LA32.038_Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; phân tích thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để nhận diện những tồn tại, vướng mắc; trên cơ sở đó, luận án đề xuất những định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và nâng cao hiệu quả thực thi ở nước ta.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản như sau:
– Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, bao gồm quan điểm, đường lối của Đảng về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; chế độ sở hữu toàn dân về đất đai và quyền tài sản của người sử dụng đất đối với quyền sử dụng đất; khái niệm, đặc điểm; mục đích, ý nghĩa của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; phân tích thiệt hại phát sinh khi Nhà nước thu hồi đất;
– Nghiên cứu một số vấn đề lý luận của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, bao gồm một số khái niệm của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; cơ cấu điều chỉnh của pháp luật và các yếu tố tác động đến việc xây dựng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất;
– Nghiên cứu nội dung của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và đánh giá thực trạng thi hành chế định pháp luật này ở Việt Nam;
– Đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và nâng cao hiệu quả thực thi ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau đây:
– Các quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng, hoàn thiện pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay;
– Các quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành về bồi thường;
– Các quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đặt trong mối liên hệ, so sánh với Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản pháp luật khác có liên quan;
– Các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của một số nước trên thế giới dưới góc độ luật học so sánh;
– Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam là đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một bản luận án tiến sĩ luật học, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu ở một số nội dung cụ thể sau:
– Giới hạn về nội dung: i) Nghiên cứu, tìm hiểu các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành; ii) Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng có nội hàm bao gồm các nội dung bồi thường về đất, bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất; hỗ trợ, tái định cư v.v. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận án tiến sĩ này, tác giả đi sâu nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất mà không đề cập đến vấn đề bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất; vấn đề hỗ trợ, tái định cư v.v.
– Giới hạn về không gian: Luận án nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất trong phạm vi cả nước.
– Giới hạn về thời gian: Luận án giới hạn nghiên cứu pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất từ năm 2003 (năm ban hành Luật Đất đai 2003 đến nay).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình làm luận án, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
– Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác
– Lê Nin trong việc nghiên cứu nguồn gốc, bản chất của sự vật, hiện tượng; nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của sự vật, hiện tượng đặt trong mối quan hệ tương tác với các sự vật, hiện tượng khác;
– Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
i) Phương pháp so sánh, phương pháp đánh giá, phương pháp lập luận logic v.v được sử dụng tại Chương 1 khi nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của luận án;
ii) Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp đối chiếu v.v được sử dụng tại Chương 2 khi nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam;
iii) Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp v.v được sử dụng tại Chương 3 khi nghiên cứu thực trạng pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam;
iv) Phương pháp bình luận, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn giải v.v được sử dụng tại Chương 4 khi nghiên cứu định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất và nâng cao hiệu thực thi ở Việt Nam.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về phương diện lý luận: Luận án góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận liên quan đến thu hồi đất và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Trên cơ sở đó, luận án góp phần củng cố và hoàn thiện hệ thống cơ sở lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.
Về phương diện thực tiễn: Những bất cập được chỉ ra trong các quy định hiện hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và những kiến nghị của luận án có thể được xem xét, tham khảo trong việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Đất đai năm 2013 trong thời gian tới; đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người bị thu hồi đất. Luận án là tài liệu tham khảo bổ ích không chỉ đối với các nhà lập pháp, đối với đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về đất đai mà còn là tài liệu tham khảo có giá trị cho các cơ sở đào tạo luật học ở nước ta.
6. Những điểm mới của luận án
Luận án có những điểm mới sau:
– Hệ thống hóa, bổ sung, phát triển và làm sâu sắc hơn cơ sở lý luận của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.
– Làm rõ khái niệm, đặc điểm của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; mục đích, ý nghĩa của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; xác định những thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất; các lợi ích và cơ sở của việc giải quyết các lợi ích phát sinh khi Nhà nước thu hồi đất; các yếu tố tác động đến việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
– Đánh giá thực trạng pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở nước ta hiện nay, từ đó chỉ ra những bất cập của pháp luật hiện hành cũng như thực trạng áp dụng; nguyên nhân của những bất cập, hạn chế.
– Đưa ra định hướng và các giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở nước ta.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài lời cam đoan, danh mục các từ viết tắt, mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được bố cục với 04 chương cụ thể như sau:
– Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của luận án.
– Chương 2. Lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.
– Chương 3. Thực trạng pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.
– Chương 4. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………………………………….1
Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
THUYẾT CỦA LUẬN ÁN ……………………………………………………………………………….7
1.1. Những nội dung cơ bản của các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến
đề tài luận án ……………………………………………………………………………………………7
1.2. Đánh giá kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học liên quan đến đề tài
luận án và những vấn đề trọng tâm cần tiếp tục nghiên cứu ……………………………27
Kết luận Chương 1…………………………………………………………………………………………….31
Chƣơng LÝ LUẬN VỀ ỒI THƢỜNG KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT VÀ PHÁP LUẬT VỀ ỒI THƢỜNG KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT Ở VIỆT NAM …………………………………………………………………………………………………….33
2.1. Lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ……………………………………………33
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thu hồi đất ………………………………………………………33
2.1.2. Khái niệm, đặc điểm và mục đích, ý nghĩa của bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất…………………………………………………………………………………………………..34
2.1.3. Thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất và vấn đề giải quyết các lợi ích phát sinh
khi Nhà nước thu hồi đất…………………………………………………………………………45
2.1.4. Cơ sở lý luận của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất…………………………56
2.2. Lý luận pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất………………………………65
2.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất ………………………………………………………………………………………………………..65
2.2.2. Cơ cấu điều chỉnh pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất…67
2.2.3. Tiêu chí đánh giá pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất………………….69
2.2.4. Các yếu tố tác động đến việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất ……………………………………………………………..74
Kết luận Chương 2……………………………………………………………………………………………78
Chƣơng 3 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ỒI THƢỜNG VỀ ĐẤT KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT Ở VIỆT NAM……………………………………………………………80
3.1. Các quy định chung về bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất và thực
tiễn áp dụng …………………………………………………………………………………………..80
3.1.1. Phạm vi và đối tượng được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ….80
3.1.2. Căn cứ thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã
hội vì lợi ích quốc gia, công cộng …………………………………………………………….81
3.1.3 Nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ……………………………….85
3.1.4. Điều kiện để được bồi thường về đất và các trường hợp không được bồi
thường về đất…………………………………………………………………………………………95
3.2. Các quy định cụ thể về bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất và thực
tiễn áp dụng …………………………………………………………………………………………103
3.2.1. Bồi thường đối với đất nông nghiệp…………………………………………………………103
3.2.2. Bồi thường đối với đất phi nông nghiệp……………………………………………………106
3.2.3. Bồi thường đối với một số trường hợp khác ……………………………………………..118
3.3. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế của pháp luật và việc thực thi pháp
luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ………………………………………128
3.3.1. Nguyên nhân khách quan ……………………………………………………………………….128
3.3.2. Nguyên nhân chủ quan …………………………………………………………………………..130
Kết luận Chương 3………………………………………………………………………………………….131
Chƣơng 4 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT BỒI THƢỜNG VỀ ĐẤT KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT Ở VIỆT NAM………………………………………………………………………133
4.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất…133
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất…….137
4.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất……………………………………………………………………………………163
Kết luận Chương 4………………………………………………………………………………………….173
KẾT LUẬN CHUNG ……………………………………………………………………………………175
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ở nước ta, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là một trong những chế định cơ bản của pháp luật đất đai. Chế định pháp luật này ra đời với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất khi bị Nhà nước thu hồi đất, tạo cơ sở pháp lý cho việc thu hồi đất cho các mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Tuy nhiên, trên thực tế việc áp dụng chế định bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất gặp rất nhiều khó khăn, thách thức; bởi lẽ, nó “đụng chạm” đến lợi ích thiết thực của người dân nói chung và của người sử dụng đất nói riêng. Không phải ở bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu, việc thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cũng xử lý và giải quyết hài hoà lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và lợi ích của người bị thu hồi đất. Sự không đồng thuận của người bị thu hồi đất đối với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cơ bản là các quy định của pháp luật hiện hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất chưa phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn cho dù chế định này thường xuyên được sửa đổi, bổ sung.
Luật Đất đai năm 2013 được ban hành trên cơ sở tổng kết, đánh giá các quy định phù hợp, chưa phù hợp của Luật Đất đai năm 2003 để có những sửa đổi, bổ sung cần thiết. Tuy nhiên, đến nay sau một thời gian thi hành, Luật Đất đai năm 2013 đã bộc lộ những bất cập nhất định, trong đó có các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Thu hồi đất và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vẫn là vấn đề nóng. Tranh chấp, khiếu kiện phát sinh từ thực tiễn áp dụng chế định bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất chiếm số lượng lớn nhất (tỷ lệ 70%) trong các tranh chấp, khiếu kiện về đất đai [106]. Các khiếu kiện về thu hồi đất và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phát sinh ở các địa phương trong cả nước. Có không ít trường hợp, người có đất bị thu hồi không tin tưởng vào chính sách bồi thường mà địa phương áp dụng, không tin tưởng việc giải quyết khiếu nại ở cơ sở dẫn đến khiếu nại đông người đến các cơ quan trung ương. Nội dung bất đồng giữa người bị thu hồi đất và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không nằm ngoài những vấn đề cơ bản của chế định bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất như căn cứ thu hồi đất, giá đất bồi thường, loại đất được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư … Trong những bất đồng, khiếu kiện này thì bồi thường về đất luôn là vấn đề trung tâm, nhạy cảm và phức tạp nhất. Bởi vì, mọi quyền lợi của người bị thu hồi đất luôn gắn liền với đất, xuất phát từ đất và là căn cứ của những quyền lợi bồi
2
thường, hỗ trợ khác. Mặt khác, đất đai là tài sản có giá trị lớn, là không gian sống, là tư liệu sản xuất và gắn liền với đời sống tâm linh, tín ngưỡng nên đa phần người sử dụng đất không muốn bị thu hồi dẫn đến cuộc sống bị đảo lộn, quyền lợi bị ảnh hưởng, từ đó nảy sinh tư tưởng chống đối việc thu hồi đất. Hơn nữa, việc sử dụng đất của người dân thường xuyên biến động; trong khi đó việc quản lý nhà nước về đất đai chưa chặt chẽ, cơ sở dữ liệu đất đai, đăng ký đất đai và tài sản gắn liền với đất còn nhiều hạn chế cũng là nguyên nhân của những khiếu kiện kéo dài, phức tạp. Dường như có thể nói rằng ở đâu có thu hồi đất thì ở đó có khiếu kiện về đất và liên quan đến đất. Những khiếu kiện này thể hiện các quy định của pháp luật hiện hành chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, chưa bảo hộ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu hồi đất, cản trở phát triển kinh tế – xã hội, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị – xã hội.
Rõ ràng những sửa đổi, bổ sung của Luật Đất đai năm 2013 vẫn bộc lộ nhiều bất cập và chưa phát huy được vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền lợi chính đáng của người có đất bị thu hồi, giải quyết kém hiệu quả bài toán về sự đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người bị thu hồi đất, chưa “hạ nhiệt” các khiếu kiện và chưa phát huy hết tác dụng tích cực trong việc bảo đảm sử dụng nguồn lực đất đai và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Những vấn đề trên đây đặt ra nhu cầu cấp thiết phải tiếp tục nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ về phương diện lý luận và thực tiễn pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, đặc biệt là pháp luật bồi thường về đất để đánh giá một cách toàn diện, tìm ra nguyên nhân của những tồn tại để có những giải pháp hữu hiệu góp phần hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và nâng cao hiệu quả thực thi trên thực tế. Với ý nghĩa đó, nghiên cứu sinh lựa chọn nghiên cứu đề tài “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất” làm luận án tiến sĩ luật học. Thành công của luận án góp phần nâng cao hiệu quả thực thi Luật Đất đai năm 2013 nói chung và chế định bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam nói riêng.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; phân tích thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để nhận diện những tồn tại, vướng mắc; trên cơ sở đó, luận án đề xuất những định hướng, giải pháp hoàn
3
thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và nâng cao hiệu quả thực thi
ở nước ta.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án xác định các nhiệm vụ nghiên cứu
cơ bản như sau:
– Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, bao gồm quan điểm, đường lối của Đảng về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; chế độ sở hữu toàn dân về đất đai và quyền tài sản của người sử dụng đất đối với quyền sử dụng đất; khái niệm, đặc điểm; mục đích, ý nghĩa của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; phân tích thiệt hại phát sinh khi Nhà nước thu hồi đất;
– Nghiên cứu một số vấn đề lý luận của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, bao gồm một số khái niệm của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; cơ cấu điều chỉnh của pháp luật và các yếu tố tác động đến việc xây dựng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất;
– Nghiên cứu nội dung của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và đánh giá thực trạng thi hành chế định pháp luật này ở Việt Nam;
– Đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và nâng cao hiệu quả thực thi ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau
đây:
– Các quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng, hoàn thiện pháp luật đất
đai nói chung và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay;
– Các quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi
hành về bồi thường;
– Các quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đặt trong mối liên hệ, so sánh với Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản pháp luật khác có liên quan;
4
– Các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của một số nước trên
thế giới dưới góc độ luật học so sánh;
– Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt
Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam là đề tài có phạm
vi nghiên cứu rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một bản luận án tiến sĩ luật học, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu ở một số nội dung cụ thể sau:
– Giới hạn về nội dung: i) Nghiên cứu, tìm hiểu các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành; ii) Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng có nội hàm bao gồm các nội dung bồi thường về đất, bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất; hỗ trợ, tái định cư v.v. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận án tiến sĩ này, tác giả đi sâu nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất mà không đề cập đến vấn đề bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất; vấn đề hỗ trợ, tái định
cư v.v.
– Giới hạn về không gian: Luận án nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật bồi
thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất trong phạm vi cả nước.
– Giới hạn về thời gian: Luận án giới hạn nghiên cứu pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất từ năm 2003 (năm ban hành Luật Đất đai 2003 đến nay).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình làm luận án, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ
bản sau đây:
– Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin trong việc nghiên cứu nguồn gốc, bản chất của sự vật, hiện tượng; nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của sự vật, hiện tượng đặt trong mối quan hệ tương tác với các sự vật, hiện tượng khác;
– Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
5
i) Phương pháp so sánh, phương pháp đánh giá, phương pháp lập luận logic v.v được sử dụng tại Chương 1 khi nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của luận án;
ii) Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp đối chiếu v.v được sử dụng tại Chương 2 khi nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt
Nam;
iii) Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp v.v được sử dụng tại Chương 3 khi nghiên cứu thực trạng pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam;
iv) Phương pháp bình luận, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn giải v.v được sử dụng tại Chương 4 khi nghiên cứu định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất và nâng cao hiệu thực thi ở Việt Nam.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về phương diện lý luận: Luận án góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận liên quan đến thu hồi đất và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Trên cơ sở đó, luận án góp phần củng cố và hoàn thiện hệ thống cơ sở lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.
Về phương diện thực tiễn: Những bất cập được chỉ ra trong các quy định hiện hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và những kiến nghị của luận án có thể được xem xét, tham khảo trong việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Đất đai năm
2013 trong thời gian tới; đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người bị thu hồi đất. Luận án là tài liệu tham khảo bổ ích không chỉ đối với các nhà lập pháp, đối với đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về đất đai mà còn là tài liệu tham khảo có giá trị cho các cơ sở đào tạo luật học ở nước ta.
6. Những điểm mới của luận án
Luận án có những điểm mới sau:
– Hệ thống hóa, bổ sung, phát triển và làm sâu sắc hơn cơ sở lý luận của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.
6
– Làm rõ khái niệm, đặc điểm của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; mục đích, ý nghĩa của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; xác định những thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất; các lợi ích và cơ sở của việc giải quyết các lợi ích phát sinh khi Nhà nước thu hồi đất; các yếu tố tác động đến việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
– Đánh giá thực trạng pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở nước ta hiện nay, từ đó chỉ ra những bất cập của pháp luật hiện hành cũng như thực trạng áp dụng; nguyên nhân của những bất cập, hạn chế.
– Đưa ra định hướng và các giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở nước ta.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài lời cam đoan, danh mục các từ viết tắt, mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được bố cục với 04 chương cụ thể như sau:
– Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của luận án.
– Chương 2. Lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.
– Chương 3. Thực trạng pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất
ở Việt Nam.
– Chương 4. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.
7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA LUẬN ÁN
1.1. Những nội dung cơ bản của các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án
Ở nước ta, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất (NNTHĐ) luôn nhận được sự quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu của giới luật học ở nhiều cấp độ khác nhau. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài được thực hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, tập trung ở một số nhóm vấn đề chủ yếu sau đây: i) Nhóm công trình nghiên cứu những vấn đề lý luận về bồi thường khi NNTHĐ; ii) Nhóm công trình nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn về bồi thường khi NNTHĐ; iii) Nhóm công trình nghiên cứu về nâng cao hiệu quả thực thi và hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ. Việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất” có liên quan trực tiếp đến các nhóm vấn đề trên. Thông qua việc tìm hiểu các công trình có liên quan mật thiết đến đề tài, nghiên cứu sinh nhận thấy những nội dung trên đã được nhiều tác giả đề cập, nghiên cứu ở những phương diện khác nhau. Do đó, để thực hiện đề tài “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất” thì việc nghiên cứu, đánh giá kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học liên quan đến đề tài được công bố là hết sức cần thiết.
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu những vấn đề lý luận về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất
Thứ nhất, nhóm công trình nghiên cứu về các khái niệm liên quan đến bồi thường
khi NNTHĐ, có một số công trình tiêu biểu sau đây:
Luận án tiến sĩ của Phạm Thu Thủy: “Pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ nông nghiệp ở Việt Nam”, bảo vệ năm 2014; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thảo My: “Thực trạng pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ trên địa bàn huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang”, bảo vệ năm 2014; Luận văn thạc sĩ của Trần Cao Hải Yến: “Thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi NNTHĐ trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay”, bảo vệ năm 2014 v.v. Các luận án, luận văn trên đây đã phân tích, luận giải khái niệm đất nông nghiệp, khái niệm thu hồi đất (THĐ); các khái niệm trưng dụng, trưng mua, trưng thu đất; khái niệm bồi thường, khái niệm hỗ trợ khi NNTHĐ; khái niệm tái định cư (TĐC); phân biệt, so sánh giữa bồi thường khi NNTHĐ với bồi thường thiệt hại trong
8
dân sự, lao động, bồi thường trách nhiệm Nhà nước (NN); phân biệt giữa THĐ với trưng
dụng, trưng thu và trưng mua đất.
Bài viết “Về khái niệm bồi thường khi NNTHĐ trong Luật Đất đai (LĐĐ) năm
2003” của tác giả Nguyễn Quang Tuyến – Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7/2008; Bài viết “Vấn đề lý luận xung quanh khái niệm bồi thường khi NNTHĐ” của tác giả Nguyễn Quang Tuyến – Tạp chí Luật học, số 01/2009. Các bài viết đã phân tích một số vấn đề lý luận liên quan đến khái niệm bồi thường khi NNTHĐ như cơ sở lý luận xây dựng khái niệm bồi thường khi NNTHĐ, lý luận về khái niệm bồi thường khi NNTHĐ theo LĐĐ năm 2003. Tác giả cũng đi sâu phân tích, so sánh khái niệm bồi thường khi NNTHĐ và khái niệm đền bù; phân biệt giữa bồi thường thiệt hại khi NNTHĐ với bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự (BLDS), với trách nhiệm bồi thường của NN, với bồi thường oan sai trong tố tụng hình sự, trong pháp luật lao động.
Bài viết “Bảo đảm tài sản là quyền sử dụng đất (SDĐ) của người có đất bị thu hồi – nhìn từ quy định trong các bản hiến pháp và pháp luật đất đai” của tác giả Lê Ngọc Thạnh – Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3/2013. Bài viết đưa ra khái niệm THĐ. Theo tác giả, THĐ là việc NN lấy lại quyền SDĐ đã giao cho các tổ chức, cá nhân sử dụng hoặc lấy lại quyền SDĐ do người khác lấn chiếm của NN.
Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu nền tảng lý luận của pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ; những yếu tố chi phối đến pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ; giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa NN, nhà đầu tư và người bị THĐ.
Có thể kể ra một số công trình tiêu biểu nghiên cứu về các vấn đề này như sau:
Luận án tiến sĩ kinh tế của Trần Thị Lan: “Quan hệ lợi ích kinh tế trong THĐ của nông dân để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà Nội”, bảo vệ năm 2012. Luận án cho rằng, trong quá trình THĐ của nông dân để xây dựng các khu công nghiệp còn nhiều bất cập, như thiếu đồng bộ trong quy hoạch, chính sách THĐ chưa hợp lý, chưa giải quyết hợp lý các vấn đề về lợi ích kinh tế của nông dân có đất bị thu hồi. Trong đó nổi lên tình trạng bất bình trong nông dân về việc chưa được giải quyết hợp lý các quan hệ lợi ích trong quá trình THĐ, từ đó tích tụ mâu thuẫn trong việc giải quyết lợi ích này, tạo ra xung đột xã hội, gây ra biến động xấu về chính trị. Tác giả chỉ ra mối quan hệ lợi ích bao gồm lợi ích của xã hội mà NN là đại diện, lợi ích của doanh nghiệp với tư cách là nhà đầu tư và lợi ích của nông dân bị THĐ. Tác giả đã nghiên cứu các đặc điểm của quan hệ lợi ích và các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích. Các lợi ích có những sự thống nhất chung mà dự án tạo ra nhưng
9
cũng còn nhiều mâu thuẫn, đó là THĐ làm ảnh hưởng đến công việc và cuộc sống của người bị THĐ; nông dân muốn bồi thường cao còn doanh nghiệp thì ngược lại; NN chưa điều tiết được lợi ích phát sinh khi bồi thường thấp nhưng nhà ở của dự án được bán giá cao… Các lợi ích này biện chứng thống nhất nhưng cũng mâu thuẫn. Vì thế, phải giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích này.
Các bài viết đăng trong cuốn Kỷ yếu hội thảo “Thi hành pháp luật về đất đai ở Việt Nam hiện nay – thực trạng và những giải pháp hoàn thiện” do Viện Nghiên cứu Lập pháp và Viện ROSA Luxemburg (Cộng hòa Liên bang Đức) tổ chức – Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân (2012), bao gồm:
Một là, bài viết “Những điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ – Thực trạng và kiến nghị” của tác giả Nguyễn Quang Tuyến. Trên cơ sở nghiên cứu LĐĐ năm 2003, bài viết phân tích, nhận diện những điều kiện cơ bản cho việc thực hiện chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ, đó là: Quan điểm, đường lối của Đảng về thực hiện bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ; chế độ sở hữu toàn dân về đất đai; trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng; cơ chế quản lý NN đối với đất đai; ý thức pháp luật, trình độ dân trí; yếu tố lợi ích nhóm.
Hai là, bài viết “Phương án giải quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích giữa NN, người bị THĐ và nhà đầu tư trong các dự án THĐ để phát triển kinh tế” của tác giả Trần Quang Huy. Bài viết phân tích mối quan hệ về lợi ích giữa NN, nhà đầu tư với người bị THĐ trong trường hợp THĐ cho mục đích phát triển kinh tế, bao gồm lợi ích mà các bên được nhận, được hưởng lợi từ việc THĐ. Tác giả chỉ ra thực trạng các quy định về bồi thường, hỗ trợ chưa đáp ứng đúng yêu cầu về lợi ích giữa ba bên. Trong quyền lợi chung này, người bị THĐ vẫn là người bị thiệt thòi nhất, kế đến là lợi ích của NN. Trong khi đó “địa tô chênh lệch” thì doanh nghiệp là người được hưởng lợi nhiều nhất khi NNTHĐ để thực hiện dự án đầu tư. Để giải quyết hài hòa mối quan hệ về các lợi ích này, cần có các phương án như: Xem xét lại căn cứ và cơ chế áp dụng giá đất vì giá đất xác định bồi thường còn thấp; giải quyết tốt vấn đề định canh, định cư, hỗ trợ cho người bị THĐ; NNTHĐ và giao cho trung tâm phát triển quỹ đất phân phối lại; người bị THĐ được bồi thường bằng đất hoặc giá trị tương ứng tại thời điểm có quyết định thu hồi; hạn chế trường hợp THĐ vì mục đích phát triển kinh tế, chỉ thu hồi trong một số trường hợp nhất định, còn lại áp dụng cơ chế thỏa thuận giữa doanh nghiệp với người SDĐ.
Cuốn sách “Land in transition: Reform and Poverty in Rural Vietnam” (Đất
đai trong thời kỳ chuyển đổi: Cải cách và Nghèo đói ở Nông thôn Việt Nam) của
10
Martin Ravallion và Dominique van de Walle (Ngân hàng Thế giới), Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin (2008). Các tác giả nghiên cứu những thay đổi về thể chế và công tác giao đất trong quá trình chuyển đổi ruộng đất ở Việt Nam đã tác động đến mức sống của người nghèo, đặc biệt là người nghèo ở nông thôn. Các tác giả cho rằng đất đai ở Việt Nam là tài sản lớn của HGĐ, là một phương tiện quan trọng để tạo ra sinh kế, tích lũy của cải và chuyển giao giữa các thế hệ. Vì thế, việc thu hồi đất nông nghiệp đã tác động trực tiếp đến cuộc sống của người dân.
Thứ ba, nhóm công trình nghiên cứu về giá đất liên quan đến bồi thường khi
NNTHĐ.
Bài viết “Định giá đất và phân cấp trong việc định giá đất; cập nhật, quản lý hệ thống thông tin về giá đất, đáp ứng yêu cầu quản lý của NN và góp phần phát triển thị trường bất động sản ở nước ta” của tác giả Trần Kim Chung đăng trong cuốn Kỷ yếu hội thảo “Thi hành pháp luật về đất đai ở Việt Nam hiện nay – thực trạng và những giải pháp hoàn thiện” do Viện Nghiên cứu Lập pháp và Viện ROSA Luxemburg (Cộng hoà Liên bang Đức) tổ chức – Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân (2012). Bài viết phân tích các quy định về giá đất theo LĐĐ năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, bao gồm đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp (đất ở tại nông thôn, đất ở đô thị) và đất sản xuất – kinh doanh phi nông nghiệp, chỉ ra thực trạng giá đất ở nhiều nơi được định giá chỉ bằng 30-60% giá thị trường, phần lớn các tỉnh quy định giá đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp có mức bằng khoảng 55 – 80% mức giá đất tại cùng vị trí. Tác giả chỉ ra nguyên nhân của thực trạng này là: Người SDĐ chỉ có quyền SDĐ và vì quyền SDĐ chỉ là một phần giá trị của đất nên giá trị quyền SDĐ không phản ánh hết các thuộc tính của giá đất; chưa cập nhật đúng và đầy đủ các biến động về giá đất trên địa bàn; không kiểm soát đầy đủ giá trong các giao dịch về đất đai, bất động sản.
Bài viết “Về giá đất làm căn cứ tính bồi thường khi NNTHĐ” của tác giả Phạm Thu Thủy – Tạp chí Luật học, số 9/2012. Bài viết chỉ ra những hạn chế trong các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định về giá đất làm căn cứ tính bồi thường, như: Giá đất tính bồi thường là giá đất theo mục đích sử dụng tại thời điểm có quyết định thu hồi, không bồi thường theo giá đất sẽ được chuyển mục đích sử dụng, đặc biệt là trong trường hợp THĐ nông nghiệp để chuyển sang mục đích phi nông nghiệp; thực tiễn giá đất bồi thường thấp hơn nhiều so với giá thị trường trong các giao dịch dân sự về đất đai. Tác giả chỉ ra các nguyên nhân như thiếu quy trình cụ thể về định giá đất; trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ chuyên trách về định giá còn nhiều hạn chế … Từ đó, tác giả đưa ra kiến nghị, giải pháp hoàn thiện các quy định về giá đất
11
làm căn cứ bồi thường, như cần xem xét lại căn cứ và cơ chế áp dụng giá đất, đào tạo đội
ngũ cán bộ định giá đất chuyên nghiệp …
Bài viết “Những nguyên tắc xác định giá trị bồi thường quyền SDĐ khi NNTHĐ” của tác giả Trần Minh Đạo – Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số 01/2013. Từ việc phân tích giá đất là một trong những nguyên nhân dẫn đến 70 – 80 % khiếu nại hiện nay liên quan đến đất đai, phân tích các đặc trưng về quyền sở hữu và quyền SDĐ ở nước ta, tác giả cho rằng khi THĐ vì mục đích công ích hoặc dự án kinh doanh thương mại phải đảm bảo các nguyên tắc: i) Việc đền bù phải trên cơ sở tương đương bảo tồn mức tài sản, nguồn sinh kế của người bị THĐ; ii) Phải xác định, quan niệm giá đất bị thu hồi trong nhiều trường hợp chỉ là một bộ phận trong tổng chi phí đền bù cho người có đất bị thu hồi; iii) Phải giải quyết việc THĐ gắn liền với phân phối địa tô phát sinh; iv) Phát triển, quản lý tốt thị trường bất động sản sẽ giúp xác định giá đất được chính xác, từ đó xác định giá đất khi đền bù cũng chính xác hơn.
Cuốn sách “Pháp luật về định giá đất trong bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Việt Nam” do tác giả Doãn Hồng Nhung chủ biên, Nhà xuất bản Tư pháp 2014. Trên cơ sở phân tích LĐĐ năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, cuốn sách phân tích một số vấn đề về giá đất, như khái niệm giá đất, bản chất của giá đất, các yếu tố ảnh hưởng đến giá đất; phân tích các quy định và thực trạng định giá đất nói chung, định giá đất trong bồi thường khi NNTHĐ nói riêng. Từ đó, tác giả chỉ ra những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật về giá đất phục vụ bồi thường như sự chênh lệch quá lớn giữa giá đất tính bồi thường và giá thị trường, các phương pháp xác định giá đất chưa hợp lý, bảng giá đất do Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh ban hành sử dụng cho nhiều mục đích là không hợp lý.
Bài viết “Về giá đất trong LĐĐ năm 2013” của tác giả Nguyễn Thị Dung – Tạp chí Luật học, số 11/2014. Bài viết phân tích khái niệm giá đất, các quy định về giá đất trong LĐĐ năm 2013, như nguyên tắc xác định giá đất, phương pháp xác định giá đất, khung giá và bảng giá đất, giá đất cụ thể, đấu giá quyền SDĐ. Theo tác giả, giá đất là một trong những điểm mấu chốt trong các quy định, chính sách bồi thường và là một trong những nguyên nhân dẫn đến khiếu nại phức tạp.
Bài viết “Xác định giá đất để tính bồi thường khi NNTHĐ” của tác giả Phan Trung Hiền – Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1+2 (329+330) T1/2017. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật về nguyên tắc, phương pháp, chủ thể, quy trình, tư vấn, thời điểm xác định giá đất; đối chiếu giá đất tính bồi thường, hỗ trợ và giá đất khi tính tiền SDĐ để TĐC. Từ việc phân tích thực trạng này, tác giả đưa các kiến nghị hoàn thiện
12
pháp luật về cơ chế xác định giá đất để người dân tham gia vào quá trình xây dựng
giá đất, cơ chế xác định giá đất theo giá thị trường.
Bài viết “Hoàn thiện các quy định về định giá đất ở Việt Nam hiện nay” của các tác giả Châu Hoàng Thân và Phan Trung Hiền – Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
2/2017. Bài viết phân tích các quy định của LĐĐ năm 2013 về định giá đất, các yếu tố ảnh hưởng đến định giá đất, những bất cập của định giá đất hiện nay và kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về định giá đất.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu các quy định của pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thi hành
Các công trình, bài viết nghiên cứu về nhóm nội dung này có thể kể đến như sau: Sách chuyên khảo “Điều tra đặc điểm tâm lý nông dân bị THĐ làm khu công
nghiệp” do tác giả Lưu Song Hào chủ biên, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa (2009). Cuốn sách phân tích thực tiễn THĐ nông nghiệp của nông dân để phát triển khu công nghiệp đã dẫn đến mất việc làm, đảo lộn cuộc sống người dân. Người nông dân nhận tiền đền bù nhưng sử dụng không có hiệu quả và chúng ta cũng chưa có giải pháp hữu hiệu khắc phục hạn chế này. Chưa có các biện pháp hữu hiệu và các quy định gắn liền việc THĐ với hỗ trợ chuyển đổi nghề, gây nhiều hệ lụy và bức xúc cho xã hội. Phần lớn nông dân chưa hài lòng với chính sách đền bù, hỗ trợ chuyển đổi nghề mà nguyên nhân chính là giá đất đền bù thấp.
Báo cáo tổng kết khoa học đề tài: “Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện LĐĐ” của Viện Chiến lược, chính sách Tài nguyên và Môi trường, do tác giả Nguyễn Văn Tài làm chủ nhiệm đề tài (2010). Tại các báo cáo “Nhận dạng những bất cập, tồn tại của LĐĐ 2003 và công tác quản lý đất đai hiện nay” (Chương II), báo cáo “Bối cảnh kinh tế – xã hội; mục đích, yêu cầu; phạm vi, những nội dung lớn cần sửa đổi, bổ sung trong LĐĐ 2003; Khung dự án Bộ LĐĐ” (Chương V), đã trình bày một số hạn chế trong các quy định của LĐĐ năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành LĐĐ 2003, như các quy định về bồi thường, hỗ trợ, TĐC thay đổi thường xuyên dẫn đến khó khăn và chậm trễ khi triển khai, giá đền bù thấp, pháp luật quy định hai cơ chế THĐ (bắt buộc và chủ đầu tư thỏa thuận) có giá đền bù khác nhau dẫn đến việc người bị THĐ có tâm lý so sánh. Từ đó, họ cho rằng quyền lợi của mình bị thiệt hại, dẫn đến khiếu kiện kéo dài và cố ý chây ì không chịu bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư khiến cho tiến độ thực hiện dự án bị chậm trễ.
13
Bài viết “Về chính sách bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ” của tác giả Nguyễn Thị Phượng – Tạp chí Quản lý Nhà nước số 176 (9-2010). Bài viết đánh giá thực trạng, nguyên nhân THĐ và bồi thường với một số phát hiện chính như: Cơ chế, chính sách liên quan đến bồi thường khi NNTHĐ mặc dù thường xuyên được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn tồn tại một số bất cập; khu TĐC không đảm bảo các điều kiện đồng bộ về hạ tầng kĩ thuật và hạ tầng xã hội; giá đất tính bồi thường ở những vùng giáp ranh, liền kề giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được áp dụng khác nhau.
Bài viết “Chính sách hỗ trợ khi NNTHĐ” của tác giả Trần Quang Huy – Tạp chí Luật học, số 10/2010. Bài viết phân tích sự cần thiết xây dựng chính sách hỗ trợ khi NNTHĐ, cơ sở pháp lý của việc thực thi chính sách hỗ trợ khi NNTHĐ; các quy định về hỗ trợ người SDĐ khi THĐ theo quy định của LĐĐ năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trên cơ sở phân tích các quy định, tác giả nêu ra một số kiến nghị về chính sách hỗ trợ đối với người bị NNTHĐ, như xây dựng khu TĐC phải có đầy đủ cơ sở hạ tầng, kiểm soát quỹ đất nông nghiệp trong khu dân cư và đất ao, vườn không được công nhận là đất ở v.v.
Bài viết “Pháp luật về trình tự, thủ tục THĐ, bồi thường và giải phóng mặt bằng và những vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp dụng” của tác giả Nguyễn Thị Nga – Tạp chí Luật học, số 11/2010. Bài viết phân tích các quy định về trình tự, thủ tục; các bước cụ thể khi THĐ, bồi thường và giải phóng mặt bằng trong LĐĐ năm 2003. Theo tác giả, các quy định này khi triển khai trên thực tế còn gặp một số vướng mắc như quy định NNTHĐ phải thực hiện theo quy hoạch SDĐ được xét duyệt và công bố, nên nếu quy hoạch sai thì thu hồi, bồi thường cũng sai và dẫn đến nhiều hệ quả phát sinh. Mặt khác, sự điều chỉnh, bổ sung quy hoạch chi tiết quá nhiều trong cùng một dự án chủ yếu vì lợi ích của nhà đầu tư mà chưa xuất phát từ lợi ích của người SDĐ gây bức xúc trong nhân dân. Quy định khi có khiếu nại thì người bị THĐ vẫn phải thực hiện quyết định THĐ sẽ gây ra những hậu quả nhất định nếu như sau khi giải quyết khiếu nại cho thấy quyết định THĐ là sai nhưng quyết định này đã được thực hiện.
Bài viết “Những tồn tại, vướng mắc phát sinh trong quá trình áp dụng các phương thức bồi thường khi NNTHĐ” của tác giả Nguyễn Thị Nga – Tạp chí Luật học, số 5/2011. Tác giả phân tích các quy định và đánh giá thực trạng các phương thức bồi thường khi NNTHĐ theo quy định của LĐĐ năm 2003, bao gồm: Bồi thường bằng việc giao đất mới, bồi thường bằng tiền, thực hiện chính sách TĐC và các chính sách hỗ trợ khác. Các phương thức này trong quá trình triển khai gặp nhiều vướng mắc như quỹ đất không đủ để thực hiện phương án “đất đổi đất”, đặc biệt là đối với việc THĐ nông
14
nghiệp, áp dụng phương án bồi thường bằng tiền thì phát sinh nhiều khiếu kiện do người bị THĐ cho rằng giá đất bồi thường quá thấp. Đối với vấn đề TĐC thì chất lượng nhà ở, hạ tầng, tiến độ bàn giao không đảm bảo.
Cuốn sách “Cơ chế NNTHĐ và chuyển dịch đất đai tự nguyện ở Việt Nam” của Ngân hàng thế giới, xuất bản năm 2011. Cuốn sách bao gồm 03 báo cáo, trong đó Báo cáo 1 (Đề xuất về hoàn thiện chính sách NNTHĐ và cơ chế chuyển dịch đất đai tự nguyện ở Việt Nam) và Báo cáo 2 (Nghiên cứu cơ chế xác định giá đất phục vụ bồi thường, hỗ trợ và TĐC ở Việt Nam) liên quan trực tiếp đến vấn đề bồi thường khi NNTHĐ. Trên cơ sở phân tích các quy định của LĐĐ năm 2003, các báo cáo phân tích hai hình thức NNTHĐ ở Việt Nam là THĐ bắt buộc và THĐ tự nguyện; phân tích thực tế triển khai việc THĐ ở Việt Nam, bao gồm: Đánh giá thực tế triển khai việc THĐ dưới góc nhìn của lãnh đạo cấp tỉnh, của nhà đầu tư, của người bị THĐ và thực tiễn triển khai THĐ bắt buộc ở Việt Nam; phân tích và nhận xét các quy định về giá đất phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ và TĐC.
Các bài viết đăng trong cuốn Kỷ yếu hội thảo “Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” do Viện Nghiên cứu Lập pháp và Viện ROSA Luxemburg tổ chức – Nhà xuất bản Lao động (2011), bao gồm:
Thứ nhất, bài viết “THĐ và chuyển đổi mục đích SDĐ – Những vấn đề cần nghiên cứu” của tác giả Đào Trung Chính. Bài viết phân tích các quy định, thực trạng và các vướng mắc phát sinh từ việc áp dụng LĐĐ năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành liên quan đến bồi thường khi NNTHĐ. Trong đó, tập trung vào các vấn đề liên quan đến căn cứ thực hiện việc THĐ, cơ chế và chính sách về THĐ, bồi thường, hỗ trợ, TĐC. Các vướng mắc như quy hoạch còn mang tính “xin – cho”, khái niệm THĐ vì lợi ích quốc gia, công cộng còn chưa rõ ràng, giá đất tính bồi thường chưa phù hợp, các khu TĐC chưa đảm bảo về chất lượng.
Thứ hai, bài viết “Một số vấn đề hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đất đai đảm bảo hài hòa lợi ích của NN, của người SDĐ và của nhà đầu tư” của tác giả Trần Quang Huy. Bài viết phân tích hậu quả của việc THĐ và quyền lợi của người nông dân khi bị THĐ; thực trạng các quy định của LĐĐ năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành LĐĐ năm 2003 chưa đáp ứng yêu cầu về mặt lợi ích giữa NN, doanh nghiệp và người bị THĐ, trong đó người bị THĐ luôn bị thiệt thòi nhất. Để đảm bảo hài hòa giữa các lợi ích này, thì tiếp cận đất đai của các nhà đầu tư theo nguyên tắc thị trường là một phương thức quan trọng.
15
Thứ ba, bài viết “Hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Hằng. Tác giả cho rằng việc giải quyết khiếu nại phát sinh từ hoạt động bồi thường khi NNTHĐ chưa hiệu quả, chưa triệt để là một trong những nguyên nhân dẫn đến khiếu nại kéo dài, phức tạp trong lĩnh vực THĐ. Bài viết hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết khiếu nại về bồi thường khi NNTHĐ và chỉ ra những vướng mắc về thời hiệu, thời hạn và thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực này.
Báo cáo số 193/BC-BTNMT ngày 06/9/2012 về “Tổng kết tình hình thi hành LĐĐ năm 2003 và định hướng sửa đổi LĐĐ” của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Báo cáo này chỉ rõ thực tiễn giá đất do UBND cấp tỉnh ban hành làm căn cứ để tính bồi thường chỉ bằng 30 – 60% so với giá thị trường. Quy định này có lợi cho người SDĐ khi thực hiện các nghĩa vụ tài chính nhưng lại không phù hợp khi áp giá bồi thường, dẫn đến người bị THĐ không đồng thuận với phương án bồi thường do NN đưa ra.
Đề tài khoa học cấp trường (2013) “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ – Thực trạng và hướng hoàn thiện” của Trường Đại học Luật Hà Nội do tác giả Nguyễn Thị Nga làm chủ nhiệm. Đề tài bao gồm 15 chuyên đề chia thành 03 nội dung chính sau: Nội dung thứ nhất: Những vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ; Nội dung thứ hai: Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ; Nội dung thứ ba: Một số định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ. Các chuyên đề đã đề cập khá toàn diện những nội dung cơ bản liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ, bao gồm những phân tích về lý luận, thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ việc phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ, nhóm tác giả đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Bài viết “Cụ thể hóa các quy định về đất đai trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013” của tác giả Nguyễn Văn Giàu – Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số T1(2)+T2(1)/2014. Trên cơ sở phân tích các quy định của Hiến pháp năm 2013, tác giả phân tích các quy định của LĐĐ năm 2013 đã cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, bao gồm quy định các trường hợp THĐ tại Điều 61, Điều 62; các quy định về bồi thường, hỗ trợ và TĐC, như điều kiện, nguyên tắc bồi thường, các khoản hỗ trợ, quy định về giá đất khi bồi thường.
Bài viết “Bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ theo LĐĐ năm 2013” của tác giả Phạm Thu Thủy – Tạp chí Luật học số 11/2014. Bài viết phân tích các khái niệm bồi thường, hỗ trợ, TĐC; nguyên tắc và giá đất bồi thường, vấn đề hỗ trợ và TĐC theo quy định của LĐĐ năm 2013. Tác giả chỉ ra các vướng mắc khi áp dụng các quy định này
16
như: Quy định NNTHĐ đang sử dụng đất vào mục đích nào thì được giao đất có cùng mục đích sử dụng ít có tính khả thi trong trường hợp THĐ nông nghiệp, vì quỹ đất nông nghiệp gần như đã được giao hết; Quy định trường hợp bồi thường bằng tiền theo giá đất tại thời điểm thu hồi tồn tại nhiều bất cập bởi sau khi thu hồi một thời gian NN mới chi trả được tiền bồi thường do thủ tục thực hiện phức tạp.
Cuốn sách “Báo cáo tổng hợp hỗ trợ tiếp cận các nguồn lực phát triển cho người dân TĐC thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế” của Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn Quản lý tài nguyên (CORENARM), Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển xã hội (CSRD) và Tổ chức ICCO, Nhà xuất bản Nông nghiệp (2014). Cuốn sách gồm 06 phần nghiên cứu về hiện trạng xây dựng các công trình thủy điện, các chương trình TĐC, thực trạng về di dân giải phóng mặt bằng từ các công trình thủy điện, quy trình thu hồi và công tác bàn giao đất trên địa bàn thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế; những tác động về môi trường và xã hội của việc di dân TĐC từ các công trình thủy điện. Mặc dù phạm vi nghiên cứu là địa bàn thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế nhưng báo cáo đã chỉ ra thực trạng, bất cập mang tính phổ biến của việc THĐ, bồi thường và TĐC. Cụ thể là LĐĐ và Hiến pháp có sự mâu thuẫn về trưng dụng, trưng thu và trưng mua tài sản; chính sách thu hồi và bồi thường liên tục thay đổi dẫn đến khó khăn trong thực thi. Theo đó, trong thời gian ngắn nhưng chính sách sau cao hơn chính sách trước dẫn đến sự so sánh, khiếu nại từ phía người bị THĐ; giá đền bù quá thấp, chỉ bằng 45%, thậm chí có nơi bằng 25% giá thị trường; chính sách “đất đổi đất” hầu như không thực hiện được; khu TĐC không đáp ứng được yêu cầu về diện tích, độ phẳng, hạ tầng.
Đề tài khoa học cấp bộ (2014) “Cơ sở pháp lý của quản lý NN đối với đất đai trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, do tác giả Phạm Hữu Nghị làm chủ nhiệm. Đề tài đánh giá thực trạng cơ sở pháp lý của quản lý NN đối với đất đai ở nước ta tại thời điểm LĐĐ năm 2013 vừa có hiệu lực thi hành, phân tích những thiệt hại do THĐ trên các phương diện kinh tế (bao gồm các thiệt hại về đất, công sức đầu tư, tài sản trên đất, ngừng trệ sản xuất – kinh doanh, thiệt hại vô hình khác), phương diện xã hội (bao gồm thiệt hại do cuộc sống, sản xuất bị đảo lộn; tâm lý người dân bất an, lo lắng, không yên tâm lao động sản xuất; mất thời gian để thích nghi cuộc sống mới hoặc không thể thích nghi được), phương diện chính trị (nếu không giải quyết tốt quyền lợi kinh tế, không giải quyết hài hòa lợi ích giữa các bên sẽ gây bất ổn xã hội, mâu thuẫn nội bộ tăng cao, khiếu nại đông người, làm giảm lòng tin của người dân; làm ảnh hưởng và rạn nứt khối liên minh công nông; gây ra tệ nạn xã hội; ảnh hưởng vấn đề an ninh lương thực). Bên cạnh những ưu
17
điểm, pháp luật về THĐ còn tồn tại những bất cập như giá đất bồi thường thấp so với giá thị trường, thời gian thực hiện thu hồi và bồi thường kéo dài, THĐ nông nghiệp tràn lan mà chưa chú trọng quyền lợi của nông dân, cuộc sống của người dân sau THĐ không được cải thiện. Những bất cập này đã dẫn đến tình trạng khiếu nại, tố cáo có chiều hướng gia tăng về số vụ và tính phức tạp.
Bài viết “Vấn đề hỗ trợ khi NNTHĐ trong LĐĐ năm 2013” của tác giả Phạm Văn Võ – Tạp chí Luật học số 1/2015. Bài viết phân tích chính sách hỗ trợ khi NNTHĐ, bao gồm sự cần thiết của chính sách hỗ trợ khi NNTHĐ, mối quan hệ giữa chính sách hỗ trợ và chính sách bồi thường; đối tượng được hỗ trợ; hình thức, điều kiện và các khoản hỗ trợ (bao gồm hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm; hỗ trợ TĐC; hỗ trợ khi THĐ công ích của xã, phường, thị trấn và hỗ trợ khác) theo LĐĐ năm 2013 và Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ (sau đây gọi tắt là Nghị định số
47/2014/NĐ-CP).
Đề tài khoa học cấp NN (2015) “Sở hữu, quản lý và sử dụng đất đai trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của Tạp chí Cộng sản do tác giả Vũ Văn Phúc làm chủ nhiệm. Liên quan đến pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ, đề tài đã chỉ ra những vấn đề nổi cộm trong THĐ, bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, TĐC, bao gồm: Một là, việc THĐ, bồi thường chưa có một cơ chế giải quyết rõ ràng, minh bạch, hài hòa lợi ích giữa NN, nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi; Hai là, chính sách bồi thường, hỗ trợ, TĐC chưa hợp lý, tính khả thi thấp; Ba là, nông dân được hưởng lợi ít nhất từ đất đai khi THĐ nông nghiệp do đền bù thấp dẫn đến cuộc sống vẫn nghèo, thậm chí nghèo hơn trước khi THĐ; Bốn là, sau khi THĐ nông nghiệp và chuyển sang đất phi nông nghiệp có giá cao hơn nhiều lần nông nghiệp nhưng khoản chênh lệch giá này điều tiết vào ngân sách NN còn thấp, chủ yếu rơi vào tay chủ đầu tư nhận đất và người đầu cơ đất; Năm là, giá NN sử dụng để đền bù cho dân khi THĐ quá thấp so với giá giao dịch trên thị trường (nhiều ý kiến cho rằng chỉ bằng 30 – 40% giá giao dịch thành công trên thị trường).
Đề tài khoa học cấp bộ (2016) “Khắc phục bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật về đất đai ở Việt Nam hiện nay góp phần phòng ngừa tham nhũng” của Ban Nội chính Trung ương do tác giả Vũ Thu Hạnh làm chủ nhiệm. Liên quan đến pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ, đề tài đã chỉ ra những bất cập trong cơ chế, chính sách và pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng, bao gồm: Một là, THĐ để thực hiện các dự án phát triển kinh tế, xã hội vẫn chưa giải quyết được hài hòa
18
lợi ích của các bên do phạm vi THĐ còn khá rộng, khó tránh khỏi sự lạm dụng đối với các dự án này; Hai là, cơ chế, chính sách và pháp luật đất đai hiện hành ghi nhận sự tham gia của người dân trong quá trình lập, thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, TĐC nhưng chưa rõ ràng, cụ thể tạo ra “kẻ hở” dẫn đến tình trạng tham nhũng khi THĐ; Ba là, giá đất bồi thường còn thấp, việc điều tiết lợi ích chưa hợp lý, chưa chú trọng đến lợi ích của NN và người có đất bị thu hồi dẫn đến tình trạng khiếu kiện đông người, kéo dài, làm tăng chi phí đầu tư, ảnh hưởng môi trường đầu tư và là nơi phát sinh tham nhũng, tiêu cực lớn nhất, nhiều nhất.
Đề tài khoa học cấp bộ (2016) “THĐ và giải quyết khiếu nại về THĐ ở Việt Nam hiện nay – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện Khoa học Thanh tra (Thanh tra Chính phủ) do tác giả Đinh Văn Minh làm chủ nhiệm. Đề tài chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến khiếu nại khi THĐ theo LĐĐ năm 2013. Thứ nhất, về nguyên nhân khách quan: Một là, do quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ làm cho nhu cầu về đất tăng lên thúc đẩy giá đất tăng cao dẫn đến lợi ích liên quan đến đất lớn; Hai là, chính sách liên quan đến lợi ích người SDĐ còn nhiều bất cập, nhất là giá đất chưa phù hợp và thường xuyên thay đổi; Ba là, THĐ nhưng không ưu tiên trả bằng đất mà trả bằng tiền, điều kiện tại khu TĐC không bằng khu dân cư có đất bị thu hồi; Bốn là, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người dân còn hạn chế nên đòi hỏi quyền lợi vượt quá quy định. Thứ hai, về nguyên nhân chủ quan: Một là, cơ chế, chính sách trong lĩnh vực quản lý đất đai hiện nay chưa chú ý đúng mức quyền lợi của người dân; Hai là, công tác chỉ đạo, điều hành và quản lý đất đai còn yếu kém, bị buông lỏng; Ba là, chưa có chế tài hoặc xử lý không cương quyết nhiều dự án treo; Bốn là, khi thực hiện dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế
– xã hội, nhiều địa phương, ban quản lý dự án chưa thực hiện đầy đủ quy định, quy trình THĐ và chưa làm tốt công tác tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa của THĐ; Năm là, công tác thanh tra, kiểm tra chưa được chú trọng đúng mức và việc giải quyết khiếu nại từ cơ sở đến các cấp chưa kịp thời, có biểu hiện qua loa, có trường hợp giải quyết không đúng hoặc không giải quyết.
Dự án điều tra cơ bản cấp bộ (2016) “Đánh giá thực trạng đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cộng đồng trong các dự án có THĐ nông nghiệp” của Viện Khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp) do tác giả Võ Đình Toàn làm chủ nhiệm. Thông qua hoạt động điều tra cơ bản về THĐ nông nghiệp ở nước ta, dự án đã phân tích, đánh giá nhu cầu tất yếu khách quan của việc THĐ nông nghiệp; những tác động tích cực, tiêu cực và yêu cầu phát triển bền vững của việc THĐ nông nghiệp; những bất cập khi THĐ nông nghiệp, như thực tế không có đất để bồi thường, giá đất bồi thường thấp, các chính
19
sách hỗ trợ thấp và không đảm bảo để ổn định cuộc sống sau THĐ … Từ những phân tích này, dự án kết luận rằng: Chính sách, pháp luật THĐ nông nghiệp chắp vá, thiếu đồng bộ và thiếu sự ổn định cần thiết; cơ chế thực thi chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và quyền lợi chính đáng của người có đất nông nghiệp bị thu hồi; tình trạng nông dân không có đất là một vấn đề vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính chính trị – xã hội, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất lợi, không đơn giản và có tính dây chuyền với phát triển bền vững đất nước như thất nghiệp, di dân, “giàu tạm thời, nghèo bền vững”, tệ nạn xã hội, tâm lý mất niềm tin vào chính quyền.
Bài viết “Bất cập trong quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục THĐ vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng” của tác giả Châu Hoàn Thân – Tạp chí Khoa học, số 44 (2016). Bài viết chỉ ra những bất cập về trình tự, thủ tục THĐ của LĐĐ năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành, đó là có nhiều văn bản quy định về nội dung này, hạn chế trong quy định về hội đồng bồi thường, hỗ trợ và TĐC; quy định về trình tự, thủ tục THĐ chưa thống nhất.
Đề tài khoa học cấp bộ (2017) “Cơ chế pháp lý bảo đảm thực hiện nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do NN đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” của Viện Khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp) do tác giả Võ Đình Toàn làm chủ nhiệm. Khi đánh giá thực tế vận hành cơ chế pháp lý bảo đảm nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do NN đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý từ thực tiễn thực hiện THĐ và công tác bồi thường, hỗ trợ, TĐC, đề tài nhận định việc THĐ theo LĐĐ năm 2013 đã khắc phục được tình trạng THĐ tràn lan như trước, sàng lọc được các nhà đầu tư có năng lực bảo đảm đưa đất vào sử dụng, không để đất đai lãng phí; các quy định về bồi thường, hỗ trợ, TĐC từng bước được điều chỉnh, bổ sung phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế thị trường, bảo đảm tốt hơn quyền lợi hợp pháp của người bị THĐ. Bên cạnh những ưu điểm, việc THĐ còn một số hạn chế như căn cứ THĐ để phát triển kinh tế – xã hội tạo điều kiện cho các nhà đầu thư THĐ ồ ạt để “ôm đất”, “giữ đất” để bán kiếm lời, nhiều dự án “treo” cũng sinh ra từ đây trong khi người dân không có đất để sinh sống và sản xuất phải di cư tự phát đến đô thị hoặc xuất khẩu lao động; có nhiều dự án phát triển kinh tế – xã hội tương tự nhau nhưng có dự án chính quyền đứng ra THĐ, có dự án doanh nghiệp thỏa thuận với người SDĐ; giá đất nông nghiệp được bồi thường thấp hơn rất nhiều giá thị trường mang lại lợi ích cho nhà đầu tư nhưng thiệt hại cho người bị THĐ.
Các bài viết sau đây được đăng trong Kỷ yếu hội thảo quốc tế “Chính sách, pháp luật TĐC: Từ lý thuyết đến thực tiễn” do Trường Đại học Luật – Đại học Huế và Trường Kinh doanh – Đại học QUEENSLAND (Australia) tổ chức ngày 14/12/2017 tại Thừa
20
Thiên Huế: Bài viết “Chính sách quản lý TĐC ở Việt Nam: Lý thuyết và thực tiễn” của tác giả Võ Thị Phương Mai; bài viết “Những hạn chế, bất cập của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi THĐ ở Việt Nam – Một số gợi mở cải cách theo hướng phát triển bền vững” của tác giả Đặng Công Cường; bài viết “Một số giải pháp bảo đảm thực hiện tốt chính sách TĐC trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế” của tác giả Trần Việt Dũng và Trần Ngọc Thúy; bài viết “Vấn đề lập dự án TĐC và các bảo đảm hậu TĐC theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Lê Ngọc Đoàn và Lê Thị Thìn; bài viết “Các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục THĐ, đất nông nghiệp để phát triển kinh tế – xã hội và hỗ trợ, TĐC: Những vướng mắc và một số giải pháp” của tác giả Nguyễn Văn Đông; bài viết “Thực trạng, giải pháp cơ chế quản lý, chính sách TĐC cho người dân bị ảnh hưởng bởi dự án thủy điện” của tác giả Trần Thị Diệu Hương; bài viết “Những vướng mắc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về TĐC – Qua thực tiễn tại một số dự án ở khu vực Trung Trung bộ” của tác giả Đoàn Đức Lương và Nguyễn Lương Sỹ; bài viết “Những bất cập trong chính sách, pháp luật Việt Nam về TĐC” của tác giả Lê Thị Nga; bài viết “Thực trạng và giải pháp cho công tác TĐC các công trình thủy điện ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Trinh; bài viết “Một số vướng mắc trong công tác bồi thường, hỗ trợ, TĐC và giải pháp hoàn thiện” của tác giả Đặng Thị Hà; bài viết “Những vướng mắc trong công tác bồi thường, hỗ trợ và TĐC trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế và vấn đề hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Thị Nữ; bài viết “Áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế” của tác giả Nguyễn Duy Phương; bài viết “Thực thi chính sách bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ qua thực tiễn địa bàn huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế” của tác giả Lê Thị Thảo; bài viết “Quyền tiếp cận thông tin của công dân trong việc THĐ, bồi thường và hỗ trợ TĐC” của tác giả Bùi Thuận Ánh; bài viết “TĐC cho người dân tộc thiểu số ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hữu Khánh Linh; bài viết “TĐC tại Việt Nam: Bảo vệ quyền con người và ứng phó với biến đổi khí hậu” của tác giả Nguyễn Ngọc Thanh Hà; bài viết “Đánh giá tác động giới (GIA) cho trường hợp các công trình thủy điện tại Miền trung và Tây nguyên Việt Nam” của tác giả Phạm Thị Diệu My; bài viết “Đảm bảo cư dân tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản tại khu TĐC – Thực tiễn nghiên cứu tại khu TĐC Hương Sơ, Thừa Thiên Huế” của tác giả Trương Thị Yến và Trần Thị Diệu Hà.
Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau như phân tích các quy định hiện hành về TĐC, tiếp cận thực trạng TĐC tại một số địa phương, vùng kinh tế hoặc dự án cụ thể, các tác giả đã phân tích một cách khá toàn diện các quy định hiện hành về TĐC; đánh
21
giá thực trạng các công trình TĐC, hạ tầng TĐC; phân tích nhu cầu của người dân TĐC về đất sản xuất, về công ăn việc làm, về quyền tiếp cận thông tin, các dịch vụ xã hội cơ bản tại khu TĐC; TĐC cho người dân tộc thiểu số. Từ những phân tích này, các tác giả đã chỉ ra hàng loạt bất cập về thực trạng TĐC hiện nay, đó là: Công trình TĐC kém chất lượng; các khu TĐC thiếu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội; người dân TĐC không có đất nông nghiệp để sản xuất dẫn đến bỏ nơi TĐC để quay về chỗ ở cũ; việc bồi thường, hỗ trợ, cấp đất sản xuất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) chậm trễ; diện tích đất ở TĐC không đủ cho nhu cầu ở của các hộ gia đình (HGĐ) đông người; khu TĐC không đảm bảo an ninh, thiếu điện, thiếu nước; dịch vụ y tế, văn hóa, giáo dục không đảm bảo; công trình TĐC không phù hợp với phong tục, tập quán của từng vùng, miền; không gian văn hóa, tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo không được đảm bảo; công tác hậu TĐC chưa được chú trọng … Các tác giả cũng đề xuất nhiều giải pháp giải quyết những bất cập này để đạt đến mục tiêu người dân TĐC phải có cuộc sống bằng hoặc tốt hơn trước khi bị THĐ.
Bài viết „Xác định giá trị bồi thường đối với nhà, công trình xây dựng khi NNTHĐ” của tác giả Trần Vang Phủ – Tạp chí Nhà nước & Pháp luật số 2 (2018). Từ việc phân tích các nguyên tắc chung áp dụng bồi thường về nhà, công trình xây dựng trên đất khi THĐ và chỉ ra những bất cập, tác giả kiến nghị bổ sung các quy định như xác định giá trị đối với các công trình có giá trị tâm linh, lịch sử cũng như bồi thường đối với các thiệt hại gắn liền với việc bồi thường các nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất.
1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu về nâng cao hiệu quả thực thi và hoàn
thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Bài viết “Những điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ – thực trạng và kiến nghị” của tác giả Nguyễn Quang Tuyến – Kỷ yếu hội thảo khoa học “Thi hành pháp luật về đất đai ở Việt Nam hiện nay – thực trạng và những giải pháp hoàn thiện” do Viện Nghiên cứu Lập pháp và Viện ROSA Luxemburg (Cộng hòa Liên bang Đức) tổ chức – Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân (2011). Trên cơ sở phân tích, nhận diện những điều kiện cơ bản cho việc thực hiện chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ, những kết quả đạt được và những hạn chế, khiếm khuyết và nguyên nhân của những hạn chế, khiếm khuyến, tác giả kiến nghị các biện pháp tạo cơ chế để cộng đồng dân cư và người bị THĐ tham gia trực tiếp vào quá trình THĐ, bồi thường và TĐC như: i) Nâng cao năng lực của bộ máy quản lý đất đai; ii) Nâng cao nhận thức cộng đồng về pháp luật đất đai; iii) Tăng cường kiểm tra, giám sát về việc bồi thường, hỗ trợ, TĐC; iv) Tạo cơ chế để
22
cộng đồng dân cư và người bị THĐ tham gia trực tiếp vào quá trình thu hồi, bồi thường, hỗ trợ và TĐC; v) Sửa đổi, bổ sung các quy định về địa vị pháp lý của Trung tâm phát triển quỹ đất.
Bài viết “Công khai, minh bạch để bảo vệ quyền lợi của người bị THĐ” của tác giả Nguyễn Quang Tuyến – Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 2/2012. Bài viết phân tích các ưu điểm, hạn chế của LĐĐ năm 2003 về sự công khai, minh bạch trong các quy định về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ; thực trạng công khai, minh bạch trong thực thi các quy định về bồi thường, giải phóng mặt bằng. Từ việc phân tích này, tác giả đưa ra năm giải pháp để nâng cao tính công khai, minh bạch khi NNTHĐ, bao gồm: i) Bổ sung yếu tố công khai trong nguyên tắc THĐ; ii) NNTHĐ để tạo ra các quỹ đất sạch và giao cho Trung tâm phát triển quỹ đất thực hiện việc bồi thường; iii) Xã hội hóa dịch vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng; iv) Quy định giá tính bồi thường theo thời điểm trả tiền bồi thường trên thực tế, quy định cụ thể điều kiện “khu TĐC có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ”; v) Thành lập quỹ trợ cấp thất nghiệp, quỹ giải quyết việc làm cho nông dân bị THĐ nông nghiệp.
Bài viết “Các giải pháp đảm bảo quyền có việc làm của hộ nông dân bị THĐ” của tác giả Nguyễn Thanh Tuấn – Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số T9/2012. Tác giả đưa ra các giải pháp để đảm bảo quyền có việc làm của các hộ nông dân khi bị THĐ nông nghiệp phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, bao gồm: i) Xây dựng và phát triển một chương trình về đào tạo nghề cho những người thuộc diện THĐ để phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện chiến lược phát triển nông thôn; ii) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thị trường lao động cho những người lao động là nông dân khi gia nhập vào thị trường lao động tự do sau khi bị THĐ; iii) Hạn chế số hộ nông dân bị THĐ.
Bài viết “Hoàn thiện pháp luật về THĐ, bồi thường, hỗ trợ, TĐC trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Phan Trung Hiền – Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 23/2012; Bài viết “Kiến nghị hoàn thiện cơ sở hiến định về THĐ, bồi thường, hỗ trợ và TĐC” của tác giả Phan Trung Hiền – Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 3/2013. Các bài viết tập trung phân tích một số ưu điểm, hạn chế của các quy định về THĐ, bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi NNTHĐ trong LĐĐ năm 2003, phân tích sự tiến bộ đã được ghi nhận trong dự thảo Hiến pháp năm 2013 liên quan đến đất đai, từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định này, như: i) Xây dựng cơ sở hiến định và hoàn thiện cơ sở pháp định về THĐ trong trường hợp THĐ tự nguyện; luật hóa về trình tự, thủ tục THĐ; ii) Xây dựng các quy định về bồi thường tài sản vô hình; iii) Hoàn thiện các quy định về hỗ trợ theo hướng tập trung, thống nhất và hiệu quả, tránh việc tùy tiện và không công bằng; iv) Quy định cụ
23
thể về khái niệm “khu TĐC có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ”; v) Bảo đảm bồi thường về đất là giá giao dịch trên thị trường; vi) Bảo đảm người bị THĐ ở có đủ điều kiện lựa chọn nơi ở mới.
Bài viết “Giải quyết việc làm, ổn định thu nhập cho người dân khi THĐ nông nghiệp” của tác giả Đàm Khắc Cử – Tạp chí Cộng sản, số 68 (8-2012). Bài viết chỉ ra thực trạng mặc dù NN đã có khá nhiều chủ trương, chính sách tạo việc làm cho người dân thuộc diện THĐ nhưng tình hình vẫn chưa được cải thiện. Nguyên nhân là do nông dân trình độ hạn chế, các chính sách và quy định của pháp luật về hỗ trợ việc làm còn nhiều hạn chế. Từ đó tác giả đưa ra các kiến nghị về cơ chế thực thi và hoàn thiện các quy định của pháp luật về THĐ, như công khai hóa kế hoạch SDĐ nông nghiệp, đào tạo nghề cho người nông dân bị THĐ, cần có quy định cụ thể về trách nhiệm giải quyết việc làm cho nông dân bị THĐ.
Cuốn sách “Giải phóng mặt bằng ở Hà Nội – hệ lụy và hướng giải quyết” của các tác giả Nguyễn Chí Mỳ, Nguyễn Ngọc Bắc, Hoàng Xuân Nghĩa, Nguyễn Thanh Đình, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật (2012). Từ việc đánh giá các tác động tích cực, tiêu cực; đánh giá các vấn đề giải phóng mặt bằng và hậu giải phóng mặt bằng ở Hà Nội, nhóm tác giả đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác giải phóng mặt bằng, bao gồm: i) Giải pháp về tư tưởng, nhận thức, tuyên truyền giáo dục; ii) Giải pháp về hoàn thiện pháp luật, chính sách về bồi thường khi NNTHĐ; iii) Giải pháp về cơ chế đền bù theo giá thị trường trong điều kiện bình thường; iv) Giải pháp về quy hoạch và cải cách hành chính; v) Giải pháp về TĐC và ổn định cuộc sống; vi) Giải pháp về đào tạo nghề và bố trí việc làm; vii) Giải pháp về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ổn định tâm lý, tập quán, lối sống, văn hóa; viii) Giải pháp về hậu kiểm và xử lý dự án “treo”.
Bài viết “Đảm bảo quyền con người trong các quyết định hành chính về bồi
thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ” của tác giả Cao Vũ Minh – Tạp chí Luật học, số
1/2013. Từ việc chỉ ra thực trạng ban hành quyết định hành chính về bồi thường, hỗ trợ, TĐC trong nhiều trường hợp chưa đảm bảo tính hợp pháp (chưa đúng thẩm quyền, không đúng hình thức, không phù hợp với pháp luật và quyết định của cấp trên), vi phạm tính hợp lý (không rõ ràng về ngôn ngữ, văn phong, chưa hợp lý về giá bồi thường) dẫn đến quyền lợi của người bị THĐ bị xâm phạm, tác giả kiến nghị các quyết định hành chính liên quan đến bồi thường khi NNTHĐ phải đảm bảo tính hợp pháp như cần có cơ chế đặc biệt để giám sát các quyết định này, thậm chí đối với các quyết định mang tính quy phạm không hợp pháp thì người dân cũng có quyền khiếu nại.
24
Luận án tiến sĩ của Phạm Thu Thủy: “Pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ nông nghiệp ở Việt Nam”, bảo vệ năm 2014. Tác giả nêu ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi như sau: i) Quy định về nguyên tắc tính giá bồi thường theo thời điểm bồi thường trên thực tế; ii) Hoàn thiện quy định về cơ chế xác định giá đất khi bồi thường đất nông nghiệp; iii) Hoàn thiện các quy định liên quan đến điều kiện bồi thường khi NNTHĐ nông nghiệp; iv) Hoàn thiện quy định về việc NN điều tiết một phần lợi ích từ việc thu hồi, chuyển mục đích SDĐ để thực hiện các khoản hỗ trợ cho người SDĐ; v) Hoàn thiện quy định về trình tự, thủ tục thu hồi và bồi thường khi NNTHĐ nông nghiệp; vi) Hoàn thiện quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo về bồi thường khi NNTHĐ nông nghiệp; vii) Hoàn thiện các chính sách về hỗ trợ, giải quyết việc làm cho nông dân bị THĐ; viii) Đẩy mạnh công khai hóa, minh bạch hóa quá trình thu hồi và bồi thường; ix) Đẩy nhanh công tác cấp GCNQSDĐ; x) Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật đất đai và thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm; xi) Thực hiện nghiêm công tác quy hoạch, kế hoạch SDĐ.
Luận án tiến sĩ của Đào Trung Chính: “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất đổi mới pháp luật về THĐ, bồi thường, hỗ trợ và TĐC”, bảo vệ năm 2014. Tác giả đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ và TĐC như sau: i) Thiết kế chính sách THĐ, bồi thường, hỗ trợ và TĐC phải trên cơ sở nhận thức đầy đủ, toàn diện vai trò của đất đai; ii) Làm rõ mục đích THĐ để phát triển kinh tế theo LĐĐ
2003 và làm rõ quan hệ lợi ích giữa NN, nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi; iii) hỗ trợ đầy đủ cho cho người bị THĐ để ổn định đời sống, chuyển đổi việc làm và bù đắp thiệt hại về thu nhập; iv) Khu TĐC phải được quy hoạch gắn với điều kiện thuận lợi về hạ tầng phục vụ đời sống.
Cuốn sách “Việc làm cho người lao động bị THĐ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa ở các vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ” của các tác giả Trần Đình Chín và Nguyễn Dũng Anh (đồng chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
– Sự thật (2014). Tại Chương II, các tác giả tập trung nghiên cứu 5 tỉnh của vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ là Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và chỉ ra thực trạng còn nhiều hạn chế trong việc tạo việc làm cho người lao động bị THĐ. Từ những hạn chế này, các tác giả đưa ra các giải pháp để giải quyết việc làm cho người bị THĐ như: i) Rà soát, hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch đất nông nghiệp phải giải tỏa; ii) Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa ngành, nghề đào tạo; iii) Hoàn thiện cơ chế giải quyết việc làm cho người bị THĐ; iv) Tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, từ