LA20.119_Phẫu thuật nội soi ngách trán với hệ thống hướng dẫn hình ảnh định vị ba chiều
Phẫu thuật nội soi mũi xoang bắt đầu phát triển vào những năm thập niên 70 của thế kỷ hai mƣơi, nhờ vào sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong các lĩnh vực chụp cắt lớp, ống nội soi quang học, nguồn sáng,… Ngày nay, phẫu thuật nội soi mũi xoang đƣợc lựa chọn thay thế cho các phẫu thuật xoang kinh điển trƣớc đây với nhiều ƣu điểm nhƣ: ít xâm lấn, ít gây phù nề sau mổ, không để lại sẹo, phù hợp với các đặc điểm về sinh lý và giải phẫu của mũi xoang. Tuy vậy phẫu thuật nội soi mũi xoang vẫn còn những hạn chế: là tầm nhìn bị giới hạn: phạm vi phẫu trƣờng quan sát đƣợc là từ đầu ống soi trở ra trƣớc, là hình ảnh hai chiều, không có đƣợc một phẫu trƣờng toàn diện và có chiều sâu, có thể xảy ra biến chứng nguy hiểm nhƣ tổn thƣơng sàn sọ, ổ mắt, thần kinh thị, động mạch cảnh nếu phẫu thuật viên không nắm rõ cấu trúc giải phẫu hay không đƣợc đào tạo bài bản. Sự ra đời của hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh định vị ba chiều (IGNS hay IGS), và bắt đầu đƣợc sử dụng trong lĩnh vực phẫu thuật nội soi mũi xoang tại Hoa kỳ vào những năm cuối của thập niên 1990 và những năm đầu của thập niên 2000[74], đã giúp khắc phục đƣợc những hạn chế của phẫu thuật nội soi mũi xoang, làm cho cuộc mổ trở nên an toàn và triệt để hơn: giúp định vị và tránh làm tổn thƣơng các cấu trúc giải phẫu quan trọng nhƣ xƣơng giấy, ổ mắt, sàn sọ, thần kinh thị, động mạch cảnh trong,… [19], [43], [63], [78] Trong phẫu thuật nội soi mũi xoang, phẫu thuật ngách trán đƣợc xem là khó do cấu trúc ngách trán tƣơng đối hẹp, giải phẫu phức tạp, góc nhìn qua nội soi bị hạn chế, dễ gây tổn thƣơng các cấu trúc lân cận nhƣ động mạch sàng trƣớc, ổ mắt và hố não trƣớc[31], [48]. Hệ thống IGS rất hữu ích trong phẫu thuật xoang trán: giúp khảo sát chi tiết cấu trúc giải phẫu ngách trán trƣớc mổ, giúp định vị chính xác trong lúc mổ, và tránh làm tổn thƣơng các cấu trúc lân cận nhƣ xƣơng giấy, ổ mắt, sàn sọ [17], [32], [54], [64], [85].
Tại Việt nam, phẫu thuật nội soi mũi xoang ngày càng phát triển rộng rãi, tuy nhiên, phẫu thuật nội soi ngách trán vẫn còn một số hạn chế, nhất là phẫu tích các tế bào ngách trán cũng nhƣ các trƣờng hợp mổ lại, do mức độ khó của phẫu thuật và các tai biến, biến chứng có thể xảy ra. Các tế bào ngách trán rất khó nhận định đƣợc trong lúc mổ nếu không có IGS; các tế bào trên ổ mắt, tế bào K3 khi nhìn từ bên dƣới qua nội soi rất khó phân biệt và có thể nhầm lẫn là đƣờng dẫn lƣu xoang trán, và điều này cũng đƣợc đề cập trong y văn bởi các phẫu thuật viên mũi xoang nổi tiếng nhƣ Kuhn, Vaugahan, Senior,.. [15], [90]; Mô sẹo hay xƣơng bít tắc hoàn toàn ngách trán kết hợp với tình trạng mất mốc giải phẫu khi mổ lại làm cho việc tìm ra đƣờng dẫn lƣu xoang trán rất khó khăn và nguy hiểm, dễ tổn thƣơng mảnh sàng, sàn sọ, có khi phải ngƣng phẫu thuật để bảo đảm an toàn cho bệnh nhân. Hệ thống IGS sẽ giúp khắc phục những khó khăn này. Kể từ khi hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh IGS đƣợc đƣa vào sử dụng tại bệnh viện Tai Mũi họng TPHCM vào năm 2007, chúng tôi từng bƣớc tiến hành các phẫu thuật khó và phức tạp, trong đó có phẫu thuật nội soi ngách trán. Với mục đích góp phần xây dựng quy trình phẫu thuật nội soi ngách trán một cách an toàn và hiệu quả khi sử dụng IGS, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Phẫu thuật nội soi ngách trán với hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh định vị ba chiều.”
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Mục tiêu tổng quát:
Nghiên cứu ứng dụng hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh định vị ba chiều IGS trong phẫu thuật nội soi ngách trán.
2. Mục tiêu chuyên biệt
Mô tả đặc điểm lâm sàng, nội soi, CT scan; và xác định tỉ lệ Agger nasi, các loại tế bào ngách trán của các trƣờng hợp viêm xoang trán mạn tính trong mẫu nghiên cứu.
Mô tả phẫu thuật nội soi ngách trán với hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh định vị ba chiều IGS, và đánh giá kết quả sự thông thoáng của ngách trán sau mổ.
Đề xuất quy trình phẫu thuật nội soi ngách trán có sử dụng hệ thống hƣớng dẫn hình ảnh định vị ba chiều IGS