ThS07.001_Phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí công an nhân dân
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu đề tài
Luận giải, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân. Trên cơ sở đó, đề xuất một số quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân.
* Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
– Làm rõ cơ sở lý luận phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
– Phân tích thực trạng, vai trò, nội dung, cơ cấu và những nhân tố ảnh hưởng tới phát triển phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân. Làm rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, những vấn đề đặt ra từ thực trạng.
– Đề xuất những quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu để phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
* Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát nguồn nhân lực công tác tại các cơ quan báo chí hoạt động có tính chất chuyên nghiệp trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân; với các loại hình truyền thông đa phương tiện như: báo in, báo nói (phát thanh), báo hình (truyền hình), báo điện tử (báo mạng)… Không khảo sát các tạp chí, bản tin nghiệp vụ lưu hành nội bộ trong ngành công an, vì đây là loại hình báo chí không chuyên nghiệp, nhân lực làm tạp chí thường kiêm nhiệm thêm các chuyên môn khác; nội dung trong các tạp chí hoặc bản tin đó không phổ biến rộng rãi đến công chúng là các tầng lớp nhân dân.
* Thời gian khảo sát: từ năm 2000 đến nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
– Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người, tham khảo các báo cáo chuyên đề xây dựng lực lượng CAND và bài viết của các học giả và các công trình khoa học có liên quan.
– Phương pháp nghiên cứu: Luận văn vận dụng phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng, các phương pháp của Kinh tế chính trị, trong đó coi trọng phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Đồng thời vận dụng tổng hợp các phương pháp như: hồi cứu tư liệu, phân tích – tổng hợp, lôgíc – lịch sử, tổng kết thực tiễn, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế, chuyên gia…
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân đáp ứng cầu mới. Qua đó làm phong phú lý luận nghiên cứu về vấn đề phát triển nguồn nhân lực. Luận văn cũng góp phần xác định chủ trương, chính sách để nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân phát huy thế mạnh và tạo ra hiệu quả rõ nét hơn trong hệ thống báo chí Cách mạng Việt Nam cũng như trong lực lượng CAND.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm: phần mở đầu, phần nội dung 3 chương, (8 tiết), phần kết luận.
Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Năm 2006, lần đầu tiên thuật ngữ “nguồn nhân lực chất lượng cao” được sử dụng trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. 5 năm sau, Đại hội XI xác định, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, là một trong ba khâu đột phá chiến lược để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong trình hình mới. [15, tr.106]
Phát triển nguồn nhân lực được coi là khâu quan trọng nhất trong ba khâu đột phá, có vai trò chi phối việc thực hiện các đột phá khác, vì chính con người tạo ra và thực thi thể chế, xây dựng bộ máy, quy hoạch và phát triển kết cấu hạ tầng. Đồng thời, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đang đặt ra yêu cầu rất cao về chất lượng con người trong Công an cũng như Quân đội – những lực lượng vững chắc bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ Việt Nam XHCN.
Ra đời từ những ngày đầu cách mạng, lực lượng Công an Nhân dân Việt Nam đã có những đóng góp xứng đáng và đang tiếp tục khẳng định vai trò, vị thế quan trọng trong quá trình bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Là một thành tố quan trọng nằm trong lực lượng CAND nói chung, hệ thống báo chí CAND cũng ra đời rất, từ ngày xuất bản số đầu tiên của tờ Công an mới (1-11-1946), tiền thân của Báo Công an Nhân dân ngày nay. Trong suốt chặng đường xây dựng và trưởng thành 67 năm qua, báo chí CAND luôn luôn khẳng định là cơ quan ngôn luận, vũ khí sắc bén của lực lượng Công an Nhân dân Việt Nam trên mặt trận tư tưởng. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, báo chí CAND tiếp tục có những thay đổi phù hợp về hình thức và nội dung tuyên truyền trong từng giai đoạn, từ Báo Công an mới, Bạn dân đến tờ Nội san Rèn luyện, Tập san Công an Nhân dân và sau cùng đổi tên thành Báo Công an Nhân dân từ năm 1965 và giữ nguyên tên gọi này cho đến ngày nay. Từ chỗ chỉ có 1 sản phẩm báo chí chiếm vai trò chủ lưu là Báo Công an Nhân dân và chỉ lưu hành nội bộ ngành công an, đến năm 1987 hệ thống báo chí CAND bắt đầu một giai đoạn mới khi một số tờ báo ngành công an (như: Báo Công an Nhân dân, Báo An ninh Thủ đô) bắt đầu được phát hành công khai và bán rộng rãi đến nhiều tầng lớp nhân dân. Kể từ đây, hệ thống báo chí CAND khẳng định rõ nét hơn những đóng góp tích cực và hiệu quả trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và xây dựng lực lượng công an trong sạch, vững mạnh.
Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND từ những ngày đầu sơ khai là những cán bộ công an có kiêm nhiệm làm công tác tuyên truyền; đội ngũ chưa được đào tạo bài bản về nghiệp vụ, pháp luật và cả những kỹ năng truyền thông- báo chí. Trải qua quá trình phát triển, hệ thống báo chí CAND ngày càng nở rộ với nhiều đơn vị, cho ra đời nhiều ấn phẩm, nhiều loại hình báo chí (báo in, báo điện tử, báo nói, báo hình), với số lượng công chúng tiếp cận ngày càng đông đảo. Theo đó, quy mô nguồn nhân lực công tác trong hệ thống báo chí CAND không ngừng tăng lên về số lượng, cơ cấu ngày càng phong phú, đa dạng và từng bước được hoàn thiện. Yêu cầu tăng cường sức mạnh tổng hợp của hệ thống báo chí CAND trong tình hình mới ngày càng tăng, trong khi thị trường lao động chuyên ngành báo chí lại đáp ứng có hạn, có đơn vị báo chí chưa đáp ứng kịp đà phát triển. Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND đứng trước những điểm nghẽn về đào tạo, đãi ngộ và cơ chế sử dụng lao động ngay trong lực lượng CAND. Cán bộ có nghiệp vụ báo chí thì có thể chưa nắm vững pháp luật, nghiệp vụ công an; còn cán bộ có nghiệp vụ công an thì chưa được đào tạo hoặc am hiểu kỹ về chuyên ngành báo chí – truyền thông. Thêm vào đó, đội ngũ cán bộ, nhân viên công tác trong hệ thống báo chí CAND hiện nay làm việc giữa bối cảnh mặt trận văn hóa- tư tưởng diễn biến ngày càng phức tạp, không chỉ có diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, mà còn có cả hiện tượng “tự diễn biến, tự chuyển hóa” ngay trong nội bộ, cần phải được đấu tranh phòng ngừa. Hơn nữa, tình hình thế giới cũng luôn biến chuyển mau lẹ, khó lường trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, bùng nổ công nghệ thông tin, bùng nổ truyền thông đa phương tiện.
Tình hình mới đặt ra nhiều bài toán cần có lời giải đáp về phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND. Nói cách khác, trong công tác xây dựng lực lượng CAND, các đơn vị báo chí CAND cần phải giải những bài toán để các cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức được đào tạo, bồi dưỡng chính quy và chuẩn hóa, trau dồi đạo đức nghề nghiệp, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, pháp luật và khoa học – kỹ thuật, xứng đáng là người chiến sĩ của lực lượng Công an Nhân dân trên mặt trận tư tưởng- văn hóa, là cầu nối giữa lực lượng công an với nhân dân; góp phần tích cực vào công cuộc bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn xã hội, đấu tranh phòng ngừa các loại tội phạm và tệ nạn xã hội.
Vì lẽ đó, tác giả chọn đề tài: “Phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân” làm Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế Chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Vấn đề phát triển nguồn nhân lực nói chung đã có nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Công trình “Phát triển văn hoá con người và nguồn nhân lực thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” do GS-VS Phạm Minh Hạc (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2007 là một công trình nghiên cứu sâu sắc về con người trên những giác độ tiếp cận độc đáo [21]. Các nhà khoa học đã phân tích sự thống nhất biện chứng giữa văn hoá, con người và nguồn nhân lực. Phát triển văn hoá đi đến hệ giá trị nhân cách rồi đi đến phát triển nguồn nhân lực (phát triển thể lực, tâm lực và trí lực). Phát triển văn hoá, con người và nguồn nhân lực phải đặt trong một tổng thể không tách rời nhau, chúng gắn kết với nhau trong một thể thống nhất. Hệ thống giá trị vật chất và tinh thần qua giáo dục trở lại với con người, được con người kế thừa và phát triển trở thành sức mạnh ở con người trong lao động và trở thành vốn người (Human capital). Nguồn lực con người tạo ra giá trị mới, đáp ứng nhu cầu phát triển của từng người, nhóm người và cả xã hội. Các tác giả cũng đã đi sâu phân tích và cho rằng: chất lượng nguồn nhân lực hay nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực với những con người lao động có tri thức tốt, có kĩ năng cao và có tính nhân văn.
Công trình Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI, của PGS.TS Trần Khánh Đức, Nxb Giáo dục Việt Nam năm 2010 đã nghiên cứu vai trò đặc biệt quan trọng của giáo dục và đào tạo trong phát triển con người nói chung và nguồn nhân lực đất nước nói riêng [19]. Tác giả đã trình bày hệ thống sâu sắc về nhiều vấn đề trong đó có quá trình phát triển các chính sách quốc gia về giáo dục và phát triển nguồn nhân lực. Tác giả đã đưa ra những khái niệm và thuật ngữ cơ bản về nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực cùng những tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực của các nước trên thế giới. Sự sâu sắc của công trình có liên quan đến đề tài luận văn chính là hệ thống tiếp cận mới, hiện đại và độc đáo về nguồn nhân lực của đất nước trong bối cảnh cách mạng khoa học và công nghệ. Đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong việc xác định phải đổi mới, cải cách giáo dục đào tạo làm khâu đột phá để phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất nước trong đó có lĩnh vực quân sự, xây dựng, phát huy nhân tố con người trong QĐNDVN.
Bài “Nguồn nhân lực Việt Nam: vấn đề đào tạo, thu hút và sử dụng” của tác giả Nguyễn Văn Tài, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) trong Hội thảo khoa học về Phát triển nguồn nhân lực – KX – 05 – 11 tháng 3 năm 2003 đã đi sâu phân tích vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế – xã hội trong bối cảnh nước ta gia nhập WTO [30]. Tác giả đã đặc biệt quan tâm tới vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam để đủ sức cạnh tranh trên thị trường sức lao động thế giới. Theo tác giả, đào tạo phải gắn với sử dụng và tập trung vào những ngành, dịch vụ đang thiếu hụt nguồn nhân lực.Việc đào tạo, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam không chỉ là biện pháp mang tính kỹ thuật mà còn là một nghệ thuật. Nó đòi hỏi phải hiểu biết thấu đáo về đặc điểm dân cư, truyền thống dân tộc, những đặc điểm tâm lý con người, những ưu điểm và nhược điểm của lực lượng lao động… để từ đó mới có thể đề ra những chính sách, những giải pháp hợp lý phát huy nguồn nhân lực đạt hiệu quả cao nhất. Cũng trong cuộc Hội thảo về Phát triển nguồn nhân lực – KX – 05 – 11 tháng 3 năm 2003, bài viết ” Đi vào thế kỷ XXI phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của tác giả Phạm Minh Hạc đã luận giải rất sâu sắc vai trò của nguồn nhân lực trong thế kỉ XXI. Tác giả cho rằng, trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay thì nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực sẽ là yếu tố quyết định đến sự thành công trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam. Song hiện nay nguồn nhân lực nước ta đang ở trình độ của các nước đã phát triển cao trong thời kỳ cách mạnh công nghiệp lần thứ nhất do vậy không đáp ứng được yêu cầu của thời đại công nghệ thông tin, kinh tế tri thức hiện nay. Vấn đề cấp bách đặt ra là phải đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực để chuyển từ một nền kinh tế nông nghiệp sang một nền kinh tế công nghiệp trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Chúng ta phải chuẩn bị một nguồn nhân lực chất lượng cao hướng đến nền kinh tế tri thức. Do vậy, chăm lo, phát huy, bồi dưỡng nguồn lực con người là nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp giáo dục nước ta trong những năm tới.
Trong lĩnh vực an ninh quốc phòng, thời gian qua đã có một số nhà khoa học bước đầu tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề hiện đại hóa quân đội và công an cũng như phát triển nguồn nhân lực phục vụ quân đội và công an.
Đề tài KHXH. 07 – 06: “Hiện đại hóa quân đội và công an với đẩy mạnh CNH, HĐH” đã tập trung vào nghiên cứu làm rõ tính tất yếu và nội dung của vấn đề hiện đại hóa quân đội và công an trong tình hình mới. Đề tài đưa ra kiến nghị; Nhà nước phải đầu tư trực tiếp và huy động sức mạnh tổng hợp của quốc gia để phát huy nhân tố con người trong xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Luận án tiến sĩ Kinh tế của tác giả Đỗ Văn Dạo về “Phát triển nguồn nhân lực quân sự chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa Quân đội Nhân dân Việt Nam” cũng là một công trình nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực, trong đó xác định rõ được tiêu chí đánh giá và nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa quân đội hiện nay [3]. Luận án đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm phát triển lực lượng này đến năm 2020.
Trong lĩnh vực quản lý báo chí, đề tài phát triển nguồn nhân lực cũng là vấn đề mới. Từ năm 2010, Chính phủ giao Bộ Thông tin- Truyền thông dự thảo Quy hoạch phát triển nhân lực báo chí, phát thanh, truyền hình.
Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổ chức nhiều hội thảo xây dựng Dự thảo Quy hoạch phát triển nhân lực báo chí, phát thanh truyền hình đến năm 2020. Trong quy hoạch nhân lực báo chí quan trọng là phải bảo đảm được xu hướng phát triển của hệ thống báo chí. Đào tạo nhân lực báo chí có sự khác biệt, không chỉ là chỉ đào tạo thuần túy chuyên môn về nghiệp vụ báo chí mà báo chí phản ánh toàn diện mọi mặt đời sống nên kiến thức về chuyên ngành là hết sức quan trọng. Nhân lực báo chí là nhân lực để tác nghiệp, để hình thành những sản phẩm báo chí, tác phẩm báo chí chứ không phải là người làm nghiên cứu nên phải có yếu tố, tố chất để đáp ứng được yêu cầu này. Nhân lực báo chí còn là những người làm nhiệm vụ tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, những nhà chính trị nên phải hội tụ đầy đủ các phẩm chất về chính trị, năng lực chuyên môn, đạo đức. Tất cả những cái đó cần phải tính toán trong phát triển nguồn nhân lực”. Theo đó, quy hoạch nhân lực báo chí cần phải tính tới cả xu hướng trong hội tụ thông tin, khi một cơ quan báo chí có cả báo in, PT-TH, báo điện tử sẽ có nhu cầu nhân lực khác với 4 đơn vị báo chí riêng rẽ. Sự hội tụ đó không chỉ diễn ra trong 1 tòa soạn mà còn diễn ra trong 1 cá nhân nhà báo. Quy hoạch cũng phải tính đến những vấn đề sâu như vậy để đưa ra những dự báo phù hợp. Bất cập trong công tác đào tạo nhân lực báo chí hiện nay là hầu hết các giáo viên không hoặc ít hành nghề báo trong thực tế. Đó chính là lý do sinh viên ra trường không thể tác nghiệp được. Bởi vậy, những mâu thuẫn đó cần được giải quyết bằng các quan điểm quy hoạch phát triển nhân lực báo chí, phát thanh truyền hình.
Nhìn lại phần tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới luận văn, bản thân tôi nhận thấy, các công trình nghiên cứu thể hiện rõ trong việc đặt vấn đề, trong cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu mang tính hệ thống trên cơ sở những phư¬ơng pháp liên ngành, so sánh,… Bằng cách làm trên, các công trình đã tìm ra và lý giải một cách thuyết phục vai trò đặc biệt của nhân tố con người trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và quốc phòng an ninh. Mặt khác, các công trình cũng đưa ra những dự báo có cơ sở khoa học về tương lai phát triển nguồn nhân lực và những lợi ích và tính hiệu quả mà chiến lược này mang lại cho sự phát triển của đất nước nói chung và hệ thống báo chí nói riêng, mà trong đó hệ thống báo chí Công an Nhân dân là một thành tố.
Mặc dù, tính hệ thống của các công trình trên là tương đối cao, có công trình nghiên cứu một cách tổng thể về phát triển nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao, có công trình đi sâu vào phân tích phát triển nguồn nhân lực ở cấp ngành. Tuy nhiên, do những đặc thù riêng biệt, những mục đích nghiên cứu khác nhau, nên cho tới nay chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân với tư cách là một công trình khoa học độc lập.
Do đó, đề tài luận văn này (tập trung nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân) tuy có kế thừa kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học đi trước, song không trùng lặp với bất kỳ một công trình khoa học nào đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu đề tài
Luận giải, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân. Trên cơ sở đó, đề xuất một số quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân.
* Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
– Làm rõ cơ sở lý luận phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
– Phân tích thực trạng, vai trò, nội dung, cơ cấu và những nhân tố ảnh hưởng tới phát triển phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân. Làm rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, những vấn đề đặt ra từ thực trạng.
– Đề xuất những quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu để phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
* Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát nguồn nhân lực công tác tại các cơ quan báo chí hoạt động có tính chất chuyên nghiệp trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân; với các loại hình truyền thông đa phương tiện như: báo in, báo nói (phát thanh), báo hình (truyền hình), báo điện tử (báo mạng)… Không khảo sát các tạp chí, bản tin nghiệp vụ lưu hành nội bộ trong ngành công an, vì đây là loại hình báo chí không chuyên nghiệp, nhân lực làm tạp chí thường kiêm nhiệm thêm các chuyên môn khác; nội dung trong các tạp chí hoặc bản tin đó không phổ biến rộng rãi đến công chúng là các tầng lớp nhân dân.
* Thời gian khảo sát: từ năm 2000 đến nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
– Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người, tham khảo các báo cáo chuyên đề xây dựng lực lượng CAND và bài viết của các học giả và các công trình khoa học có liên quan.
– Phương pháp nghiên cứu: Luận văn vận dụng phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng, các phương pháp của Kinh tế chính trị, trong đó coi trọng phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Đồng thời vận dụng tổng hợp các phương pháp như: hồi cứu tư liệu, phân tích – tổng hợp, lôgíc – lịch sử, tổng kết thực tiễn, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế, chuyên gia…
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân đáp ứng cầu mới. Qua đó làm phong phú lý luận nghiên cứu về vấn đề phát triển nguồn nhân lực. Luận văn cũng góp phần xác định chủ trương, chính sách để nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân phát huy thế mạnh và tạo ra hiệu quả rõ nét hơn trong hệ thống báo chí Cách mạng Việt Nam cũng như trong lực lượng CAND.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm: phần mở đầu, phần nội dung 3 chương, (8 tiết), phần kết luận.Chương 1
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG HỆ THỐNG BÁO CHÍ
CÔNG AN NHÂN DÂN – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM
1.1. Những vấn đề lý luận chung về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Nhân lực là sức lực con người, nằm trong mỗi con người và làm cho con người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của cơ thể con người và đến một mức độ nào đó, con người đủ điều kiện tham gia vào quá trình lao động- con người có sức lao động.
Thuật ngữ nguồn nhân lực xuất hiện vào thập niên 80 của thế kỷ XX khi mà có sự thay đổi căn bản về phương thức quản lý sử dụng con người trong kinh tế lao động, thể hiện một sự nhìn nhận lại vai trò yếu tố con người trong quá trình phát triển. Nội hàm nguồn nhân lực không chỉ bao hàm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, cũng không chỉ bao hàm về mặt chất lượng, mà còn chứa đựng các hàm ý rộng hơn. Có thể nói sự xuất hiện thuật ngữ “ nguồn nhân lực” là một trong những biểu hiện cụ thể cho sự thắng thế của phương thức quản lý mới với phương thức quản lý cũ trong việc sử dụng nguồn lực con người. Có khá nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về nguồn nhân lực.
C.Mác quan niệm: đó là “những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông và nắm nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn” [26, tr.474].
Lênin đã từng đặc biệt coi trọng của vai trò của con người trong hệ thống sản xuất vật chất của xã hội, người coi đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lênin nhấn mạnh: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân là người lao động” [24, tr.430].
Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, con người được coi là một phương tiên hữu hiệu cho việc đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững, thậm chí con người được coi là một nguồn vốn đặc biệt cho sự phát triển – vốn nhân lực. Về phương diện này, Liên Hiệp Quốc cho rằng, nguồn lực con người là tất cả những kiến thức, kỹ năng và năng lực con người có quan hệ tới sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ngày nay, nguồn nhân lực còn bao hàm khía cạnh về số lượng, không chỉ những người trong độ tuổi, mà cả những người ngoài độ tuổi.
Dưới góc độ giáo dục và đào tạo, nguồn nhân lực được xác định là những người được đào tạo ở các bậc trình độ khác nhau, đáp ứng nhu cầu hoạt động nghề nghiệp đem lại thu nhập cho bản thân và cộng đồng. Đó là những con người có đủ những điều kiện về sức khoẻ, bằng cấp, trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao, có kinh nghiệm, kỹ năng nghề nghiệp, tham gia trực tiếp vào quá trình hoạt động thực tiễn đem lại hiệu suất lao động cao
Ở nước ta, khái niệm nguồn nhân lực được sử dụng rộng rãi từ khi Đảng ta bắt đầu công cuộc Đổi mới sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986. Điều này được thể hiện rõ trong các công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực. Theo Giáo sư – Viện sĩ Phạm Minh Hạc, nguồn lực con người được thể hiện thông qua số lượng dân cư, chất lượng con người (bao gồm thể lực, trí lực và năng lực phẩm chất). Như vậy, nguồn nhân lực không chỉ bao hàm chất lượng nguồn nhân lực hiện tại mà còn bao hàm cả nguồn cung cấp nhân lực trong tương lai [20].
Về cơ bản, quan niệm quốc tế và trong nước đều thống nhất với nhau về bản chất, nội dung và các giới hạn xác định nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Nguồn lực đó được xem xét ở hai khía cạnh. Trước hết, với ý nghĩa là nguồn gốc, là nơi phát sinh ra nguồn lực. Nguồn nhân lực nằm ngay trong bản thân con người, đó cũng là sự khác nhau cơ bản giữa nguồn lực con người với các nguồn lực khác. Thứ hai, nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể nguồn lực của từng cá nhân con người. Với tư cách là một nguồn lực của quá trình phát triển, nguồn nhân lực là nguồn lực con người có khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, được biểu hiện ra là số lượng và chất lượng nhất định tại một thời điểm nhất định.
Từ những phân tích trên, ở dạng khái quát nhất, có thể hiểu nguồn nhân lực là một phạm trù dùng để chỉ sức mạnh tiềm ẩn trong dân cư, khả năng huy động tham gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội trong hiện tại cũng như trong tương lai. Sức mạnh và khả năng đó được thể hiện thông qua số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số, nhất là số lượng và chất lượng con người có đủ điều kiện tham gia vào nền sản xuất xã hội.
Từ đó tác giả luận văn hiểu rằng: Nguồn nhân lực là nguồn lực con người, là tiềm năng lao động của mỗi con người trong một thời gian nhất định. Nguồn nhân lực là động lực nội sinh quan trọng nhất, được nghiên cứu trên giác độ số lượng và chất lượng, trong đó trí tuệ, thể lực và phẩm chất đạo đức, kỹ năng nghề nghiệp và sự tương tác giữa các cá nhân trong cộng đồng, là tổng thể các tiềm năng lao động của một ngành, một tổ chức. Nguồn nhân lực là toàn bộ sức lao động của những người trong độ tuổi lao động có khả năng hoạt động trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh và đối ngoại. Cần phân biệt ranh giới và không nên đồng nhất nguồn nhân lực với lực lượng lao động. Cần quan tâm nghiên cứu nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế – xã hội và quốc phòng – an ninh.
Nguồn nhân lực chưa phải là động lực trực tiếp cho sự phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực với chất lượng thấp, số lượng đông trong nhiều trường hợp lại trở thành lực cản đối với sự phát triển. Vì vậy, ngày nay người ta quan tâm nhiều đến sự hình thành hoặc đầu tư để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Khi nghiên cứu về nguồn nhân lực, chúng ta cũng có thể thấy rằng, vốn nhân lực là yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội ở mỗi quốc gia cũng như cơ quan- đơn vị, doanh nghiệp. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực, đặc biệt phải phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Vốn nhân lực là tập hợp các kiến thức, khả năng, kỹ năng mà con người tích lũy được trong quá trình đào tạo hoặc làm việc.
1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực
Cho đến nay, do xuất phát từ cách tiếp cận khác nhau nên khái niệm phát triển nguồn nhân lực không giống nhau.
Theo Tổ chức Văn hóa – Giáo dục Liên Hiệp Quốc UNESCO, phát triển nguồn nhân lực là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn phù hợp trong mối quan hệ với sự phát triển của đất nước. Quan niệm này gắn với sự phát triển sản xuất; do đó, phát triển nguồn nhân lực giới hạn trong phạm vi phát triển kỹ năng lao động và thích ứng với yêu cầu về việc làm.
Còn theo Tổ chức Lao động Quốc tế – ILO, phát triển nguồn nhân lực là sự chiếm lĩnh trình độ lành nghề và phát triển năng lực, sử dụng năng lực đó của con người để tiến tới có được việc làm hiệu quả cũng như thỏa mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân; hay, phát triển nguồn nhân lực là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nền kinh tế xã hội.
Với cách tiếp cận trên, phát triển nguồn nhân lực là quá trình phát triển thể lực, trí lực, khả năng nhận thức và tiếp cận kiến thức, tay nghề, tính năng động xã hội và sức sáng tạo của con người; nền văn hóa, truyền thống lịch sử… Do đó, phát triển nguồn nhân lực đồng nghĩa với quá trình nâng cao năng lực xã hội và tính năng động xã hội của nguồn nhân lực về mọi mặt: thể lực, trí lực, nhân cách, đồng thời phân bố, sử dụng, phát huy có hiệu quả nhất năng lực đó, để phát triển đất nước.
Với góc độ khoa học quản trị nhân lực- một cách hình dung cụ thể thì- phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hoạt động học tập có tổ chức, được tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định, để nhằm tạo ra sự thay đổi hành vi nghề nghiệp của người lao động. Như vậy, xét về nội dung, phát triển nguồn nhân lực theo góc độ này bao gồm 3 loại hoạt động là: giáo dục, đào tạo và phát triển. Theo đó, thứ nhất: Giáo dục được hiểu là các hoạt động học tập để chuẩn bị cho con người bước vào nghề nghiệp thích hợp hơn trong tương lai. Thứ hai: Đào tạo (hay còn gọi là đào tạo kỹ năng) được hiểu như các hoạt động học tập, nhằm giúp cho người lao động có thể thực hiện hiệu quả hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. Đó chính là quá trình học tập làm cho người lao động nắm vững hơn về công việc của mình, là những hoạt động học tập để nâng cao trình độ, kỹ năng của người lao động để thực hiện nhiệm vụ của người lao động có hiệu quả hơn. Thứ ba: Phát triển là các hoạt động học tập vươn ra khỏi phạm vi công việc trước mắt của người lao động, nhằm mở ra cho họ những công việc mới dựa trên cơ sở những định hướng tương lai của tổ chức.
Với cách tiếp cận phát triển từ góc độ xã hội, có thể định nghĩa phát triển nguồn nhân lực là quá trình tăng lên về số lượng (quy mô) nguồn nhân lực và nâng cao về mặt chất lượng nguồn nhân lực, tạo ra cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng hợp lý. Cả ba mặt số lượng, chất lượng và cơ cấu trong phát triển nguồn nhân lực gắn chặt với nhau, trong đó, yếu tố quyết định nhất của phát triển là chất lượng nguồn nhân lực phải được nâng cao. Phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội hoặc phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ quan- đơn vị, doanh nghiệp, và đến lượt nó, phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi đòi hỏi phải phát triển nhanh nguồn nhân lực.
Với cách tiếp cận phát triển từ góc độ cá nhân, thì ở luận văn này, phát triển nguồn nhân lực được hiểu như sau: Phát triển nguồn nhân lực là quá trình đào tạo, phát triển, phát huy năng lực toàn diện của con người vì sự tiến bộ kinh tế, xã hội và sự hoàn thiện bản thân của mỗi người; hay nói một cách khác phát triển nguồn nhân lực là quá trình làm cho con người trưởng thành, có năng lực xã hội (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động xã hội cao.
1.2. Phát triển nguồn nhân lực báo chí Công an Nhân dân: Khái niệm, nội dung, vai trò và các nhân tố tác động
1.2.1. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an nhân dân
Dưới góc độ chung nhất, phát triển là sự biến đổi, gia tăng về số lượng, chất lượng và các mối quan hệ.
Tiếp cận dưới góc độ con người là mục tiêu của sự phát triển thì phát triển con người hay phát triển nguồn lực con người là mở rộng các khả năng của con người, tạo cho con người có cơ hội tiếp cận với nền giáo dục tốt hơn, các dịch vụ y tế tốt hơn, có chỗ ở tiện nghi và điều kiện làm việc tốt hơn. Hay nói cách khác, phát triển nguồn nhân lực là tăng cường năng lực, nâng cao kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm làm việc cho con người.
Đứng trên quan điểm coi con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế – xã hội, khi nói phát triển nguòn nhân lực là nói tới phát triển hoạt động đầu tư nhằm tạo ra nguồn lực xã hội với số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, đồng thời bảo đảm sự phát triển của mỗi cá nhân. Theo đó, phát triển nguồn nhân lực là những chính sách và hoạt động tạo ra sự biến đổi về số lượng, chất lượng biểu hiện ở sự hình thành và hoàn thiện từng bước về thể lực, kiến thức, kỹ năng, thái độ, nhân cách nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu hoạt động, lao động của cá nhân và sự phát triển của xã hội.
Tiếp cận phát triển nguồn nhân lực ở một ngành, một tổ chức nào đó thực chất là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu của nguồn nhân lực được thực hiện thông qua hệ thống các chính sách, biện pháp của tổ chức và cá nhân với mục đích là tạo ra lực lượng lao động phù hợp với nhu cầu, định hướng và mục tiêu phát triển của ngành, lĩnh vực, tổ chức trong từng thời kỳ. Thực chất phát triển nguồn nhân lực của một ngành, một tổ chức là hoạt đọng của chủ thể quản lý ngành, tổ chức trước yêu cầu phát triển mang tính khách quan và hướng đích giúp cho cá nhân và tập thể người lao động đạt được khả năng thích ứng cao nhất theo định hướng và mục tiêu phát triển chung của ngành trong mỗi thời kỳ.
Từ những phân tích trên đây tác giả cho rằng, phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND Việt Nam là đẩy mạnh quá trình sử dụng tổng hợp các cơ chế, chính sách, biện pháp, cách thức nhằm phát hiện, thu hút, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng hợp lý cả về cơ cấu, số lượng và chất lượng của đội ngũ những người làm báo có phẩm chất chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng, có tri thức rộng, kỹ năng nghiệp vụ báo chí tốt, nắm vững pháp luật và nghiệp vụ công an, nhằm phát huy hiệu quả cao nhất để các đơn vị báo chí CAND hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trên mặt trận văn hóa – tư tưởng.
1.2.2. Vai trò của phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Phát triển nguồn nhân lực báo chí Công an nhân dân có những vai trò chủ yếu sau:
Một là, bảo đảm xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công nhân viên, biên tập viên, phóng viên. Phát triển nhân lực báo chí Công an nhân dân không chỉ nhằm làm tăng năng lực thực thi nhiệm vụ của các báo và từng cán bộ công nhân viên, biên tập viên, kỹ thuật viên của các báo, mà còn nhằm bảo đảm cho sự phát triển hiệu quả ngày càng mạnh mẽ của các báo cả về số lượng và chất lượng. Phát triển nguồn nhân lực báo chí CAND đóng góp không nhỏ cho công tác xây dựng lực lượng công an trong sạch, vững mạnh. Trên thực tế, báo chí là một kênh thông tin, kênh kết nối giữa lực lượng công an với nhân dân và từ báo chí công tác xây dựng lực lượng công an có thêm nguồn đánh giá, kiểm chứng. Người dân có thêm thiện cảm, gần gũi với lực lượng công an, giúp đỡ lực lượng công an thực thi nhiệm vụ, cũng là nhờ có phần đóng góp của báo chí CAND. Đặc biệt, phát triển nguồn nhân lực báo chí CAND còn giúp củng cố công tác bảo vệ nội bộ; bởi, nếu mặt trận văn hóa- tư tưởng có một đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức công an sắc bén nghiệp vụ, thì có thể đấu tranh phòng ngừa tốt trước hiện tượng một số cán bộ trong lực lượng “tự diễn biến, tự chuyển hóa” hoặc thoái hóa, biến chất từ tư tưởng đến hành động.
Hai là, phát triển nguồn nhân lực báo chí Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu, nội dung chính quy hóa, chuẩn hóa đội ngũ trong lực lượng CAND. Thực tiễn hoạt động của hệ thống báo chí Công an nhân dân cho thấy, trước nhiệm vụ nặng nề của sự nghiệp báo chí cách mạng hiện nay, đòi hỏi đội ngũ người làm báo cách mạng không chỉ phải không ngừng được trau dồi về phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, kỹ năng làm việc, mà còn cần được tạo môi trường điều kiện làm việc thuận lợi, được quan tâm chăm lo và tạo điều kiện được học tập nâng cao trình độ mọi mặt; có cơ cấu, qui mô hợp lý.
Đặc biệt hiện nay đặc điểm, tính chất, quy mô của các cuộc chiến tranh tư tưởng, chiến tranh tâm lý, chiến tranh công nghệ giữa bối cảnh tình hình thế giới phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch có khả năng sử dụng các hệ thống truyền thông đa phương tiện hỗ trợ các cuộc chiến tranh tư tưởng, chiến tranh tâm lý, chiến tranh công nghệ. Chúng ta cần chuẩn bị phương án trong tương lai (nếu xảy ra, phòng ngừa thế nào) đối với hệ thống báo chí CAND nói riêng và báo chí cách mạng nói chung. Ví dụ: Điển hình trên thế giới như cách mạng nhung, cách mạng màu với sự can dự của các thế lực bên ngoài khi sử dụng mạng xã hội, đè bẹp các phương tiện báo chí truyền thống trong nước ở Gruzia, Ai Cập…Do vậy, phát triển nguồn nhân lực là nhân tố cơ bản để phát triển kinh tế báo chí trong CAND góp phần hiện đại hóa và nâng cao tiềm lực hậu cần – kỹ thuật của lực lượng CAND.
1.2.3. Nội dung phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
* Phát triển về qui mô hoàn thiện về cơ cấu nguồn nhân lực
Quy mô nguồn nhân lực, nhân tố phản ánh số lượng nguồn nhân lực hiện có tại một thời điểm nhất định, là toàn bộ những người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố vật chất và tinh thần được đưa vào lao động
Để thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền phản ánh tình hình đất nước và hoạt động của lực lượng CAND. Với đặc thù của mình, việc phát triển quy mô nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân bên cạnh việc tăng qui mô phù hợp với nhu cầu tuyên truyền của ngành CAND đã được Đảng và và nhà nước giao nhiệm vụ, việc tăng qui mô đặc biệt chú trọng tới việc tăng số lượng nhân sự theo hai hướng: hướng thứ nhất là nhân sự có bằng cấp chuyên ngành phù hợp với công tác báo chí và được đào tạo về công an, hướng thứ hai là tăng số lượng công an chuyên nghiệp được đào tạo bổ sung nghiệp vụ báo chí
Cơ cấu nguồn nhân lực có thể xem xét ở nhiều góc độ khác nhau theo trình độ chuyên môn, theo phòng ban, theo giới tính nam nữ, trực tiếp ; gián tiếp; theo nhóm tuổi.
Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân còn được cơ cấu theo biên chế CAND. Trong đó, bao gồm: cán bộ trong biên chế CAND (sĩ quan, hạ sĩ quan) và cán bộ viên chức ngoài biên chế công an làm việc theo chế độ hợp đồng lao động (3 tháng, 6 tháng, 1 năm và không xác định thời hạn). Cán bộ ngoài biên chế thường chiếm tỷ lệ lớn trong tổng tổng số cán bộ. Cán bộ trong biên chế thì được xét xếp vào bộ máy khung của các cơ quan báo chí công an, trong đội ngũ các cấp chỉ huy, tham mưu… Các cơ quan báo chí cũng có thể cơ cấu theo đặc thù chuyên môn bộ phận nghiệp vụ, như: Ban biên tập, thư ký tòa soạn, biên tập viên, họa sỹ, cán bộ kinh doanh- quảng cáo, cán bộ phát hành… trong hệ thống nhân lực báo chí CAND.
* Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực:
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện trên nhiều mặt nguồn nhân lực như phẩm chất chính trị, kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức lối sống, thể lực, kinh nghiệm công tác.v.v. Theo đó, phát triển về chất lượng nguồn nhân lực gồm các mặt cơ bản sau:
Một là, phát triển trình độ chuyên môn nghiệp vụ nguồn nhân lực. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ là kiến thức tổng hợp, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ kỹ thuật, kiến thức đặc thù cần thiết để đảm đương các chức vụ trong quản lý, kinh doanh và các hoạt động khác, là phát triển nâng cao kiến thức về kỹ thuật, kinh tế, xã hội . Trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực có được chủ yếu thông qua đào tạo
Các chỉ tiêu đánh giá trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo: Là % số lao động đã qua đào tạo so với tổng số lao động đang làm việc
∑ L đào tạo
T đào tạo = x 100
∑ L làm việc
Trong đó:
T đào tạo: là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với tổng lao động đang làm việc;
L đào tạo: là số lao động đã qua đào tạo đang làm việc
L làm việc: là số lao động đang làm việc
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá trình độ chuyên môn của lực lượng lao động mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ hoặc theo đặc thù ngành, ở đây là hệ thống báo chí CAND.
Mô hình đào tạo báo chí ở Việt Nam đáp ứng được phần lớn nguồn nhân lực cho hệ thống báo chí Cách mạng Việt Nam loại trừ nguồn nhân lực cho hệ thống báo chí Công an Nhân dân. Hiện tại, nguồn nhân lực cho hệ thống báo chi Công an Nhân dân chưa được đào tạo đầy đủ ngay trình độ chuyên môn nghiệp vụ cần thiết mà còn cần phải đào tạo bổ sung để đáp ứng. Vì vậy, hệ thống Báo chí CAND cần 2 lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ được chú trọng đào tạo và tổ chức có qui mô là: đào tạo bổ sung nghiệp vụ công an và đào tạo bổ sung nghiệp vụ báo chí.
Hai là, phát triển kỹ năng nguồn nhân lực. Có hai loại kỹ năng: Kỹ năng cứng và kỹ năng mềm. Kỹ năng cứng là kỹ năng có được do người lao động được đào tạo tại nhà trường hoặc tự tìm tòi nghiên cứu, đây là kỹ năng có tính nền tảng qua một quá trình đúc rút. Kỹ năng mềm là kỹ năng người lao động có được thông qua thực tế trong nghề nghiệp và trong cuộc sống hàng ngày.
Kỹ năng cứng tạo nền tảng, kỹ năng mềm tạo sự phát triển. Để thành công trong lao động và cuộc sống thì người lao động cần phải vận dụng linh hoạt hai loại kỹ năng này. Hệ thống báo chí CAND chú trọng tuyển dụng người đã có kỹ năng cứng, phát triển được tư duy phân tích, lý luận về báo chí. Kỹ năng mềm có thể được bồi dưỡng thêm trong thực tiễn công tác tại các tòa soạn báo.
Ba là, nâng cao trình độ nhận thức nguồn nhân lực. Nhận thức là sự phản ánh trình độ khách quan vào trong bộ óc của con người, sự phản ánh đó không phải là hành động nhất thời , máy móc mà đó là cả một quá trình của hoạt động trí tuệ. Trình độ nhận thức của người lao động là trình độ phản ánh mức độ hiểu biết về chính trị, xã hội và tính tự giác trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lực lượng báo chí Công an Nhân dân phải ý thức được nhiệm vụ và giữ vững bản lĩnh của mình trong việc góp phần tăng cường ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội, tích cực tham gia cuộc đấu tranh chống các luận điệu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch hoặc sự dao động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong chính nội bộ. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực còn cần nâng cao nhận thức về chính trị, luật pháp, ý thức trách nhiệm xã hội để đáp ứng được đặc thù công việc.
Đặc biệt, đối với mỗi một cán bộ, công nhân viên chức công tác trong hệ thống báo chí CAND thì có 2 nội dung cần hết sức chú trọng là phẩm chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp. Đã công tác trong cơ quan, đơn vị có đặc thù vũ trang thì phẩm chất chính trị là đặc biệt quan trọng. Nếu không rèn luyện và thường xuyên tu dưỡng thì không thể đứng vững trên mặt trận văn hóa – tư tưởng. Thực tiễn nghề báo có muôn vàn những cám dỗ và muôn vàn những tác động khách quan cũng như chủ quan khiến nhà báo có thể bị “che mắt”, không thể hiện hết bản chất vấn đề, không đi được đến cùng của sự việc, hiện tượng. Bởi vậy, Hội Nhà báo Việt Nam đề ra những nội dung về đạo đức nghề nghiệp cần tuân thủ. Cùng với việc rèn luyện phẩm chất chính trị thì việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp là 2 nội dung song hành cần đặc biệt quan tâm trang bị cho nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND.
Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng công tác đánh giá, bố trí, sử dụng, quy hoạch, bổ nhiệm nhân lực. Quản lý nguồn nhân lực nói chung và công tác XDLL trong CAND nói riêng là một hoạt động quản lý bao gồm nhiều nội dung: đánh giá cán bộ, tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách của Nhà nước, của ngành; bố trí, phân công điều động, thuyên chuyển công tác; đánh giá khen thưởng, kỷ luật cán bộ…v.v… Và, mỗi nội dung có một vị trí nhất định và có mối liên hệ mật thiết với nhau, trong đó đánh giá là khâu đầu tiên, là cơ sở để tiến hành các khâu tiếp sau. Đánh giá cán bộ là việc làm khó, rất nhạy cảm vì nó ảnh hưởng đến tất cả các khâu khác. Đánh giá nhân lực trong hệ thống báo chí CAND theo quy chuẩn chung của các cơ quan, đơn vị công an khác và thường theo 2 dạng: (1) đánh giá hàng năm; (2) đánh giá để nhằm mục tiêu phát triển nhân lực của tổ chức để quyết định bổ nhiệm, luân chuyển hay đào tạo cán bộ.
Đối với lãnh đạo đơn vị báo chí, công tác cán bộ nhằm: xây dựng kế hoạch và thực hiện chính sách sử dụng và phát triển nguồn nhân lực; có cơ sở để quyết định khen thưởng, kỷ luật; sắp xếp bố trí nhân sự sao cho khối lượng công việc mà mỗi cá nhân- bộ phận đảm đương phù hợp với khả năng thực tế của họ; có thông tin để xây dựng tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ phù hợp; có cơ sở đề bạt, bổ nhiệm cán bộ chỉ huy; có thông tin để xây dựng hoàn thiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp và cần thiết nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Còn đối với cán bộ (người bị đánh giá) sẽ có cái nhìn khách quan hơn về bản thân, có thể tự xác định mình thuộc phân loại cán bộ thang bậc nào và tự điều chỉnh, nhận thức động cơ đúng đắn và gắn bó hơn với công việc, định hướng kích thích sự vươn lên để thực hiện tốt hơn công việc.
Bố trí, sử dụng cán bộ phải đảm bảo nguyên tắc “đúng người, đúng việc”, và cần mạnh dạn giao công việc cũng như quyền hạn, trách nhiệm cụ thể cho cán bộ để họ có thể chủ động, sáng tạo và phát huy hết tiềm năng phục vụ cho đơn vị. Bên cạnh đó, công tác quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ không những nâng cao được chất lượng nguồn nhân lực, mà còn có ý nghĩa trong thu hút, tuyển dụng và đãi ngộ nhân tài.
Năm là, nâng cao thể chất- tinh thần cho người lao động. Nâng cao trình độ sức khỏe là nâng cao thể chất, tinh thần cho người lao động phản ánh trình độ phát triển của nguồn nhân lực, biểu hiện cơ thể cường tráng, năng lực lao động chân tay, sự dẻo dai của hoạt động tinh thần, khả năng vận động của trí tuệ, biến tư duy thành hoạt động thực tiễn. Nâng cao sức khỏe thể chất được hệ thống báo chí CAND thường xuyên quan tâm, thực hiện tổ chức rèn luyện và kiểm tra định kỳ thông qua hội khỏe hội nhà báo, hoặc kiểm tra chiến sỹ công an khỏe, khám chữa bệnh định kỳ.
1.2.4. Các nhân tố chủ yếu tác động đến phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí Công an Nhân dân
Phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND có nhiều yếu tố tác động. Tuy nhiên, luận văn chỉ tập trung luận giải các yếu tố tác động có tính chất trực tiếp và cơ bản nhất.
Một là, phát triển nguồn nhân lực báo chí CAND chịu tác động bởi nguồn nhân lực quốc gia. Bởi vì trước hết, nguồn nhân lực báo chí CAND là một bộ phận của nguồn nhân lực đất nước. Bởi vậy, giáo dục và đào tạo quốc dân có vai trò quan trọng cho phát triển nguồn nhân lực cho lực lượng công an cũng như cho nền báo chí cách mạng nước nhà. Hơn nữa, hoạt động báo chí công an là rất đặc thù, những cán bộ phóng viên, biên tập viên, họa sĩ… báo chí công an trước khi được đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện để thực hiện nhiệm vụ thì phải dựa trên một nền tảng thể lực, trí thức nhất định làm điều kiện tiên quyết. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng, hiệu quả của nền giáo dục quốc dân. Nguồn nhân lực quốc gia càng phát triển với chất lượng cao thì càng có cơ sở để thu hút được nhiều người giỏi, người tài cho báo chí công an, với cách triển khai đi tắt, đón đầu; và ngược lại.
Hai là, phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực cho báo chí công an nói riêng luôn chịu sự tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường. Tôn trọng quy luật kinh tế, hiểu rõ về cơ chế thị trường, đồng thời linh hoạt, uyển chuyển phù hợp với yêu cầu vận động của thực tiễn, mới là hiểu rõ nhân tố tác động này. Cơ chế thị trường đặt ra cho nội dung phát triển nguồn nhân lực những bài toán khó khi các đơn vị báo chí công an chịu sức ép của thị trường. Công chúng phải bỏ tiền hoặc mất chi phí để tiếp cận được sản phẩm báo chí công an và họ có quyền chọn lựa hoặc không chọn lựa sản phẩm báo chí đó. Muốn được công chúng chọn mua, chọn xem thì sản phẩm báo chí phải hấp dẫn, phải đẹp, phải đúng “gu” thưởng thức. Muốn vậy thì đội ngũ làm ra sản phẩm báo chí công an phải đủ độ nhạy, đủ tinh tường để vừa thực hiện nhiệm vụ chính trị trên mặt trận văn hóa- tư tưởng, vừa đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của thị trường, từ phía công chúng trong các tầng lớp nhân dân.
Ba là, phát triển nguồn nhân lực báo chí CAND chịu tác động của nhiệm vụ xây dựng lực lượng CAND trong tình hình mới. Là một bộ phận của lực lượng CAND, nên báo chí công an không lý gì lại không đồng bộ hướng đến cùng lực lượng CAND chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Xây dựng chính quy đòi hỏi phải đạt tính thống nhất, tính kỷ luật và tính tiên tiến. Tình hình mới với những phức tạp khó lường trên trận tuyến bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội đặt ra nhiều thách thức với cả lực lượng CAND nói chung cũng như báo chí công an nói riêng. Do vậy, phải tiến hành đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức trong hệ thống báo chí công an để có thể tiếp nhận và chiến đấu có hiệu quả trên mặt trận văn hóa – tư tưởng đang là vấn đề đặt ra cấp bách.
Bốn là, phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND chịu sự tác động trực tiếp của những cơ chế, chính sách đãi ngộ các nhà báo công an. Trước hết, chính sách tốt sẽ thu hút được những sinh viên (báo chí, công an) tài năng, những du học sinh xuất sắc để bổ trợ cho nguồn nhân lực báo chí công an mà chi phí đào tạo bổ sung ít đi trong khi thời gian đào tạo lại ngắn lại. Bên cạnh đó, cần thu hút cả đội ngũ chuyên gia, những nhà báo có kinh nghiệm từ ngoài ngành công an vào hệ thống báo chí công an. Đội ngũ này vừa trực tiếp làm gia tăng quy mô về số lượng, vừa khắc phục được một phần bất cập về cơ cấu, đồng thời làm tăng nhanh yếu tố về chất của nguồn nhân lực báo chí công an. Thời gian qua, một số nhà báo giỏi ngoài ngành đã chuyển về Trung tâm phát thanh- truyền hình và điện tử CAND, do đơn vị thực hiện được một số ưu tiên về cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng đặc thù, tạo môi trường đãi ngộ cán bộ báo chí công an tốt hơn trước. Việc tuyển dụng, bố trí, sắp xếp, đãi ngộ trong hệ thống báo chí CAND phải gắn chặt với cơ chế cụ thể để những người tài, người giỏi trong và ngoài ngành công an có cơ hội phát triển.
Năm là, việc triển khai đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện là một quá trình cần thiết, đẩy lui nhân tố ỷ lại, trì trệ có trong các cán bộ Nhà nước. Thông qua các khóa đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện, cán bộ thay đổi nếp nghĩ cũ, phấn đấu thực hiện con đường tiến thân bằng năng lực thực chất, hoàn thiện đạo đức nghề nghiệp báo chí công an. Một đặc điểm rất dễ nhận thấy của các cán bộ biên chế là sự đảm bảo về vị trí công tác của các cán bộ tạo nên tâm lý chung an tâm, dễ dẫn tới ỷ lại, ngại phấn đấu, nếu không được lãnh đạo làm công tác tổ chức xây dựng lực lượng thường xuyên đốc thúc và rà soát lại. Nhân tố bên trong này ảnh hưởng rất lớn tới phát triển nguồn nhân lực, nếu không thường xuyên đốc thúc, đẩy mạnh thì hiệu quả hoạt động của các đơn vị báo chí công an đương nhiên bị giảm sút.
Sáu là, bối cảnh hội nhập hiện nay là nhân tố thuận lợi cho phát triển nguồn nhân lực báo chí CAND. Trong đó, vấn đề hợp tác đào tạo và mở rộng các hoạt động đối ngoại công an đang và sẽ tạo điều kiện, tiền đề không nhỏ để phát triển nguồn nhân lực cho báo chí công an. Vì vậy, việc mở rộng hợp tác đào tạo, liên kết đào tạo với một số trường danh tiếng trên thế giới về báo chí về cảnh sát để phát triển nguồn nhân lực báo chí CAND là vấn đề đặt ra. Đây chính là quá trình phát triển đi tắt, đón đầu nhằm khắc phục sự thiếu hụt nguồn nhân lực báo chí công an cho các đơn vị hoặc tại một thời điểm mà ở lĩnh vực đặc thù cụ thể như báo chí thì hệ thống các học viện, nhà trường trong ngành công an chưa có điều kiện và khả năng đào tạo. Hơn nữa, hoạt động giao lưu, phối hợp, liên kết hợp tác báo chí trong khu vực Đông Nam Á, Đông Á và thế giới cũng là điều kiện tốt để sàng lọc, rèn luyện và phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND.
1.3. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực của một số hệ thống báo chí ngành khác:
Trong bối cảnh đất nước bước vào công cuộc Đổi mới kể từ sau Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng, nền báo chí cách mạng ở nước ta đã phát triển khá nhanh về số lượng và chất lượng, hình thành hệ thống thông tấn, báo chí, phát thanh, truyền hình rộng khắp cả nước. Trong phạm vi có hạn của luận văn này, xin phép chỉ điểm qua kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí quân đội, hệ thống báo chí Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và pháp luật.
1.3.1. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí quân đội:
Một là, chú trọng đào tạo nhân lực thông qua hoạt động thực tiễn công tác
Để có có được đội ngũ báo chí trong quân đội phong phú như hiện nay không phải chủ yếu được cung cấp từ các trường đào tạo cơ bản, chuyên sâu về báo chí, mà chủ yếu là được bồi dưỡng đào tạo ngay trong môi trường công tác và thông qua hoạt động thực tiễn công tác này.
Nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí QĐND ở nước ta khá đông đảo, có bề dày truyền thống, quân phong, quân kỷ và đội ngũ nguồn nhân lực hùng hậu, với nhiều nhà báo hoạt động kỳ cựu nhất, dày dặn nhất. Ở cấp Quân ủy Trung ương phải kể đến Báo Quân đội Nhân dân (Cơ quan của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng), ở cấp các quân khu đều có báo của quân khu, các binh chủng, lực lượng của quân đội đều xuất bản báo. Xây dựng và trưởng thành cùng lực lượng QĐND, trải qua 2 cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, nguồn nhân lực báo chí quân đội được tuyển chọn và bồi dưỡng ngay trong các lĩnh vực hoạt động của báo chí quân đội và chính trong môi trường này đã tạo nên những tên tuổi cây bút bình luận thời sự trong nước và quốc tế sắc sảo, đanh thép, có sức nặng, thường xuyên các năm đều giành được giải thưởng Báo chí Quốc gia và nhiều giải báo chí khác. Chính nhờ có sự đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực bằng cách này, báo chí quân đội còn giúp tạo nguồn cung cấp nhân lực chất lượng cao cho các báo ngoài quân đội. Một số đồng chí nhà báo quân nhân chuyển ngành, sang công tác ngành khác ngoài quân đội, đã giữ những vị trí lãnh đạo quan trọng của nhiều tờ báo. Ví dụ: nhà báo- thiếu tướng Phan Khắc Hải- Tổng Biên tập Báo QĐND (giai đoạn 1989-1997) chuyển ngành và giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Văn hóa- Thông tin (1997-2004); nhà báo – đại tá Hồ Quang Lợi – Phó Tổng Biên tập Báo QĐND năm 2008 chuyển ngành về Thành ủy Hà Nội giữ chức vụ Tổng Biên tập Báo Hà Nội mới và 2 năm sau giữ chức vụ Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội. Cũng từ Báo QĐND, nhà báo – thượng tá Hồng Thanh Quang chuyển sang ngành công an giữ chức vụ Phó Tổng Biên tập Báo CAND phụ trách 2 ấn phẩm “An ninh thế giới” và “Cảnh sát toàn cầu” đều có chỉ số phát hành trên thị trường rất cao…v.v…
Hai là, dựa vào hệ thống học viện, nhà trường trong quân đội như Học viện Chính trị, Sĩ quan Chính trị để mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ báo chí cho hệ thống báo chí quân đội. Quân đội hiện nay không có trường chuyên về đào tạo nghiệp vụ báo chí, ngoài việc gửi đi đào tạo ở các nhà trường dân sự như Học viện Báo chí tuyên truyền, Quân đội còn sử dụng một số nhà trường có điều kiện thuận lợi về lĩnh vực này như Học viện Chính trị, Trường Sĩ quan Chính trị (Đại học Chính trị) phối hợp với Học viện báo chí tuyên truyền để mở các lớp báo chí. Bằng cách làm này, cùng với việc đào tạo tại chỗ cũng đã góp phần nhất định vào việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho hệ thống báo chí quân đội.
Ba là, nhạy bén và linh hoạt trong huy động nguồn nhân lực báo chí từ các cơ quan đơn vị trong và ngoài quân đội để đáp ứng yêu cầu tăng lên nhanh chóng của các loại hình báo chí quân đội trong tình hình mới. Nguồn nhân lực báo chí quân đội sau một thời gian dài ổn định không có biến động về quy mô, thì 5 – 6 năm trở lại đây có tăng về quy mô số lượng và cơ cấu biên chế. Việc thiết lập thêm Báo Quân đội Nhân dân điện tử, Cổng thông tin Điện tử Bộ Quốc phòng, cùng một số trang điện tử khác của quân đội; và đặc biệt là sự ra đời Kênh Quốc phòng Việt Nam (gọi tắt là QPVN) kể từ ngày 19-5-2013 phát sóng 24/24h; đã tạo ra nhu cầu phát triển nguồn nhân lực trong báo chí quân đội, tăng quy mô về số lượng và dần hoàn thiện về chất lượng để đầu tư bổ sung cho 2 loại hình báo chí là báo điện tử và truyền hình.
Đề đáp ứng yêu cầu đó, Quân đội đã có nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi để thu hút và tuyển dụng các phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên từ các tờ báo và lĩnh vực có liên quan khác vào làm việc trong quân đội. Tại các đơn vị báo chí quân đội, không chỉ có đông đảo đội ngũ cán bộ biên chế quân đội (sỹ quan hoặc viên chức quốc phòng), mà còn có cả đội ngũ các cán bộ, nhân viên, kỹ thuật viên hợp đồng ngoài biên chế đang làm việc cho các báo; và cả một đội ngũ các cộng tác viên rộng lớn trong các đơn vị quân đội.
1.3.2. Kinh nghiệm của hệ thống báo chí Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và các báo ngành nội chính
Một là, tích cực và chủ động và linh hoạt trong tuyển dụng và bổ sung nguồn nhân lực. Hệ thống báo chí Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và các báo ngành nội chính (pháp luật, kiểm sát, tư pháp) tích cực, chủ động phát huy cao độ nguồn nhân lực báo chí. Là những thành tố trong nền báo chí cách mạng Việt Nam, hệ thống báo chí Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và báo ngành nội chính từ năm 2000 trở lại đây đã cho ra đời nhiều ấn phẩm đa dạng, đem lại cho đời sống báo chí sự sôi động, như chân dung muôn màu của cuộc sống. Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có báo Tiền Phong, báo Tuổi trẻ TP.HCM, báo Tuổi trẻ Thủ đô, báo Thiếu niên Tiền phong, báo Hoa học trò, báo Nhi đồng, báo Thời trang trẻ, Tạp chí Thanh niên…; Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam có báo Thanh Niên, đều là những báo, tạp chí có số lượng phát hành cao. Hội Liên hiệp Phụ nữ cũng như vậy với một số tờ như: báo Phụ nữ Việt Nam (có nhiều loại ấn phẩm), báo Phụ nữ TP.HCM, báo Phụ nữ Thủ đô… Chuyên ngành nội chính có: báo Pháp luật Việt Nam của Bộ Tư pháp, báo Bảo vệ Pháp luật của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, báo Đời sống và Pháp luật của Hội Luật gia Việt Nam, báo Pháp luật và xã hội của Sở Tư pháp Hà Nội, báo Pháp luật TP.HCM của Sở Tư pháp TP.HCM… Nguồn nhân lực mới cho hệ thống báo chí của Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ hoặc chuyên ngành pháp luật trong quá trình những năm 1995 đến nay liên tục được bổ sung, thay thế và thường xuyên được tuyển hàng năm lấy từ sinh viên tốt nghiệp các chuyên ngành báo chí – tuyên truyền, hoặc các chuyên ngành xã hội… Nguồn nhân lực của các tờ báo phải trải qua tuyển chọn, thi tuyển mới được nhận vào tác nghiệp; chỉ một số nhà báo giỏi mới được đặc cách bỏ qua các thủ tục tuyển chọn. Các cơ quan báo chí bổ sung nhân lực theo cơ chế hợp đồng lao động và tiến hành xây dựng hệ thống đảm bảo chế độ đãi ngộ với nhiều nội dung có tính đột phá, nên đã tạo ra động lực và sức hấp dẫn để thu hút nguồn nhân lực có chất lượng tốt về làm việc. Các báo sẵn sàng trả mức thù lao lương, thưởng, nhuận bút cao để thu hút và trọng dụng với các ứng viên có khả năng tác nghiệp báo chí tốt, những người có tiềm năng để ký hợp đồng lao động 1 năm, 3 năm hoặc dài hạn (hợp đồng không xác định thời hạn). Do hệ thống báo chí Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và các báo ngành nội chính chủ động, tích cực phát huy cao độ nguồn nhân lực trong lĩnh vực báo chí nên khoảng 90% các cử nhân báo chí muốn được công tác tại khối các cơ quan này.
Hai là, có các biện pháp tích cực trong hạn chế hiện tượng “chảy máu chất xám” ngay trong hệ thống báo chí Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và các báo ngành nội chính. Do các báo sẵn sàng trả mức thù lao lương, thưởng, nhuận bút cao để thu hút và trọng dụng nhân tài, nên xảy ra hiện tượng cạnh tranh lẫn nhau. Nhiều nhà báo “nhảy việc”, tức là thay đổi nơi làm việc từ tòa soạn báo này sang tòa soạn báo khác. Sự cạnh tranh sản phẩm báo chí trên thị trường cũng dẫn tới cạnh tranh thu hút nguồn nhân lực. Đó là lý do tại sao xảy ra hiện tượng “chảy máu chất xám” ngay trong hệ thống báo chí Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ và các báo ngành nội chính, gây xáo trộn và ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của mỗi cơ quan báo chí. Để hạn chế vấn đè này các báo đều đã có biện pháp khá chặt chẽ để tìm cách giữ chân các phóng viên, biên tập viên cho báo mình như tăng tiền thưởng, hỗ trợ tiền đi công tác phí, tạo môi trường làm việc thuận lợi và xây dựng không khí làm việc dân chủm cởi mở, đặc biệt là chủ trọng khuyến khích sự sáng tạo của các phong viên trẻ có tài năng.
1.3.3. Một số bài học kinh nghiệm rút ra
Một là, bài học về tích cực, chủ động chuẩn bị nguồn nhân lực trong các giai đoạn phát triển phù hợp của mỗi cơ quan, mỗi hệ thống báo chí. Cơ quan báo chí cần mở báo điện tử khác với cơ quan cần mở rộng thêm lĩnh vực truyền hình. Có sự chủ động, tích cực chuẩn bị nguồn nhân lực thì sẽ đáp ứng và tạo ra hiệu quả lâu dài trong hoạt động của các cơ quan báo chí.
Hai là, bài học về phát huy cao độ nguồn nhân lực báo chí, trong đó chú trọng tiếp tục bồi dưỡng, huấn luyện, đào tạo, để tiếp tục phát huy thế mạnh của những nhà báo giỏi, có tâm huyết với nghề, tạo tiền đề cho việc ra đời những tác phẩm báo chí hấp dẫn, xứng tầm. Nếu biết phát huy cao độ nguồn nhân lực báo chí, hiệu quả công tác trên mặt trận văn hóa- tư tưởng sẽ rất cao.
Ba là, bài học về xây dựng chiến lược tổng thể phát triển nguồn nhân lực báo chí. Nếu không có chiến lược tổng thể, quá trình phát triển nguồn nhân lực manh mún sẽ tạo ra sự khập khiễng, chắp vá, nửa vời trong việc tuyển chọn, đào tạo, bố trí, sử dụng nguồn nhân lực. Xây dựng chiến lược tổng thể còn có tác dụng ngăn ngừa hiện tượng “chảy máu chất xám” đã xảy ra tại các hệ thống báo chí, tránh những lãng phí không cần thiết.
Bốn là, bài học kinh nghiệm về xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách thu hút và trọng dụng đối với các cán bộ giỏi, có tiềm năng, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tiếp sau. Trên thực tế, phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí nào cũng khó có thể phát huy hiệu quả nếu như không có những chính sách, cơ chế hợp lý, đồng bộ. Phần nhiều các chính sách đều tập trung vào việc nâng cao thu nhập qua lương, thưởng, nhuận bút, đảm bảo đời sống tốt nhất có thể cho nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí. Ngoài ra việc tạo môi trường với những cơ chế làm việc tốt để nhân tài phát huy hết tài năng, tiềm năng cũng cần được chú trọng. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND cũng cần nghiên cứu kinh nghiệm này để lựa chọn xây dựng các chính sách và cơ chế một cách phù hợp nhất.
Năm là, kinh nghiệm về tạo nguồn, xây dựng và kiện toàn, đổi mới hệ thống học viện, nhà trường trong quân đội là hết sức thiết thực đối với hệ thống học viện, nhà trường trong công an. Kinh nghiệm của hệ thống báo chí quân đội đã cho thấy, các nhà trường, học viện quân đội đóng vai trò rất lớn trong việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho hệ thống báo chí quân đội trưởng thành như ngày nay. Vì vậy, cần tham khảo những kinh nghiệm của quân đội về vấn đề này. Điều quan trọng là phải có tư duy, tầm nhìn quyết tâm và lộ trình để thực hiện một cách khoa học trong thực tiễn đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ, công nhân viên chức trong hệ thống báo chí CAND.
* *
*
Có thể nói, lao động nhà báo là một loại hình lao động đặc biệt, có đặc thù riêng, cho nên nguồn nhân lực báo chí đòi hỏi được quan niệm với tư duy và cách tiếp cận mới, giữa bối cảnh xã hội thông tin, kỷ nguyên toàn cầu hóa. Trên thực tế, quyền lực của các cơ quan truyền thông và công cụ tuyên truyền hết sức lớn trên mặt trận văn hóa- tư tưởng. Hệ thống báo chí CAND là một bộ phận không thể tách rời trong lực lượng CAND nên càng đóng vai trò hết sức quan trọng để thực hiện nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới.
Phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND là quá trình tạo ra sự chuyển biến đồng bộ trong tạo nguồn, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng lực lượng này trên cả ba nội dung số lượng, chất lượng và cơ cấu. Số lượng có thể tăng trưởng về quy mô, nhưng không thể xem xét như tăng trưởng kinh tế cứ cao lên là tốt, mà phải căn cứ vào đặc thù chức năng, nhiệm vụ. Nội dung phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND bao gồm về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Các nội dung này là một thể thống nhất song phát triển về chất lượng có vai trò đặc biệt quan trọng, có thể chi phối đến số lượng và cơ cấu. Có nhiều yếu tố tác động đến phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí CAND, nhưng cơ bản và trực tiếp nhất là chất lượng đào tạo và những cơ chế, chính sách sử dụng lực lượng này. Hiện chúng ta cũng có điều kiện tham khảo được một số kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống báo chí khác cũng nằm trong nền báo chí cách mạng Việt Nam, để áp dụng phù hợp với điều kiện hiện nay của hệ thống báo chí CAND.