LA05.011_Phát triển du lịch sinh thái các tỉnh vùng duyên hải cực nam trung bộ đến năm 2020
Trong vòng 10 năm trở lại đây, ngành du lịch thế giới tăng trưởng khoảng 25%. Hiện tại du lịch chiếm khoảng 10% hoạt động kinh tế toàn cầu và một trong những ngành tạo ra công ăn việc làm chính trên thị trường lao động thế giới [37]. Ngành du lịch ngày càng đóng vai trò quan trọng, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia. Từ nay đến năm 2020 theo UNWTO, dự báo du lịch còn tăng trưởng ồ ạt hơn nữa, tạo ra các cơ hội kinh tế lớn lao song mang lại những thách thức gay gắt và những mối đe dọa tiềm ẩn đối với môi trường và các cộng đồng địa phương nếu không được quản lý tốt [87,28]. Trước những nguy cơ đó, con người bắt đầu nhìn nhận, chuyển hướng nhận thức và cách tiếp cận trong hoạt động du lịch, họ mong muốn đóng góp trách nhiệm cho một thế giới phát triển bền vững hơn. Theo đó, xu thế phát triển du lịch dựa vào thiên nhiên nói chung và du lịch sinh thái nói riêng đang trở thành xu thế của thời đại và có ý nghĩa quan trọng không những về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển bền vững của du lịch trên khía cạnh trách nhiệm đối với tài nguyên và môi trường.
Vùng duyên hải cực Nam Trung bộ là vùng được thiên nhiên ưu đãi về tiềm năng du lịch nói chung và du lịch sinh thái nói riêng. Trong những năm qua đã đón bắt nhiều cơ hội để phát triển du lịch và du lịch sinh thái, qua đó nhiều tài nguyên du lịch tự nhiên như các bãi biển (Mũi Né, Ninh Chữ, Cà Ná, Hàm Tân,…) các VQG, các khu bảo tồn thiên nhiên đã và đang được khai thác sử dụng để phát triển du lịch. Tuy với thế mạnh vượt trội về tài nguyên du lịch, là cơ sở để phát triển du lịch sinh thái nhưng cho đến nay việc khai thác tiềm năng này trên cả lĩnh vực tự nhiên lẫn nhân văn còn ở mức nhỏ lẻ, tự phát, chưa có được những nghiên cứu mang tính bài bản, khoa học để tạo nền tảng cho việc khai thác có hiệu quả những nguồn tiềm năng to lớn này.
Hiện nay, đứng trước yêu cầu phát triển kinh tế du lịch với quy mô lớn, tốc độ nhanh, làm cho các địa phương đối phó với nhiều vấn đề nan giải, tồn tại mâu thuẩn ngày càng gay gắt: một bên cần phải bảo vệ môi trường sinh thái, đặc biệt là môi
trường sinh thái vùng khô hạn ven biển, một bên là phát triển kinh tế du lịch để mang lại nguồn lợi kinh tế cho địa phương. Kinh nghiệm từ các nước đã có quá trình phát triển du lịch lâu dài trên thế giới cho thấy để dung hoà hai lợi ích mang tính đối nghịch nêu trên chỉ có con đường lựa chọn đó là đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái một cách khoa học và bền vững dựa trên không gian các vùng địa lý đặc thù này mới đảm bảo được tính cân bằng và phát triển bền vững cho các địa phương.
Các năm qua, việc nghiên cứu trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn về du lịch sinh thái ở nước ta nói chung chỉ mơi bước đầu, dưới dạng những nghiên cứu nhỏ lẻ, thiếu tính hệ thống, chủ yếu ở tầm quốc gia. Đặc biệt những nghiên cứu về phát triển du lịch sinh thái trên vùng duyên hải cực Nam Trung bộ là chưa có gì. Vì vậy việc nghiên cứu sâu hơn các cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm phát triển du lịch sinh thái ở vùng DHCNTB là hết sức quan trọng và cần thiết.