LA17.036_Quản lý đội ngũ giảng viên trường đại học trực thuộc Bộ Công thương trong bối cảnh hiện nay
Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia ngày càng trở nên quyết liệt, đòi hỏi các nƣớc phải đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động, điều đó đã và đang đặt ra vị trí mới cho giáo dục. Giáo dục trong thế kỷ XXI phải thực hiện đƣợc sứ mệnh nhân văn hóa tiến trình toàn cầu hóa, biến toàn cầu hóa thành điều có ý nghĩa đối với từng con ngƣời với tất cả các quốc gia. Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lƣợng của đất nƣớc và tạo cơ hội học tập cho mỗi ngƣời dân. Giáo dục suốt đời trở thành đòi hỏi và cam kết của mỗi quốc gia. Hệ thống giáo dục, chƣơng trình và phƣơng pháp giáo dục của các nƣớc tiếp tục đƣợc thay đổi nhằm xóa bỏ mọi ngăn cách trong các nhà trƣờng, cung cấp các tri thức hiện đại, đáp ứng đƣợc yêu cầu mới phát sinh của nền kinh tế. Trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam, giáo dục đại học có vai trò đặc biệt quan trọng, là trụ cột của nền giáo dục mỗi nƣớc. Thời đại đang chứng kiến vị thế nổi bật của giáo dục đại học. Hầu hết các trƣờng đại học trên thế giới đang tiến hành những cải cách toàn diện để trở thành những trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học, sản xuất, chuyển giao công nghệ và xuất khẩu tri thức.
UNESCO đã tổ chức những hoạt động tập trung trí tuệ suy nghĩ về một nền giáo dục cho thế kỷ XXI: Hội nghị về giáo dục cho mọi ngƣời tại Jomtien, Thái Lan 1990; Hội nghị thế giới về giáo dục Đại học họp tại Paris tháng 10 năm 1998; Hội đồng quốc tế về giáo dục cho thế kỷ XXI Jacques Delors công bố công trình “Học tập – một kho báu tiềm ẩn”. Việt Nam đang trong quá trình đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH. Đó là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân trên con đƣờng thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Trong quá trình đó, con ngƣời là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại. Để phát huy nguồn lực con ngƣời, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững, Đảng và Nhà nƣớc ta đã khẳng định vị trí quốc sách hàng đầu của giáo dục và đào tạo với các chức năng cơ bản là: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
thông qua Chiến lƣợc phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 và Phƣơng hƣớng, nhiệm vụ phát triển đất nƣớc 5 năm 2011 – 2015, trong đó mục tiêu tổng quát của Chiến lƣợc là: “Phấn đấu đến năm 2020 nƣớc ta cơ bản trở thành nƣớc công nghiệp theo hƣớng hiện đại; chính trị – xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cƣơng, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đƣợc nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đƣợc giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trƣờng quốc tế tiếp tục đƣợc nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.” Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hƣớng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế QLGD, phát triển ĐNGV và cán bộ quản lý là khâu then chốt”.
Nghị quyết số 29 – NQ/TW Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa XI về “đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN” đã đƣa ra giải pháp phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo là: “Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo,… Giảng viên cao đẳng, đại học có trình độ từ thạc sĩ trở lên và phải đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng nghiệp vụ sƣ phạm. Cán bộ quản lý giáo dục các cấp phải qua đào tạo về nghiệp vụ quản lý”. Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Chiến lƣợc phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 và Phƣơng hƣớng, nhiệm vụ phát triển đất nƣớc 5 năm 2011 – 2015, Chính phủ đã có Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 24/4/2012 ban hành Chƣơng trình hành động của Chính phủ.
Bộ giáo dục và Đào tạo cũng đã có quyết định số 1666/QĐ-BGDĐT ngày 04/5/2012 ban hành Chƣơng trình hành động của Bộ giai đoạn 2011 – 2016 với mục tiêu chung là: Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hƣớng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; Nâng cao dân trí, bồi dƣỡng nhân tài, phát triển nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lƣợng cao, đáp ứng nhu cầu xã hội; nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tƣởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội; phát triển quy mô, cơ cấu giáo dục hợp lý, hài hòa, đảm bảo công bằng xã hội tƣơng ứng với các điều kiện đảm bảo chất lƣợng giáo dục và cơ hội học tập suốt đời cho mỗi ngƣời dân.
Xuất phát từ thực tế và yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đối với đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực trình độ cao cho ngành, trong thời gian 10 năm qua, Bộ Công thƣơng đã quy hoạch và nâng cấp thành công 8 trƣờng cao đẳng trở thành trƣờng đại học. Đây là 08 cơ sở đào tạo đại học trực thuộc Bộ Công thƣơng, gồm có: ĐHCN thành phố Hồ Chí Minh, ĐHCN Hà Nội, Đại học Kinh tế kỹ thuật Công nghiệp, ĐHCN Quảng Ninh, ĐHCN thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh, ĐHCN Việt – Hung, Đại học Sao đỏ, ĐHCN Việt Trì. Là một bộ có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân, Bộ Công
thƣơng đang đứng trƣớc những nhiệm vụ to lớn và rất khó khăn, đi đầu trong việc nâng cao năng suất lao động, thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lƣợc của Đảng và Nhà nƣớc. Muốn vậy, ngành Công thƣơng phải có đƣợc một đội ngũ nhân lực đông đảo, có trình độ cao, giỏi về thực hành. Nhiệm vụ này thuộc về các trƣờng đào tạo trực thuộc Bộ, trong đó nòng cốt các trƣờng đại học. Tuy nhiên, do những đặc điểm riêng mang tính đặc thù, các trƣờng đại học trực thuộc Bộ Công thƣơng đang đứng trƣớc nhiều khó khăn thách thức, đặc biệt là ĐNGV còn thiếu và yếu so với yêu cầu: tỷ lệ giáo sƣ, phó giáo sƣ, tiến sĩ trên tổng số giảng viên còn thấp; thiếu giảng viên đầu đàn và các chuyên gia đầu ngành; hoạt động NCKH và HTQT chƣa đồng bộ, hiệu quả thấp; sự đổi mới công tác quản lý nhà trƣờng diễn ra còn chậm, chƣa theo kịp tình hình mới. Việc đánh giá đúng thực trạng các trƣờng đại học trực thuộc Bộ Công thƣơng để từ đó đƣa ra các giải pháp quản lý ĐNGV đáp ứng yêu cầu mới là rất cần thiết và cấp bách.
Trở thành trƣờng đại học khi toàn bộ hệ thống GD&ĐT, đặc biệt là GDĐH bƣớc vào giai đoạn đổi mới căn bản và toàn diện cùng với tính đặc thù riêng khiến cho các trƣờng đại học trực thuộc Bộ Công thƣơng đang đứng trƣớc những thách thức to lớn. Để đào tạo có chất lƣợng theo định hƣớng nghề nghiệp ứng dụng, trong bối cảnh hiện nay các trƣờng đại học này cần phải tìm ra giải pháp để củng cố và phát triển các nguồn lực nói chung, phát triển ĐNGV nói riêng thì sau một khoảng thời gian nhất định mới có thể xây dựng đƣợc ĐNGV có đủ năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của mình. Đó chính là nhu cầu khách quan và chủ quan, nhu cầu bên trong và bên ngoài đối với các trƣờng đại học trực thuộc Bộ Công thƣơng trong bối cảnh hiện nay. Việc nghiên cứu đƣa ra các giải pháp quản lý ĐNGV của các trƣờng đại học này là cần thiết cho bản thân các trƣờng, cho Bộ Công thƣơng, cho đất nƣớc và đóng góp vào kinh nghiệm chung của ngành