư vốn trong tương lai (cả đầu tư công lẫn đầu tư tư nhân) với việc mở rộng và duy trì các tài sản hiện có; cần thực hiện một cách thống nhất, minh bạch quản lý TSC của trung ương và chính quyền địa phương (bao gồm hồ sơ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền quyết định, xử lý kết quả tài chính…) trong việc đầu tư mới, tái đầu tư, chuyển nhượng mục đích sử dụng, phân bổ và sắp xếp lại tài sản; các cơ quan, đơn vị sử dụng tài sản nên phát triển các chiến lược quản lý tài sản phù hợp với các trách nhiệm về tài chính của mình.
4. Trần Văn Giao (2006), “Góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp”, Tạp chí Quản lý nhà nước [36].
Bài báo đã giới thiệu khái quát về ĐVSN và phân biệt giữa ĐVSN với cơ quan quản lý nhà nước về chức năng, nhiệm vụ, kinh phí hoạt động và việc quản lý, sử dụng TSC. Tác giả đã phân tích sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý TSC nói chung và TSC trong các ĐVSN nói riêng, đưa ra những phương hướng cơ bản trong quản lý, sử dụng, khai thác TSC thời gian tới. Từ đó, tác giả tập trung đề xuất 5 nhóm vấn đề chủ yếu nhằm góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý TSC trong các ĐVSN cho phù hợp với cơ chế tự chủ về tài chính và tính chất đặc điểm của từng loại hình hoạt động sự nghiệp theo hướng quy định cụ thể và đa dạng hơn nguồn kinh phí sử dụng để đầu tư xây dựng, mua sắm và sửa chữa tài sản; xác định và tăng cường phân cấp thẩm quyền quyết định trang bị xử lý tài sản cho thủ trưởng ĐVSN; nâng cao tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của ĐVSN có thu trong sử dụng TSC; xác định tiêu chuẩn và định mức sử dụng tài sản, cơ chế xác định giá trị quyền sử dụng đất tính vào giá trị tài sản của các ĐVSN được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất. Cuối cùng, tác giả kiến nghị Bộ Tài chính và các bộ, cơ quan chức năng có liên quan nên sớm nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế quản lý TSNN trong các ĐVSN để áp dụng trong cả nước.
5. Trần Văn Giao (2007), “Đổi mới quản lý tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp”, Tạp chí Kinh tế và phát triển [37].
Tác giả đã giới thiệu khái quát về TSC trong các ĐVSN (phạm vi, đặc điểm, nội dung quản lý, cơ chế quản lý), đi sâu phân tích thực trạng quản lý TSC trong các ĐVSN (gồm thực trạng về cơ chế quản lý và nội dung tổ chức quản lý) với những kết quả đạt được, những tồn tại cơ bản, đồng thời rút ra nguyên nhân của những tồn tại và đề xuất các biện pháp nhằm tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách về tổ chức quản lý, sử dụng TSC và đổi mới cơ chế, tăng cường công tác quản lý TSC trong các ĐVSN.
6. Nguyễn Mạnh Hùng (2008), “Cơ sở pháp lý cao nhất cho việc quản lý, sử dụng tài sản công”, Tạp chí Tài chính [43].
Tác giả đã trình bày ngắn gọn về bối cảnh ra đời và ý nghĩa của Luật quản lý, sử dụng TSNN ở Việt Nam; từ đó đi sâu vào phân tích những nội dung cơ bản của Luật với ý nghĩa là cơ sở pháp lý cao nhất trong quản lý, sử dụng TSNN ở Việt Nam. Trong đó, tác giả đã nêu, phân tích và đánh giá những nội dung chính của Luật về phạm vi điều chỉnh, các nguyên tắc quản lý, sử dụng TSNN; các hành vi bị nghiêm cấm và các hình thức xử lý theo quy định của pháp luật; chế độ quản lý TSNN đối với từng loại hình đơn vị: CQNN, các ĐVSN, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp nhằm giúp các cơ quan, đơn vị xây dựng mô hình, phương thức quản lý và sử dụng TSC phù hợp, hiệu quả.
7. Nguyễn Mạnh Hùng (2008), “Quản lý tài sản công: Kinh nghiệm thế giới và khả năng vận dụng vào Việt Nam”, Tạp chí Tài chính [44].
Tác giả đã phân tích những công trình nghiên cứu của các học giả quốc tế về quản lý TSC, kinh nghiệm quản lý TSC ở các nước phát triển trên thế giới và trình bày một số đánh giá chung nhất về các công trình nghiên cứu này. Trong đó, tác giả rút ra những tồn tại chủ yếu trong quản lý TSC ở giai đoạn trước khi các nước được nghiên cứu có cải cách về quản lý tài sản và nhấn mạnh những thành quả đạt được sau cải cách, nhất là việc đưa ra 3 mô hình tổng quát cơ bản về cơ quan quản lý TSC có hiệu quả: (1) Một cơ quan Chính phủ chuyên về quản lý tài sản hoạt động trong một môi trường mở đối với cạnh tranh từ khu vực tư nhân (mô hình chi nhánh quản lý tài sản của Bộ Tài chính và Hành chính của Úc và Trung Quốc), (2) Tập đoàn thuộc sở hữu nhà nước thực hiện toàn bộ các hoạt động và danh mục tài sản (mô hình của Canada), (3) Các công ty thuộc khu vực tư nhân về quản lý tài sản trên cơ sở hợp đồng. Từ đó, đặt ra một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu về mối quan hệ giữa cải cách kế toán và cải cách quản lý tài sản, mức độ phân chia giữa quyền sở hữu và quyền quản lý tài sản, hệ thống thông tin quản lý TSC. Đặc biệt, từ kết quả nghiên cứu kinh nghiệm quản lý TSC của một số quốc gia trên thế giới, tác giả đưa ra những nhận xét, đánh giá liên quan đến việc vận dụng để nghiên cứu, hoàn thiện công tác quản lý TSC ở Việt Nam.
8. Lê Chi Mai (2010), “Quản lý tài sản công trong các cơ quan hành chính nhà nước – Các hạn chế và giải pháp”, Tạp chí Quản lý nhà nước [50].
Tác giả đã căn cứ các tài liệu có liên quan (Báo cáo tổng kết công tác quản lý TSC giai đoạn 1995 – 2005 của Cục QLCS, Bộ Tài chính, Báo cáo kết quả kiểm toán năm 2007, 2008 của Kiểm toán Nhà nước) để đánh giá khái quát thực tiễn quản lý TSC nói chung và trong các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng. Từ đó, tác giả đi sâu vào phân tích một số vấn đề bức thiết đang đặt ra trong quản lý TSC tại các cơ quan hành chính nhà nước như tình trạng mua sắm lãng phí; sử dụng tài sản kém hiệu quả; thiếu ghi chép, đánh giá giá trị và tổng kết tài sản; tổ chức bộ máy và nhân sự quản lý chưa phù hợp; thiếu sự thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm. Với những hạn chế trên, bài báo đề xuất các nhóm giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh việc quản lý TSC trong các cơ quan hành chính nhà nước, gồm: hoàn thiện các thể chế của Nhà nước về quản lý, sử dụng TSC tại các cơ quan hành chính nhà nước; xây dựng cơ chế quản lý TSC trong mỗi cơ quan, đơn vị; cải tiến việc mua sắm TSC để nâng cao hiệu quả mua sắm; thực hiện nghiêm khắc chế độ theo dõi, báo cáo TSC tại các cơ quan hành chính nhà nước; phân cấp quản lý rõ ràng đi đôi với kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan QLCS ở Trung ương và địa phương; nâng cao chất lượng hoạt động kiểm tra, giám sát về mua sắm, quản lý và sử dụng TSC; hình thành các cơ quan chức năng về mua sắm công và quản lý TSC.
9. Chu Xuân Nam (2010), “Một số vấn đề về quản lý TSC ở Việt Nam hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội [52].
Trong công trình này, tác giả đã đề cập tương đối đầy đủ, có hệ thống cơ sở lý luận về TSC, cơ chế QLCS và hệ thống các giải pháp đổi mới cơ chế QLCS ở Việt Nam. Trên cơ sở tổng quan về TSC và cơ chế quản lý TSC trong các CQNN ở Việt Nam, tác giả hệ thống hóa số liệu (đến năm 2008) và cơ chế chính sách liên quan đến 3 loại TSC trong cơ quan HCSN là: đất đai thuộc trụ sở là việc, PTĐL và trang thiết bị làm việc; từ đó phân tích 6 bất cập, hạn chế của cơ chế quản lý TSC trong cơ quan HCSN và đề ra 6 nhóm giải pháp để đổi mới cơ chế quản lý TSC trong các cơ quan HCSN ở Việt Nam.
10. Nguyễn Tân Thịnh (2016), “Để khai thác hiệu quả nguồn lực tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập”, Tạp chí Tài chính [58].
Trong nghiên cứu này, tác giả đã đánh giá vấn đề khai thác nguồn lực từ TSC chưa tương xứng với tiềm năng; việc đầu tư, trang bị cơ sở vật chất phục vụ hoạt động sự nghiệp của các ĐVSN công lập vẫn chủ yếu do Nhà nước bảo đảm. Do đó, cần nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng TSC bằng những giải pháp bao gồm: Hoàn thiện khuôn khổ luật phát về quản lý, sử dụng TSC, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc quản lý, sử dụng, khai thác nguồn lực tài chính từ TSC; Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, định mưc và chế độ quản lý, sử dụng TSC theo hướng hạn chế trang bị bằng hiện vật, chuyển dần sang cơ chế khoán có tính chất bắt buộc, thực hiện phương thức thuê dịch vụ và Nhà nước đặt hàng; Mở rộng đối tượng được Nhà nước xác định giá trị tài sản để giao cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp, theo đó mở rộng ĐVSN công lập sử dụng TSC giao vào mục đích sản xuất, kinh doanh dịch vụ, cho thuê, liên doanh, liên kết gắn với tăng cường công khai, minh bạch, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm; Đẩy mạnh áp dụng hình thức hợp tác công – tư trong xây dựng trụ sở làm việc, công trình sự nghiệp; Triển khai mua sắm TSNN theo phương thức tập trung; Nâng cao chất lượng quản trị TSC ĐVSN công lập; Nâng cao hiệu quả xử lý TSC tại ĐVSN công lập theo hướng công khai, minh bạch; Hiện đại hóa công tác quản lý TSC và nâng cấp CSDL quốc gia về TSC; Tăng cường xây dựng, thực hiện các hình thức công khai tình hình quản lý, sử dụng TSC.
11. Nguyễn Tân Thịnh (2017), “Đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập”, Tạp chí Tài chính [59].
Trong bài báo này, tác giả đã khái quát những kết quả đạt được cũng như những hạn chế của cơ chế và công tác quản lý, sử dụng TSC tại các ĐVSN công lập từ khi có Luật quản lý, sử dụng TSNN đến tháng 9/2017. Những nội dung mới của Luật quản lý, sử dụng TSC 2017 cũng được tác giả phân tích cụ thể. Trên cơ sở những điểm mới, bổ sung của Luật quản lý, sử dụng TSC, tác giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần đảm bảo và nâng cao tự chủ tài chính của ĐVSN công lập, các giải pháp gồm: (i) Ban hành kịp thời, đầy đủ các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Quản lý, sử dụng TSC; (ii) Đổi mới hệ thống tiêu chuẩn, định mức TSC; (iii) Ban hành danh mục tài sản được sử dụng vào mục đích kinh doanh, tài sản sử dụng vào mục đích xã hội phù hợp với từng lĩnh vực hoạt động sự nghiệp; (iv) Tổ chức kiểm kê, đánh giá lại TSC trong các ĐVSN công lập; (v) Nhà nước tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các cơ sở sự nghiệp công lập; (vi) Nâng cao chất lượng quản trị TSC của các ĐVSN công lập; (vii) Nâng cao hiệu quả xử lý TSC tại ĐVSN công lập theo hướng công khai, minh bạch; (viii) Tiếp tục thực hiện hiện đại hóa công tác quản lý TSC và nâng cấp CSDL về TSC, đảm bảo từng bước CSDL có đầy đủ thông tin về TSC; (ix) Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm các vi phạm quy định về quản lý, sử dụng TSC.
12. Trần Đức Thắng và Nguyễn Tân Thịnh (2017), “Thực trạng quản lý, sử dụng tài sản công tại đơn vị sự nghiệp”, Tạp chí Tài chính [57].
Trong bài báo, các tác giả đã phân tích những kết quả đạt được trong công tác quản lý, sử dụng TSNN ở nước ta từ khi có Luật Quản lý, sử dụng TSNN năm 2008 đến năm 2017. Bài báo cũng chỉ ra những tồn tại và hạn chế trong công tác quản lý, sử dụng TSC tại ĐVSN công lập, đó là: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới; Hệ thống tiêu chuẩn, định mức chưa linh hoạt; Phương thức trang bị tài sản cho các đơn vị chủ yếu là bằng hiện vật, việc sử dụng công cụ thị trường còn hạn chế; Việc giao tài sản cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp còn chậm; Việc thực hiện chính sách khuyến khích xã hội hóa trong các lĩnh vực sự nghiệp công chưa được quan tâm đúng mức; Quỹ nhà, đất thuộc sở hữu nhà nước có số lượng và giá trị rất lớn nhưng việc sử dụng còn phân tán, lãng phí, hiệu suất thấp; Việc xử lý TSC còn mang tính chất nhỏ lẻ, manh mún; CSDL quốc gia về TSNN chưa bao quát hết các loại TSC cần quản lý.
Từ đó, tác giả kết luận, những hạn chế trên đặt ra yêu cầu cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa công tác quản lý, sử dụng TSC tại ĐVSN công lập nhằm phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những tồn tại, yếu kém.
2.3. Đánh giá chung các nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án và định hướng nghiên cứu đề tài luận án
2.3.1. Đánh giá chung các nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
Với vai trò quan trọng ngày càng được khẳng định của TSC đối với mỗi quốc gia cũng như đối với từng cơ quan, tổ chức, đơn vị, có thể thấy trong những năm gần đây các nghiên cứu về TSC và quản lý TSC đã xuất hiện ngày càng nhiều. Các công trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước nêu ở trên đã có những đóng góp hết sức ý nghĩa về mặt khoa học và thực tiễn và hướng vào một số nội dung chính sau:
Một là, đã hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về TSC và quản lý TSC như: khái niệm, đặc điểm, phân loại TSC; nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý TSC.
Hai là, đã phân tích đặc điểm, mô hình, phương thức, công cụ và cơ chế, chính sách quản lý TSC ở Việt Nam nói chung và tại một số loại hình cơ quan, đơn vị cụ thể như cơ quan thuộc Chính phủ, ĐVSN nói riêng, cũng như một số quốc gia trên thế giới có mô hình và các giải pháp quản lý TSC được đánh giá là hiệu quả như Anh, Mỹ, Pháp, Canada, Trung Quốc. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm quan trọng để tham khảo, có tính khả thi, giúp các nhà nghiên cứu, hoạch định cơ chế, chính sách và những người làm công tác chuyên môn trong lĩnh vực quản lý TSC thực hiện tốt các công việc có liên quan của mình.
Ba là, đã đánh giá rõ thực trạng quản lý TSC nói chung và quản lý TSC trong ĐVSN công lập nói riêng ở Việt Nam trong thời gian qua, phân tích những thành tựu đạt được, những tồn tại, thách thức và nguyên nhân. Từ đó đưa ra những nhận định và các kiến nghị, giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý TSC.
Nhìn chung, các nghiên cứu được tìm hiểu và phân tích ở trên đã tiếp cận ở những góc độ hết sức đa dạng, giải quyết được tương đối nhiều vấn đề liên quan đến TSC và quản lý TSC. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu ở cấp độ luận án tiến sĩ nghiên cứu chuyên sâu về quản lý TSC, đặc biệt là quản lý TSC tại các cơ sở GDĐH công lập mà mới chỉ dừng lại ở các ĐVSN công lập hoặc lại đi vào chi tiết một cơ sở GDĐH công lập chưa tự chủ là một bộ phận của khối ĐVSN công lập, đồng thời giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển văn hóa – xã hội của quốc gia. Hơn nữa, theo thời gian, cơ chế quản lý cũng như việc tổ chức thực hiện quản lý TSC các cơ sở GDĐH công lập có những thay đổi. Chính vì thế, đề tài luận án là không trùng lắp với các công trình nghiên cứu trước đó.
2.3.2. Định hướng nghiên cứu đề tài luận án
Bên cạnh những giá trị to lớn về mặt khoa học mà các công trình nghiên cứu được đề cập nêu trên đã đạt được, quản lý TSC là vấn đề phức tạp cần được nghiên cứu, hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn, riêng đối với đề tài “Quản lý tài sản công các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam” được xác định tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau:
Một là, kế thừa kết quả nghiên cứu mà các công trình đã công bố đạt được, đề tài tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện một số lý luận cơ bản về TSC và quản lý TSC các cơ sở GDĐH công lập: khái niệm TSC các cơ sở GDĐH công lập; đặc điểm, phân loại TSC các cơ sở GDĐH công lập gắn với lợi ích kinh tế mà nó đem lại cho xã hội; khái niệm, yêu cầu, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý TSC các cơ sở GDĐH công lập.
Hai là, nghiên cứu một số kinh nghiệm quốc tế về quản lý TSC các cơ sở GDĐH công lập, rút ra bài học kinh nghiệm để tham khảo trong việc kiến nghị, đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý TSC các cơ sở GDĐH công lập ở Việt Nam thời gian tới.
Ba là, từ những vấn đề lý luận đã nghiên cứu, luận án sẽ đi sâu phân tích thực trạng quản lý TSC các cơ sở GDĐH công lập trong giai đoạn 2014 – 2018; đánh giá kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế dựa trên các quy trình quản lý tài sản (quản lý quá trình hình thành TSC; quản lý quá trình khai thác, sử dụng TSC; quản lý quá trình kết thúc sử dụng TSC).
Bốn là, trên cơ sở xác định quan điểm hoàn thiện quản lý TSC nói chung, luận án phân tích các quan điểm đặt ra đối với quản lý TSC tại các cơ sở GDĐH công lập ở Việt Nam trong bối cảnh tiến tới tự chủ đại học. Từ đó, đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện quản lý TSC các cơ sở GDĐH công lập, phù hợp với đặc thù của các cơ sở GDĐH công lập và thực hiện theo đúng chế độ, chính sách của Nhà nước, đảm bảo ổn định và hiệu quả trong công tác quản lý.

LA02.259_Quản lý tài sản công các cơ sở giáo dục đại học công lập ở Việt Nam

5 / 5 ( 2 votes )
Tags: cơ sở giáo dục đại học công lậpđại học công lậpQuản lý tài sản côngtài sản công
Previous Post

Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài – Nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Next Post

Quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện công lập Việt Nam

admin

admin

✍✍✍ Với kinh nghiệm hơn 10 năm, Luận Văn A-Z nhận hỗ trợ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ một cách UY TÍN và CHUYÊN NGHIỆP. ✍✍✍ Liên hệ: 092.4477.999 - Mail : luanvanaz@gmail.com

Related Posts

thị trường mua bán nợ xấu
Kinh Tế

Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng

by admin
February 24, 2020
Luận án tiến sĩ Kinh tế phát triển
Kinh tế phát triển

Phát triển kinh doanh dịch vụ viễn thông ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế Nghiên cứu trường hợp Công ty Cổ phần viễn thông Hà Nội

by admin
February 21, 2020
Luận án tiến sĩ tài chính ngân hàng
Tài Chính Ngân Hàng

Quản lý tài chính các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Tài chính

by admin
February 21, 2020
Luận án tiến sĩ tài chính ngân hàng
Tài Chính Ngân Hàng

Tái cấu trúc tài chính các doanh nghiệp vận tải biển niêm yết ở Việt Nam

by admin
February 9, 2020
Luận án tiến sĩ Kinh tế phát triển
Kinh tế phát triển

Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tỉnh Phú Thọ

by admin
February 9, 2020
Next Post
Quản lý nhà nước về hộ tịch tại các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam hiện nay

Quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện công lập Việt Nam

Leave a Reply Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Recommended

Luận án tiến sĩ quản lý kinh tế

LA03.017_ Quản lý nhà nước về thương mại điện tử

July 28, 2015
Luận án tiến sĩ tài chính ngân hàng

Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát hoạt động tài chính của các công ty xây dựng Bộ Quốc Phòng

August 5, 2018
Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục

Xây dựng và sử dụng bài giảng điện tử phần STH, Sinh học 12 (NC) theo hướng tích hợp truyền thông đa phương tiện

November 17, 2015
Phân tích đặc điểm của đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách địa phương, tác giả luận án đã góp phần làm sáng tỏ nội dung đầu tư phát triển, tiêu chí đánh giá tác động của đầu tư phát triển đến đến sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

Đầu tư phát triển công nghiệp tại nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

October 4, 2018

Don't miss it

thị trường mua bán nợ xấu
Kinh Tế

Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng

February 24, 2020
Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tài chính - Ngân hàng

Các lý thuyết về rủi ro và lợi nhuận

February 23, 2020
Luận án tiến sĩ Kinh tế phát triển
Kinh tế phát triển

Phát triển kinh doanh dịch vụ viễn thông ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế Nghiên cứu trường hợp Công ty Cổ phần viễn thông Hà Nội

February 21, 2020
Luận án tiến sĩ tài chính ngân hàng
Tài Chính Ngân Hàng

Quản lý tài chính các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Tài chính

February 21, 2020
Luận án tiến sĩ tài chính ngân hàng
Tài Chính Ngân Hàng

Tái cấu trúc tài chính các doanh nghiệp vận tải biển niêm yết ở Việt Nam

February 9, 2020
Luận án tiến sĩ Kinh tế phát triển
Kinh tế phát triển

Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tỉnh Phú Thọ

February 9, 2020
Luận án tiến sĩ quản lý kinh tế
Quản lý kinh tế

Các yếu tố tác động đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

February 9, 2020
Luận án tiến sĩ quản lý kinh tế
Quản lý kinh tế

Tăng cường tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

February 9, 2020
Luận án tiến sĩ quản trị nhân lực
Quản trị kinh doanh

Nâng cao năng lực quản lý chuỗi cung ứng trong công tác khám, chữa bệnh tại các Bệnh viện Quân y trên địa bàn Hà Nội (108, 105, 354)

February 9, 2020
Luận án tiến sĩ tài chính ngân hàng
Tài Chính Ngân Hàng

Thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế biển đảo phía Nam Việt Nam

February 9, 2020
Download Luận Văn

iLuận văn chia sẻ luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ hoàn toàn miễn phí. Nhận hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. LH: 092.4477.999


Xem thêm

No Result
View All Result

Recent News

thị trường mua bán nợ xấu

Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng

February 24, 2020
Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài

Các lý thuyết về rủi ro và lợi nhuận

February 23, 2020

© 2021 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.

No Result
View All Result
  • Landing Page
  • Buy JNews
  • Support Forum
  • Pre-sale Question
  • Contact Us

© 2021 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.