LA17.050_Nghiên cứu hệ thống thông tin phục vụ công tác đào tạo tại các trƣờng đại học khối kỹ thuật ở Việt Nam
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm đổi mới đất nƣớc, giáo dục và đào tạo (GDĐT) có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội: GDĐT đƣợc coi là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nƣớc, của toàn dân. Cùng với khoa học và công nghệ (KHCN), GDĐT đƣợc coi là quốc sách hàng đầu, là nhân tố quyết định sự tăng trƣởng kinh tế và phát triển xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nƣớc. Chính vì vậy, Đảng và Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm tới sự đổi mới, phát triển GDĐT, thể hiện ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật đƣợc ban hành, tiêu biểu là Nghị quyết 29/NQ/TW Hội nghị TW8 (Khóa XI) ngày 4/11/2013. Nghị quyết đặt ra yêu cầu ngành GDĐT phải đổi mới căn bản, toàn diện nhằm nâng cao chất lƣợng đào tạo, nghiên cứu khoa học (NCKH) [25]. Trong chỉ thị số 02/CTTTg của Thủ tƣớng Chính phủ cũng đã nhấn mạnh: “Bất cứ quốc gia nào, Việt Nam không nằm ngoại lệ, giáo dục là nền tảng để phát triển CNH, HĐH” [18].
Để phát triển GDĐT, hoạt động thông tin thƣ viện (HĐTTTV) đóng vai trò quan trọng. Ở góc độ quản lí nhà nƣớc, Bộ GDĐT đã có Quyết định 65/2007/QĐBGDĐT về tiêu chuẩn đánh giá chất lƣợng giáo dục trƣờng đại học (ĐH), trong đó ở tiêu chuẩn số 9 về thƣ viện đã chỉ rõ: “Thƣ viện của trƣờng ĐH có đầy đủ sách, giáo trình, tài liệu tham khảo tiếng Việt và tiếng nƣớc ngoài đáp ứng yêu cầu sử dụng của cán bộ, giảng viên và ngƣời học. Có thƣ viện điện tử đƣợc nối mạng, phục vụ dạy, học và NCKH có hiệu quả” [3]. Đặc biệt, trong những năm đổi mới giáo dục đại học (GDĐH), nhiều trƣờng ĐH trong cả nƣớc đã chuyển từ phƣơng thức đào tạo theo niên chế sang phƣơng thức đào tạo theo học chế tín chỉ. Một trong yêu cầu của đào tạo theo học chế tín chỉ là giảm đáng kể giờ lên lớp lý thuyết và tăng số giờ thảo luận, thí nghiệm, thực hành. Thời lƣợng tự học của sinh viên tăng gấp đôi so với đào tạo theo niên chế [2]. Để thực hiện tốt các hƣớng dẫn chỉ đạo nói trên, yêu cầu cấp bách đối với hoạt động thông tin thƣ viện (HĐTTTV), vốn đƣợc coi là “giảng đƣờng thứ hai” của trƣờng ĐH, cần nâng cao năng lực đảm bảo thông tin cho quá trình đào tạo và nghiên cứu khoa học (NCKH) của các trƣờng, góp phần tích cực vào việc phát triển nguồn nhân lực trình độ cao [14].
Tuy nhiên, trên thực tế, mạng lƣới cơ quan thông tin thƣ viện (CQTTTV) hiện nay còn nhiều bất cập, thể hiện ở mọi phƣơng diện: từ mô hình tổ chức, phƣơng thức hoạt động đến các quy trình nghiệp vụ. Tại các trƣờng ĐH, tổ chức thông tin thƣ viện dù đã có nhiều năm hoạt động song vẫn còn nhiều hạn chế về năng lực mà một trong những nguyên nhân căn bản của thực trạng này là do CQTTTV các trƣờng ĐH hiện nay, hoạt động còn mang tính riêng rẽ, chƣa thành hệ thống, chƣa có sự hợp tác chia sẻ các nguồn lực với nhau để nâng cao chất lƣợng đảm bảo thông tin cho ngƣời dùng tin (NDT). Ngoài ra, qui trình và phƣơng thức tổ chức HĐTTTV chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của một hệ thống thông tin thƣ viện (HTTTTV) đích thực của các trƣờng đã dẫn đến chất lƣợng HĐTTTV thấp kém nhƣ: thu thập thông tin trùng lặp, việc xử lí thông tin (XLTT) còn chồng chéo, cung cấp thông tin chƣa đầy đủ và không kịp thời. Từ đó hiệu quả của HĐTTTV trong các trƣờng ĐH chƣa cao, uy tín và vai trò của thông tin thƣ viện (TTTV) chƣa đƣợc khẳng định trong các trƣờng ĐH của nƣớc ta hiện nay.
Hoạt động thông tin thƣ viện có nhiệm vụ là phục vụ tốt qui trình đào tạo, NCKH của trƣờng ĐH. Các trƣờng cùng khối kỹ thuật có nhiều ngành nghề đào tạo, môn học giống nhau hoặc gần giống nhau. Điều đó đặt ra cho các CQTTTV tại các đại học kỹ thuật (ĐHKT) những cơ hội và thách thức to lớn khi xây dựng đƣợc một HTTT để hợp tác, chia sẻ các nguồn lực, tạo nên một nguồn thông tin phong phú, đa dạng, có khả năng đáp ứng cao nhu cầu tin (NCT) của NDT trong các trƣờng ĐHKT, cũng nhƣ có đủ năng lực đáp ứng yêu cầu đổi mới GDĐT. Từ lý thuyết hệ thống và thực tiễn HĐTTTV cho thấy: HTTT là công cụ hữu hiệu để giải quyết vấn đề đảm bảo thông tin cho các hoạt động kinh tế – xã hội. Trên thế giới, nhiều quốc gia đã có những chƣơng trình hỗ trợ cho các trƣờng ĐH trong việc xây dựng HTTT phục vụ đào tạo trên cơ sở tích hợp và hợp tác về mặt tổ chức và hoạt động các CQTTTV hiện có để có thể sử dụng đƣợc mọi nguồn lực của các đơn vị thành viên. HTTT các trƣờng ĐH trên thế giới hoạt động theo xu thế li ên kết chia sẻ các HĐTTTV thông qua việc trao đổi, tích hợp nguồn lực thông tin (NLTT). Ứng dụng lý thuyết hệ thống vào HĐTTTV từ các trƣờng ĐH đòi hỏi trƣớc hết các trƣờng cùng khối ngành, mà ở đây là các trƣờng ĐHKT phải đƣợc kết nối thành hệ thống để khai thác, chia sẻ đầy đủ các nguồn lực của các thành viên với nhau, từng bƣớc tiến tới có quan hệ trao đổi, hợp tác khai thác, sử dụng thông tin, tƣ liệu với HTTT các trƣờng ĐH lớn ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dƣơng và thế giới. Có thể nói trên cả bình diện khoa học lẫn thực tiễn việc xây dựng HTTT các trƣờng ĐHKT trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế về GDĐH hiện nay là vấn đề rất cần thiết.
Nhƣ vậy, việc nghiên cứu, xây dựng HTTT các trƣờng ĐHKT dù có cấp thiết, song cho đến nay chƣa có đề tài nào nghiên cứu toàn diện tại các trƣờng ĐH ở Việt Nam. Đề tài luận án đƣợc tác giả tiến hành với mong muốn góp phần giải quyết vấn đề vừa có tính khoa học và thực tiễn nói trên. Vì những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Nghiên cứu hệ thống thông tin phục vụ công tác đào tạo tại các trƣờng đại học khối kỹ thuật ở Việt Nam” làm nội dung nghiên cứu trong luận án chuyên ngành khoa học TTTV của mình