LA31.011_Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Khi cạnh tranh trong thương mại trở thành vấn đề toàn cầu thì pháp luật điều tiết cạnh tranh cũng không còn là vấn đề nội bộ của các quốc gia. Vì thế, các chế định về phòng vệ thương mại đã trở thành nội dung quan trọng trong khuôn khổ pháp luật về thương mại quốc tế của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong đó, chế định pháp luật về chống bán phá giá luôn có vị trí quan trọng và được các nước áp dụng khá phổ biến để bảo vệ các ngành sản xuất trong nước trước áp lực cạnh tranh từ hàng hóa nhập khẩu bán phá giá. Tại Việt Nam, pháp luật về chống bán phá giá đã có những bước phát triển nhất định với việc ban hành Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004. Lần đầu tiên các quy định về bán phá giá và chống bán phá giá được ghi nhận trong một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao là Pháp lệnh.
Tuy nhiên, do vấn đề chống bán phá giá còn mới trong khoa học pháp lý và việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nước, việc tiếp nhận pháp luật của WTO vào pháp luật nội địa còn nhiều hạn chế nên các quy định trong Pháp lệnh chống bán phá giá còn nhiều điểm chưa hợp lý, các quy định còn đơn giản và mang tính nguyên tắc, nhiều nội dung quan trọng chưa được quy định hoặc chưa được giải quyết triệt để. Sự đơn giản và thiếu hoàn chỉnh của pháp luật là một trong những nguyên nhân lớn làm giảm khả năng thực thi của pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu. Từ khi được ban hành cho đến nay, Pháp lệnh chống bán phá giá chưa được áp dụng trong thực tiễn. Nghị quyết 08/NQ/TW ngày 05 tháng 02 năm 2007 của Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới có nhận định một trong những thách thức lớn đối với Việt Nam là nước ta phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt hơn trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. Các sản phẩm và doanh nghiệp của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với các sản phẩm và doanh nghiệp nước ngoài không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay trên thị trường trong nước [2, tr 1]. Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện các công cụ pháp lý cần thiết và phụ hợp với các nguyên tắc, quy định của WTO nhằm bảo vệ sản phẩm, doanh nghiệp Việt Nam ngay trên thị trường trong nước trước những hành vi cạnh tranh không công bằng của doanh nghiệp nước ngoài là một trong những nội dung quan trọng đảm bảo cho hội nhập kinh tế quốc tế thành công.
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO vào năm 2007. Yêu cầu về sự tương thích giữa pháp luật nội địa và các chuẩn mực pháp lý của WTO là một trong những đòi hỏi buộc chúng ta phải cam kết và triệt để tuân thủ. Hiệp định chống bán phá giá của WTO năm 1994 ADA) đã quy định những căn cứ xác định hiện tượng bán phá giá, xác định thiệt hại vật chất và đặt ra những nguyên tắc cho việc điều tra, xử lý vụ việc chống bán phá giá. Các quy định này đã và đang trở thành chuẩn mực chung cho pháp luật của các quốc gia thành viên. Các quốc gia có quyền xây dựng quy trình điều tra, xử lý vụ việc và xây dựng bộ máy thực thi pháp luật dựa trên những nguyên tắc đã được ghi nhận trong ADA. Hiện nay, các vấn đề pháp lý về chống bán phá giá đang được các quốc gia thành viên WTO đề xuất sửa đổi và hoàn thiện trong các vòng đàm phán Doha. Dù kết quả đàm phán chưa đạt được sự thống nhất cần thiết để sửa đổi pháp luật song cũng cho thấy khả năng phát triển của lĩnh vực
pháp luật này. Việc nghiên cứu và tiếp thu pháp luật của WTO vào pháp luật Việt Nam và định hướng cho sự phát triển của lĩnh vực pháp luật này trong tương lai là cần thiết không chỉ nhằm bảo đảm sự tương thích mà còn đảm bảo khả năng thực thi của pháp luật trên thực tế.
Nghiên cứu về bản chất pháp lý của hành vi bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và chống bán phá giá tại Việt Nam đặt ra nhiều vấn đề phức tạp cả về lý luận và thực tiễn do chúng ta tiếp cận lĩnh vực pháp luật này trong bối cảnh đặc biệt. Các quy định trong Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004 được xây dựng từ kết quả tiếp thu một cách đơn giản và chưa đầy đủ pháp luật WTO cũng như
pháp luật các nước nên các vấn đề lý luận về vấn đề này vẫn còn bỏ ngỏ trong khoa học pháp lý.
Từ những lý do trên tác giả đã lựa chọn đề tài “Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam” làm đề tài luận án. Việc nghiên cứu cơ sở lý luận và các vấn đề đặt ra từ thực tiễn pháp luật chống bán phá giá không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có giá trị thực tiễn sâu sắc