LA09.067_Nghiên cứu tác động của công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận
(1). Đây là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam về ảnh hưởng công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến HQTC có tính đến đặc trưng bối cảnh Việt Nam để đo lường mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội, trong đó tác giả xây dựng danh sách kiểm tra thông tin trách nhiệm xã hội thông qua khảo sát thử các báo cáo thường niên, báo cáo phát triển bền vững của doanh nghiệp niêm yết Việt Nam.
(2). Luận án là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam thực hiện kiểm tra ảnh hưởng của công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến HQTC của các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam có tính đến sự khác biệt về thời gian với bối cảnh kinh tế trước và sau khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 bằng việc bổ sung thêm biến giả trong mô hình nghiên cứu.
(3). Về mô hình hồi quy, ngoài các phương pháp mà các nghiên cứu trước tại Việt Nam hay sử dụng trong nghiên cứu ảnh hưởng của công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến HQTC là mô hình tác động cố định (FEM), mô hình tác động ngẫu nhiên (REM), trong nghiên cứu này tác giả kiểm định bổ sung hồi quy hai giai đoạn (2 SLS), mô hình Moment tổng quát (GMM) trong mô hình có hiệu tượng nội sinh.
Những phát hiện rút ra từ kết quả nghiên cứu:
(1). Chỉ ra bằng chứng tại Việt Nam về ảnh hưởng tích cực của công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến HQTCDN với 2 chỉ tiêu đại diện là tỷ suất lợi nhuận trên tài sản ROA và giá trị DN Tobin’Q. Đồng thời nghiên cứu cũng chỉ ra sự khác biệt về ảnh hưởng này trong bối cảnh kinh tế khác nhau trong khoảng thời gian từ năm 2006 – 2016.
(2). Thông qua kiểm tra sự phù hợp của biến công cụ trong mô hình hồi quy 2 giai đoạn (2SLS). Nghiên cứu chỉ ra bằng chứng chất lượng kiểm toán và quy định của pháp luật ảnh hưởng tích cực đến mức độ công bố thông tin trách nhiệm xã hội của các DN niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Những đề xuất mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của luận án
Dựa trên kết quả nghiên cứu, Luận án đưa ra những khuyến nghị nhằm thúc đẩy thực hành và công bố thông tin trách nhiệm xã hội của các DN niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam:
– Đối với Nhà nước: (1). Chuẩn hóa những yêu cầu về công bố thông tin trách nhiệm xã hội, (2). Thể chế hóa việc công bố thông tin trách nhiệm xã hội trong hệ thống pháp luật Việt Nam đưa vào Luật DN, (3) Khuyến khích các DN thực hành và công bố thông tin trách nhiệm xã hội được đảm bảo bởi bên thứ ba, (4). Xây dựng bộ chỉ số đánh giá điểm công bố thông tin trách nhiệm xã hội đối với các DN niêm yết trên TTCK Việt Nam, (5) Khích lệ các DN thực hành và công bố thông tin trách nhiệm xã hội bằng việc tăng cường vai trò của các bên liên quan
– Đối với DN niêm yết: (1). Nâng cao nhận thức của DN về thực hành và công bố thông tin trách nhiệm xã hội,(2) Tranh thủ tư vấn của các tổ chức, chuyên gia các thông tin cần thiết hoặc cách thức thực hiện và công bố thông tin trách nhiệm xã hội, (3). Xây dựng, xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin kế toán
– Đối với các nhà đầu tư: Cần có sự am hiểu nhất định về TNXH, quan tâm xem xét đến thực tế thực hành TNXH ở các DN để giảm thiểu rủi ro không đáng có thể gặp phải trong quá trình đầu tư
1.1. Tổng quan nghiên cứu tác động của công bố thông tin trách nhiệm xã hội
đến hiệu quả tài chính …………………………………………………………………………………51.1.1. Sự khác biệt về nội dung thông tin TNXH DN………………………………………..51.1.2. Sự khác biệt đo lường hiệu quả tài chính doanh nghiệp…………………………….61.2. Khoảng trống nghiên cứu ……………………………………………………………………18Kết luận chương 1……………………………………………………………………………………….20CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG BỐ THÔNG TIN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI ĐẾN HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP…21
2.1. Lý luận chung về trách nhiệm xã hội và công bố thông tin trách nhiệm xã hội …..212.1.1. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp………………………………………………….212.1.2. Công bố thông tin trách nhiệm xã hội ………………………………………………….232.1.3. Đo lường công bố thông tin trách nhiệm xã hội …………………………………….28
2.2. Hiệu quả tài chính và các chỉ tiêu đo lường hiệu quả tài chính………………..32
2.2.1. Hiệu quả tài chính…………………………………………………………………………….32
2.2.2. Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả tài chính ………………………………………………32
2.3. Cơ sở lý thuyết mối quan hệ công bố thông tin trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính doanh nghiệp ……………………………………………………………………….35
2.3.1. Lý thuyết các bên liên quan ……………………………………………………………….35
2.3.2. Lý thuyết hợp pháp …………………………………………………………………………..37
2.3.3. Lý thuyết tín hiệu……………………………………………………………………………..38
Kết luận chương 2……………………………………………………………………………………….43
iv
CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU……………………………………………..44
3.1. Xây dựng giả thuyết nghiên cứu …………………………………………………………..44
3.2. Mô hình nghiên cứu…………………………………………………………………………….44
3.3. Xây dựng phương trình nghiên cứu định lượng …………………………………….49
3.4. Đo lường các biến trong mô hình nghiên cứu ………………………………………..51
3.4.1. Biến công bố thông tin trách nhiệm xã hội ……………………………………………51
3.4.2. Đo lường biến hiệu quả tài chính ………………………………………………………..62
3.4.3. Đo lường các biến kiểm soát………………………………………………………………63
3.5. Dữ liệu nghiên cứu ……………………………………………………………………………..63
3.6. Phương pháp hồi quy thực hiện trong nghiên cứu …………………………………65
3.6.1. Phương pháp hồi quy dữ liệu bảng………………………………………………………65
3.6.2. Trình tự thực hiện nghiên cứu định lượng …………………………………………….67
CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG BỐ THÔNG TIN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI ĐẾN HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM …………………………………………………………………….72
4.1. Đặc điểm thị trường chứng khoán Việt Nam và các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam ………………………………………………………72
4.1.1. Đặc điểm thị trường chứng khoán Việt Nam…………………………………………72
4.1.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam………………………………………………………………………………73
4.1.3. Hoạt động công bố thông tin và công bố thông tin trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam …………………………76
4.2. Thống kê mô tả dữ liệu………………………………………………………………………..78
4.2.1. Thống kê kết quả công bố thông tin trách nhiệm xã hội ………………………….78
4.2.2. Thống kê mô tả các biến ROA và TBQ………………………………………………..86
4.3. Phân tích tương quan ………………………………………………………………………….86
4.4. Phân tích hồi quy………………………………………………………………………………..87
4.4.1. Lựa chọn mô hình hồi quy với biến phụ thuộc ROA ………………………………87
4.4.2. Lựa chọn mô hình phù hợp với biến phụ thuộc TBQ………………………………89
4.4.3. Kiểm định kết quả hồi quy …………………………………………………………………90
4.4.4. Kết quả hồi quy các phương trình ……………………………………………………….95
Kết luận chương 4…………………………………………………………………………………….. 104
v
CHƯƠNG 5: THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, KHUYẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN ……………………………………………………………………………………………… 105
5.1 Thảo luận kết quả nghiên cứu ……………………………………………………………. 105
5.1.1. Thảo luận về xây dựng chỉ mục báo cáo trách nhiệm xã hôi………………….. 105
5.1.2. Thảo luận thực trạng công bố thông tin trách nhiệm xã hội …………………… 106
5.1.3. Thảo luận về tác động của công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả
tài chính doanh nghiệp…………………………………………………………………………….. 108
5.1.4. Thảo luận ảnh hưởng của pháp luật và chất lượng kiểm toán đến công bố
thông tin trách nhiệm xã hội …………………………………………………………………….. 110
5.2. Kiến nghị…………………………………………………………………………………………. 111
5.2.1. Đối với Nhà nước ………………………………………………………………………….. 111
5.2.2. Đối với DN niêm yết………………………………………………………………………. 114
5.2.3. Đối với các nhà đầu tư ……………………………………………………………………. 117
5.2.4. Đối với các bên quan khác của DN …………………………………………………… 117
5.3. Những đóng góp mới của luận án ………………………………………………………. 118
5.3.1. Về mặt khoa học và lý luận……………………………………………………………… 118
5.3.2. Về mặt thực tiễn ……………………………………………………………………………. 118
5.4. Hạn chế nghiên cứu ………………………………………………………………………….. 119
5.5. Hướng nghiên cứu trong tương lai …………………………………………………….. 120
Kết luận chương 5…………………………………………………………………………………….. 121
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………………………………… 122
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN …………………………. 123
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………… 125
PHỤ LỤC ………………………………………………………………………………………………… 139
vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Kí hiệu Tiếng Việt Tiếng Anh
2SLS Mô hình hồi quy hai giai đoạn Two-Stage Least Squares Regression
ACCA Hiệp hội kế toán công chứng
Anh quốc
AUDIT Chất lượng kiểm toán
CBTT Công bố thông tin
The Association of Chartered Certified
Accountants
CK Chứng khoán
COM Thông tin trách nhiệm với cộng đồng
Community responsibility information
COP Báo cáo tiến bộ Communication of Progress
CSRD Công bố thông tin trách nhiệm xã hội
CUS Thông tin trách nhiệm với khách hàng
DN Doanh nghiệp
EMP Thông tin trách nhiệm với lao động
Corporate social responsibility disclosure
Responsibilities to customers information
Employment responsibility information
ENV Thông tin trách nhiệm với
môi trường
Environmental responsibility information
EPS Thu nhập trên cổ phiếu Earning Per Share
FEM Mô hình ảnh hưởng cố định Fixed effects model
GLS Mô hình bình quân tối thiểu
tổng quát
Generalized Least Square regression model
GMM Phương pháp hồi quy GMM Generalized method of moment
GRI Sáng kiến báo cáo toàn cầu Global Reporting Initiative
GRW Tỷ lệ tăng trưởng Sale Growth Ratio
IFC Công ty tài chính quốc tế International Finance Corporation
vii
Kí hiệu Tiếng Việt Tiếng Anh
IIRC Hội đồng Báo cáo Tích hợp
quốc tế
International integrated reporting Council
ISO Bộ tiêu chuẩn quốc tế International Standards Organization
LAW Quy định pháp luật
LEV Đòn bẩy tài chính Financial leverage
OECD Tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế
Organization for Economic Co-operation
and Development
OLS Mô hình bình phương nhỏ nhất Pooded ordinary least square regression model
REM Mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên Remdom effects model
ROA Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản Return on Assets SIZE Quy mô doanh nghiệp Corporate size SX Sản xuất
TBQ Giá trị doanh nghiệp Tobin’Q TNXH Trách nhiệm xã hội
TTCK Thị trường chứng khoán
UNGC Hiệp ước toàn cầu của Liên hiệp quốc
VCCI Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
United Nations Global Compact
WB Ngân hàng thế giới World Bank
WBCSD Hội đồng doanh nghiệp vì sự
phát triển bền vững thế giới
World Business Council for Sustainable
Development
viii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Mười nguyên tắc thực hành trách nhiệm xã hội của UNGC được yêu cầu trình bày trong COP……………………………………………………………………….25
Bảng 2.2: Danh mục các nội dung thông tin trách nhiệm xã hội theo GRI4…………….26
Bảng 2.3: Các vấn đề trách nhiệm xã hội theo ISO 26000:2010……………………………27
Bảng 2.4: Nhóm các bên liên quan trọng yếu của DN …………………………………………37
Bảng 3.1: Bảng danh sách kiểm tra thông tin TNXH khảo sát thử…………………………54
Bảng 3.2: Bảng danh sách kiểm tra thông tin TNXH khảo sát………………………………59
Bảng 4.1: Tổng tài sản của các ngành niêm yết 2012 – 2016 ………………………………..74
Bảng 4.2: ROA của các ngành niêm yết giai đoạn 2012 – 2016…………………………….75
Bảng 4.3: Thống kê kết quả CBTT trung bình cuả các DN 2006 – 2016…………………78
Bảng 4.4: Thống kê kết quả CBTT TNXH………………………………………………………..80
Bảng 4.5: Ma trận tương quan giữa các biến ……………………………………………………..87
Bảng 4.6: Bảng tổng hợp kết quả hồi quy biến phụ thuộc ROA ……………………………88
Bảng 4.7: Bảng tổng hợp kết quả hồi quy biến phụ thuộc TBQ…………………………….89
Bảng 4.8: Kết quả kiểm định VIF với biến phụ thuộc ROA …………………………………90
Bảng 4.9: Kết quả kiểm định VIF với biến phụ thuộc TBQ………………………………….91
Bảng 4.10: Kết quả kiểm định phương sai thay đổi các mô hình …………………………..91
Bảng 4.11: Kết quả kiểm định hiện tượng tự tương quan các mô hình …………………..92
Bảng 4.12: Kết quả kiểm định hiện tượng nội sinh các mô hình……………………………94
Bảng 4.13: Bảng tổng hợp khuyết tật các mô hình ……………………………………………..95
Bảng 4.14: Kết quả hồi quy GMM mô hình 1 và 3 với biến phụ thuộc ROA ………….96
Bảng 4.15: Kết quả hồi quy GLS mô hình 4 biến phụ thuộc TBQ…………………………98
Bảng 4.16: Kết quả hồi quy mô hình giữa biến công cụ và biến nội sinh………………..99
Bảng 4.17: Kết quả hồi quy hai giai đoạn 2SLS mô hình 2 ……………………………….. 100
Bảng 4.18: Kết quả hồi quy GMM mô hình 5 với biến phụ thuộc ROA ………………. 101
Bảng 4.19: Kết quả hồi quy 2SLS mô hình 6 với biến phụ thuộc TBQ………………… 102
Bảng 5.1: Bảng tổng hợp và so sánh kết quả với giả thuyết……………………………….. 108
ix
DANH MỤC HÌNH VÀ SƠ ĐỒ
Hình 2.1: Mô hình TNXH của Freeman……………………………………………………………35
Hình 2.2: Mối quan hệ giữa CBTT TNXH và HQTC DN ……………………………………42
Hình 3.1: Mô hình nghiên cứu ………………………………………………………………………..45
Hình 4.1: Diễn biến thị trường giai đoạn 2000 – 2016 ………………………………………..73
Hình 4.2: DN niêm yết đạt chuẩn CBTT 2012 – 2017 …………………………………………76
Hình 4.3: Mức độ CBTT TNXH trung bình theo thành phần thông tin của DN năm
2006 – 2016…………………………………………………………………………………..79
Hình 4.4: DN niêm yết thực hiện CBTT TNXH riêng biệt 2006- 2016 ………………….81
Hình 4.5: Mức độ CBTT TNXH tại DN sản xuất và DN phi sản xuất 2006- 2016 …..82
Hình 4.6: Mức độ CBTT môi trường tại DN SX và DN phi SX 2006- 2016 …………..82
Hình 4.7: Mức độ CBTT lao động tại DN sản xuất và DN phi sản xuất 2006- 2016…83
Hình 4.8: Mức độ CBTT cộng đồng tại DN sản xuất và DN phi sản xuất 2006- 2016 ….84
Hình 4.9: Mức độ CBTT sản phẩm tại DN SX và DN phi SX 2006- 2016 ……………..85
Hình 4.10: TBQ và ROA trung bình của DN niêm yết năm 2006 – 2016………………..86
x
DANH MỤC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bằng chứng ảnh hưởng của công bố thông tin trách nhiệm xã hội tới giá trị
thị trường doanh nghiệp
Phụ lục 2: Bằng chứng ảnh hưởng của công bố thông tin trách nhiệm xã hội tới hiệu quả tài chính – theo số liệu kế toán
Phụ lục 3: Bằng chứng ảnh hưởng công bố thông tin trách nhiệm xã hội tới hiệu quả
tài chính tại Việt Nam
Phụ lục 4: Bảng danh sách doanh nghiệp lựa chọn khảo sát thử
Phụ lục 5: Danh sách doanh nghiệp trong mẫu khảo sát chính thức Phụ lục 6: Kết quả các kiểm định mô hình 1 – biến phụ thuộc ROA Phụ lục 7: Kết quả các kiểm định mô hình 3 – biến phụ thuộc ROA Phụ lục 8: Kết quả các kiểm định mô hình 2 – biến phụ thuộc TBQ Phụ lục 9: Kết quả các kiểm định mô hình 4 – biến phụ thuộc TBQ Phụ lục 10: Kết quả các kiểm định mô hình 5 – biến phụ thuộc TBQ Phụ lục 11: Kết quả các kiểm định mô hình 6 – biến phụ thuộc TBQ
1
1. Lý do chọn đề tài
PHẦN MỞ ĐẦU
Thông tin trách nhiệm xã hội (TNXH) của doanh nghiệp (DN) là một phần của thông tin phi tài chính công khai cho thấy các hoạt động tương tác của DN với xã hội và môi trường sống. Thông qua những thông tin này các bên liên quan có thể đánh giá mức độ thực hành TNXH của DN. Vì vậy CBTT TNXH DN có ý nghĩa rất lớn trong việc quảng bá hình ảnh của DN với các bên liên quan về các hoạt động TNXH của DN nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, thu hút đầu tư, cải thiện hiệu quả hoạt động của DN. Nhiều DN trên thế giới đã có những thành quả nhất định thông qua thực hành và CBTT TNXH của DN chẳng hạn như Microsoft trở thành tập đoàn công nghệ uy tín hàng đầu trên thế giới do hãng tư vấn toàn cầu Reputation Institute khảo sát năm 2012 với những chương trình hỗ trợ cộng đồng, chương trình từ thiện hay hãng giày thể thao Nike vực dậy sau thời gian doanh số tụt dốc với những cáo buộc và kiện cáo do những bê bối liên quan đến việc các nhà cung cấp của Nike bóc lột lao động với mức lương rẻ mạt nhờ vào việc công khai danh sách các nhà cung cấp của Nike để các tổ chức phi chính phủ có thể giám sát vào năm 2004. Thật vậy, những thành quả từ thực hành và CBTT này của các DN cũng đã được chứng minh bằng công trình khoa học của các nhà nghiên cứu trên thế giới: thực hành và CBTT TNXH giúp tạo dựng uy tín cho DN (Hess và cộng sự, 2002; Brammer and Millington, 2005; Yingjun Lu và cộng sự, 2015), gia tăng giá trị thị trường (Belkaoui, 1976; Frankle and Anderso,1980; Robert,1978; Martin Freedman and Stagliano, 1991; Berthelot và cộng sự, 2012; Clarkson và cộng sự, 2013; Klerk và cộng sự, 2015, Cahan và cộng sự, 2015), giảm thiểu chi phí vốn (Dhaliwal và cộng sự, 2011; Orens và công sự, 2010), tăng sự hài lòng của nhân viên (Kim và cộng sự,
2010). Chính nhờ những lợi ích như vậy mà thực hành và CBTT TNXH đã trở thành xu thế của thời đại giúp DN tồn tại và phát triển bền vững.
Tại Việt Nam, không nằm ngoài xu thế thế giới, Nhà nước và các DN ngày càng quan tâm đến TNXH DN nhằm mục tiêu phát triển bền vững. Nhà nước cũng đã có những cơ chế để hỗ trợ hướng dẫn các DN thực hiện và báo cáo các hoạt động trách nhiệm xã hội phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Chẳng hạn, năm 2012 Ủy ban Chứng khoán Nhà nước kết hợp với một số tổ chức như VCCI, IFC, ACCA, GRI đã đưa ra những hướng dẫn lập báo cáo phát triển bền vững dựa trên tiêu chuẩn báo cáo được sử dụng phổ biến trên toàn cầu. Năm 2015, đánh dấu sự gia tăng áp lực của phía Nhà nước đối với các DN Việt Nam đó là sự ra đời của Thông tư số 155/2015/TT- BTC ngày 6/10/2015 của Bộ Tài chính được xem là văn bản pháp lý đầu tiên về yêu
cầu CBTT về phát triển bền vững của các DN niêm yết. Về phía các DN Việt Nam,
K
2
trong những năm qua, hoạt động trách nhiệm xã hội đã được các DN lồng ghép phần nào vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng tập trung chủ yếu ở những DN niêm yết trên TTCK. Một số DN niêm yết đã tiên phong trong việc CBTT TNXH ngay cả khi chưa có quy định pháp lý yêu cầu bắt buộc lập báo cáo bền vững như Tập đoàn Bảo Việt, Công ty cổ phần Sữa Việt Nam, Công ty cổ phần chứng khoán TP Hồ Chí Minh, Công ty cổ phần Tập đoàn Hoa Sen.
Tuy nhiên câu hỏi đặt ra liệu có phải tất cả các DN Việt Nam đều quan tâm và thực hành tốt CBTT TNXH và liệu rằng thực hành và CBTT TNXH có mang lại những lợi ích cho các DN Việt Nam như các bằng chứng trên thế giới đã chỉ ra. Để tìm hiểu câu trả lời này nhiều nhà nghiên cứu cũng đã thực hiện khảo sát các DN Việt Nam và cung cấp bằng chứng rằng TNXH làm nâng cao HQTC (Châu Thị Lệ Duyên,
2013; Trần Thị Hoàng Yến, 2016), gia tăng lòng trung thành của khách hàng (Nguyễn Thị Anh Bình và Phạm Long, 2015), ảnh hưởng đến hành vi mua hàng của người tiêu dùng (Nguyễn Phương Mai, 2015). Bên cạnh đó cũng có một số nghiên cứu về CBTT TNXH cho thấy CBTT TNXH ảnh hưởng đến HQTC DN chẳng hạn như nghiên cứu của Ho Ngoc Thao Trang and Liafisu Sina Yekini (2014), Nguyễn Thị Bích Ngọc và cộng sự (2015), Nguyễn Xuân Hưng và Trịnh Hiệp Thiện (2016), Tạ Thị Thúy Hằng (2017), Hồ Thị Vân Anh (2018). Tuy nhiên các nghiên cứu này có kết quả nghiên cứu không đồng nhất và mới chỉ dừng lại ở mẫu có số lượng quan sát nhỏ, thời gian nghiên cứu ngắn và chỉ dừng lại ở việc sử dụng hồi quy đa biến thông thường (OLS, FEM, REM) để tìm hiểu ảnh hưởng của CBTT TNXH đến HQTC DN mà chưa giải quyết hiện tượng nội sinh trong mô hình nghiên cứu do biến CBTT TNXH và HQTC có thể có mối quan hệ tương quan hai chiều. Đồng thời do môi trường thực hành và CBTT TNXH ở Việt Nam ngày càng được gia tăng nhưng chưa có nghiên cứu nào thực hiện xem liệu sự gia tăng này có kéo theo sự gia tăng của HQTC DN hay không. Vì vậy việc sử dụng phương pháp ước lượng mô hình bổ sung nhằm khắc phục hiện tượng nội sinh giữa các biến và tìm kiếm sự khác biệt theo thời gian về ảnh hưởng của CBTT TNXH đến HQTC DN là việc cần thiết để khẳng định kết luận về ảnh hưởng của CBTT TNXH đến HQTC DN đầy đủ và đáng tin cậy hơn.
Từ những lý do trên, tác giả thấy rằng cần phải mở rộng các nghiên cứu trước đây về ảnh hưởng của CBTT TNXH đến HQTC DN đưa ra kết luận rõ ràng và đáng tin cậy hơn. Đó chính là lý do tác giả chọn đề tài “Nghiên cứu tác động của công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” làm đối tượng nghiên cứu chính cho nghiên
cứu này.
K
3
2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu của luận án
2.1. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Như đã trình bày ở phần lý do chọn đề tài, mục tiêu cơ bản của nghiên cứu này là tìm hiểu ảnh hưởng của CBTT TNXH đến HQTC của các DN niêm yết trên TTCK Việt Nam. Từ mục tiêu cơ bản đó, các mục tiêu cụ thể của nghiên cứu này được xác định là:
– Tính toán và đo lường mức độ CBTT TNXH trong các DN niêm yết trên
TTCK Việt Nam trong giai đoạn 2006 -2016
– Tìm kiếm sự khác biệt CBTT TNXH tại các DN sản xuất và DN phi sản xuất niêm yết trên TTCK Việt Nam
– Tìm kiếm ảnh hưởng của CBTT TNXH tới HQTC của DN niêm yết trên
TTCK Việt Nam
– Đưa ra những kết luận và kiến nghị nhằm tăng cường CBTT TNXH góp phần nâng cao HQTC tại niêm yết trên TTCK Việt Nam.
2.2. Câu hỏi nghiên cứu của luận án
Từ mục tiêu nghiên cứu đề ra, luận án xác định các câu hỏi nghiên cứu:
1. Có sự khác biệt giữa CBTT TNXH của các DN sản xuất và DN phi sản xuất trên TTCK Việt Nam hay không?
2. CBTT TNXH có ảnh hưởng đến HQTC của các DN niêm yết trên trên TTCK Việt Nam hay không? Ảnh hưởng này có sự khác biệt ở khoảng thời gian khác nhau hay không? CBTT TNXH năm trước có ảnh hưởng đến HQTC năm tiếp theo hay không?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của Luận án:
Mức độ CBTT TNXH DN, HQTC DN, ảnh hưởng của mức độ CBTT TNXH
đến HQTC của các DN niêm yết trên TTCK Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi nội dung: Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả thực hiện đo lường CBTT TNXH theo mức độ CBTT TNXH và HQTC DN được xác định theo hai chỉ tiêu đại diện là tỷ suất lợi nhuận trên tài sản ROA và giá trị thị trường Tobin’Q.
Nội dung thông tin TNXH được tác giả lựa chọn là cộng hợp của 4 thành phần thông
K
4
tin: Thông tin về trách nhiệm môi trường, Thông tin về trách nhiệm với lao động, Thông tin về trách nhiệm với cộng đồng xã hội, Thông tin về trách nhiệm với người tiêu dùng.
+ Phạm vi không gian: Các doanh nghiệp niêm yết phi tài chính trên TTCK Việt Nam trên cả 2 sàn giao Hồ Chí Minh và Hà Nội. Các DN niêm yết trên sàn UPCOM sẽ không thuộc phạm vi nghiên cứu của Luận án.
+ Phạm vi thời gian: Các DN niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội được công bố công khai với dữ liệu từ năm 2006 – 2016. Những DN có thời gian niêm yết sau năm 2006 và hủy niêm yết trong thời gian 2006 –
2016 sẽ không thuộc phạm vi nghiên cứu của Luận án.
4. Kết cấu luận án
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, các phụ lục và tài liệu tham khảo, Luận án có kết cấu gồm 5 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu tác động của công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính doanh nghiệp
Chương 2: Cơ sở lý luận về tác động của công bố thông tin trách nhiệm xã hội
đến hiệu quả tài chính doanh nghiệp
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu tác động của công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Chương 5: Thảo luận kết quả nghiên cứu, khuyến nghị và kết luận
K
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG BỐ THÔNG TIN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI ĐẾN HIỆU QUẢ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
CBTT TNXH được xem là một công cụ đánh giá hiệu quả xã hội của một DN. Nhiều năm qua, TNXH đã trở thành một vấn đề ngày càng được quan tâm trong giới nghiên cứu cũng như trong giới kinh doanh trên thế giới. Nhiều DN tự nguyện tiết lộ thông tin về các hoạt động của họ liên quan đến các vấn đề về đạo đức, quản trị DN, xã hội và môi trường. Bên cạnh đó CBTT TNXH được coi là một công cụ để tăng tính minh bạch thể hiện trách nhiệm giải trình của một DN đối với xã hội. Tổng quan cho thấy nhiều nghiên cứu đã được tiến hành để kiểm tra ảnh hưởng của CBTT TNXH đến HQTC DN trên toàn thế giới. Tuy nhiên, mỗi nghiên cứu có cách thức tiếp cận thông tin TNXH riêng và kết quả nghiên cứu không đồng nhất.
1.1. Tổng quan nghiên cứu tác động của công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính
1.1.1. Sự khác biệt về nội dung thông tin TNXH DN
TNXH là một phạm trù rộng, đa dạng về các tiêu chuẩn hướng dẫn TNXH trên thế giới. Vậy nên các nghiên cứu về vấn đề này cũng có sự khác biệt về nội dung thông tin TNXH DN. Đa số các nghiên cứu chọn bốn nội dung thông tin chủ yếu TNXH DN: lao động, sản phẩm, cộng đồng và môi trường như nghiên cứu của (Mustaruddin Saleh và cộng sự (2011), Jitaree (2015), Nagib Salem Bayoud và cộng sự (2012), Mohammed Nma Ahmed và cộng sự (2016). Tuy nhiên cũng có những nghiên cứu lựa chọn thành phần thông tin khác như Khlif và cộng sự (2015) lựa chọn: môi trường và xã hội, Makni và cộng sự (2009) lựa chọn thành phần thông tin: cộng đồng và xã hội, quản trị DN, khách hàng, lao động, môi trường và quyền con người hay Nina karina Karim và cộng sự (2013) với mẫu là các DN kinh doanh dịch vụ niêm yết trên TTCK Indonesia chọn những tiêu chí TNXH theo hướng dẫn của GRI 3.1 đó là những thông tin về kinh tế, môi trường, xã hội. Tại Việt Nam, những nghiên cứu về ảnh hưởng CBTT TNXH đến HQTC cũng có sự khác biệt trong lựa chọn thành phần thông tin TNXH. Nguyễn Thị Bích Ngọc và cộng sự (2015), Hồ Viết Tiến và Hồ Thị Vân Anh (2017) lựa chọn bốn thành phần thông tin chính là môi
trường, lao động, sản phẩm, cộng đồng và Ho Ngoc Thao Trang và Liafisu Sina
K
6
Yekini (2014) ngoài bốn thành phần thông tin đó còn tìm hiểu thành phần thông tin về năng lượng và các vấn đề khác thuộc TNXH DN dựa trên cơ sở các nghiên cứu trước đó. Khác biệt hẳn với các nghiên cứu này Nguyễn Xuân Hưng và Trịnh Hiệp Thiện (2016) lại lựa chọn tiêu chuẩn TNXH của tổ chức sáng tạo toàn cầu GRI (GRI4) để thực hiện nghiên cứu bao gồm 3 thành phần thông tin TNXH: kinh tế, môi trường, xã hội.
Sự khác nhau về các nội dung thông tin TNXH công bố giữa các nghiên cứu là do vẫn còn những quan điểm và cách tiếp cận khác nhau về TNXH DN ở những thời điểm khác nhau. Song về cơ bản quan niệm và nhận thức về thông tin TNXH trong các nghiên cứu này cũng đã có sự tương đồng theo thông lệ quốc tế tập trung vào các nội dung thông tin về trách nhiệm của doanh nghiệp đối với xã hội.
1.1.2. Sự khác biệt đo lường hiệu quả tài chính doanh nghiệp
Tổng quan nghiên cứu cho thấy các nghiên cứu sử dụng hai nhóm chỉ tiêu đo lường HQTC DN đó là: nhóm chỉ tiêu đo lường HQTC DN theo giá trị thị trường và nhóm chỉ tiêu đo lường HQTC theo số liệu kế toán
Nghiên cứu đo lường HQTC DN theo giá trị thị trường
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã thực hiện để xem xét ảnh hưởng của CBTT TNXH đến giá trị thị trường DN thông qua các chỉ số đo lường như: giá cổ phiếu (Belkaoui (1976), Robert (1978), Edmund và cộng sự (1997), Clarkson và cộng sự (2013), Klerk (2015), Murray và cộng sự (2005), Freedman and Stagliano (1991), Verbeeten và cộng sự (2016)), lợi nhuận trên cổ phiếu EPS (Jitaree (2015), Mohammed và cộng sự (2016)), giá trị vốn hóa (Berthelot và cộng sự (2012)), phản ứng thị trường – mô hình CAR (Blacconiere and Patten (1994), Hassel và cộng sự (2005)), giá trị doanh nghiệp Tobin’Q (Saleh và cộng sự (2011), Cahan và cộng sự (2015), Khlif và cộng sự (2015), Jitaree (2015)), tỷ lệ giá trị thị trường trên giá trị ghi sổ PBV (Dewi và Monalisa (2016)). Kết quả về mối quan hệ này rất đa dạng có thể chia thành 3 nhóm như sau:
Nhóm 1: Có mối quan hệ thuận giữa CBTT TNXH với giá trị thị trường DN
Có nhiều bằng chứng đã chỉ ra rằng thực hành và CBTT TNXH làm tăng giá cổ phiếu DN. Những nghiên cứu này cho thấy các nhà đầu tư có xu hướng đầu tư vào những DN thực hiện báo cáo về những vấn đề về môi trường hơn là những DN không
báo cáo. Belkaoui (1976) thực hiện nghiên cứu về ảnh hưởng thông tin môi trường đến
K
7
sự biến động giá cổ phiếu của DN với số liệu được khảo sát từ báo cáo thường niên của 50 DN của Mỹ năm 1970. Bằng kỹ thuật tính trung bình phần dư giá cổ phiếu các DN này của các tháng trước khi công bố và sau khi công bố, kết quả cho thấy rằng sau khi CBTT kết quả hoạt động của cổ phiếu của DN trên thị trường tốt hơn. Kết quả nghiên cứu tương tự Frankle và Anderso (1980) thực hiện nghiên cứu về CBTT xã hội tự nguyện đến thị trường vốn của DN của 500 công ty trong danh sách Fortune dựa trên báo cáo thường niên tháng 7/1972 đến tháng 8/1973 thông qua kỹ thuật t-test phân tích mức biến động giá của cổ phiếu so với mức biến động chung của toàn thị trường. Bên cạnh những nghiên cứu về CBTT môi trường, một số nghiên cứu với phạm vi thông tin TNXH DN rộng hơn như Robert (1978) tìm hiểu nội dung thông tin liên quan đên môi trường, công bằng trong kinh doanh, sức khỏe và an toàn lao động cho nhân viên, thông tin hỗ trợ cộng đồng, thông tin về sản phẩm.Thông qua khảo sát 287
DN trong số 500 DN xếp hạng của tạp chí Fortune theo báo cáo thường niên từ 1970 –
1976, kết quả cho thấy rằng nội dung thông tin TNXH DN tiết lộ có ảnh hưởng tích cực đến giá cổ phiếu DN.
Bên cạnh đó, một số tác giả thực hiện nghiên cứu gắn liền với các sự kiện về môi trường xã hội cũng cho thấy mối tương quan tích cực giữa CBTT TNXH với giá cổ phiếu DN. Martin Freedman and Stagliano (1991) kiểm tra CBTT môi trường ở 27
DN trong ngành công nghiệp dệt của Mỹ sau sự kiện tòa án tối cao Mỹ ra quy định thắt chặt phát thải khói bụi cotton. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, trước khi có quy định thắt chặt phát thải khói bụi cotton của tòa án tối cao Mỹ, những DN mà không CBTT hoặc chỉ công bố những thông tin chung chung đánh giá những tác động tiềm ẩn của quy định này thì giá cổ phiếu này bị giảm tương đối so với những DN có những CBTT định lượng về đánh giá những tác động của nó. Điều này cho thấy rằng một trong những nhân tố tác động đến thị trường đó chính là nội dung và mức độ của những thông tin trước đó đã công bố liên quan đến tiêu chuẩn mới ra đời. Giải thích điều này tác giả cho rằng với những DN CBTT định lượng về những chi phí liên quan đến xử lý khói bụi thì nhà đầu tư có phản ứng ít tiêu cực hơn đối với các DN không công bố hoặc công bố chung chung. Một nghiên cứu khác cũng gắn với một sự kiện lớn tại Ấn Độ, Blacconiere and Patten (1994) thực hiện kiểm tra phản ứng của TTCK của 47 DN hóa chất của Mỹ (ngoài công ty đa quốc gia Union Carbide) sau thảm họa rò rỉ hóa chất ở Bhopal, Ấn Độ do công ty Union Carbide gây ra. Bằng chứng chỉ ra rằng các DN có công bố rộng rãi về thông tin môi trường trong báo cáo tài chính của
họ trước khi bị rò rỉ hóa học đã trải qua một phản ứng tiêu cực ít hơn so với các công
K
8
ty CBTT ít hơn. Giải thích điều này tác giả cho rằng các nhà đầu tư đã nhìn thấy tín hiệu về khả năng đối mặt của DN với rủi ro sau sự cố ở Bhopal thông qua những thông tin được công bố trước đó. Kết quả này là một bằng chứng cho thấy nếu DN tiết lộ những “tin tốt” thì có thể trấn áp được những tin xấu liên quan đến những tai tiếng sau sự cố về môi trường.
Nhằm giải thích rõ hơn về mức độ tương quan giữa biến CBTT TNXH và HQTC, nhiều nghiên cứu đã xây dựng phương trình hồi quy chỉ ra tương quan tích cực giữa hai biến số này (Berthelot và cộng sự (2012), Clarkson và cộng sự (2013), Klerk và cộng sự (2015), Cahan và cộng sự (2015)). Với bối cảnh nghiên cứu khác nhau các nghiên cứu này sử dụng phương pháp đo lường khác nhau để xác định mức độ CBTT TNXH nhưng kết quả giống nhau về mối tương quan tích cực giữa CBTT TNXH với giá trị DN (Tobin’Q). Berthelot và cộng sự (2012) với nghiên cứu DN niêm yết trên thị trường Toronto, Canada cho thấy lập báo cáo bền vững ảnh hưởng tích cực đến giá trị vốn hóa thị trường của các DN. Ở bối cảnh khác Clarkson và cộng sự (2013) kiểm tra ở DN nhạy cảm với môi trường ở Mỹ thấy rằng mức độ CBTT TNXH theo chuẩn GRI có ảnh hưởng tích cực đến giá cổ phiếu của các DN này. Nghiên cứu ở tầm quốc tế có xét đến khía cạnh đặc thù quốc gia và đặc tính của DN, Cahan và cộng sự (2015) kiểm tra 676 công ty từ 22 quốc gia khác nhau với dữ liệu về TNXH được khảo sát bởi KPMG thông qua phương pháp hồi quy hai giai đoạn tác giả thấy rằng ở những quốc gia quốc gia thuộc trường phái kế toán Anglo – Saxon linh hoạt và xét đoán nghề nghiệp cao, có các tổ chức quốc tế lớn thì ảnh hưởng của thông tin TNXH đến giá trị doanh nghiệp Tobin’Q là lớn hơn so với các quốc gia khác. Tương tự, Mohammed và cộng sự (2016) trong bối cảnh nước đang phát triển ở Nigenia với dữ liệu báo cáo thường niên (2001-2012) của 10 doanh nghiệp cũng đã được tìm thấy ảnh hưởng CBTT TNXH ảnh hưởng tích cực đến HQTC của DN thông qua chỉ tiêu lợi nhuận trên cổ phiếu (EPS) thông qua hồi quy OLS.
Nhóm 2: Có mối quan hệ nghịch hoặc không có mối tương quan giữa CBTT TNXH với giá trị thị trường DN
Bên cạnh những nghiên cứu cho kết quả tích cực thì cũng có những nghiên cứu cho kết quả tiêu cực hoặc không mối tương quan giữa hai biến số. Edmund và cộng sự (1997) thực hiện kiểm tra 64 DN quốc phòng của Mỹ năm 1986 theo 2 nhóm: 25 DN có ký vào bản ghi nhớ sáng kiến công nghiệp quốc phòng về đạo đức và hành xử trong kinh doanh (DII) và 39 DN không kí DII. Kết quả chỉ ra thị trường phản ứng tiêu cực tất cả DN nhưng phản ứng là tiêu cực hơn với nhưng DN ký DII. Giải thích điều này,
K
9
tác giả cho rằng thị trường phản ứng với DII bởi các nhà đầu tư coi việc các DN ký DII là một sự thừa nhận về hành vi phi đạo đức và khi đó việc giám sát các DN này sẽ được chú trọng hơn khiến cho cơ hội tìm kiếm lợi nhuận của các DN này bị giảm sút. Ở một bối cảnh khác ở quốc gia phát triển Hassel và cộng sự (2005) kiểm tra 71 DN niêm yết trên TTCK Stockholm Thụy điển, năm 1998 – 2000. Tác giả xây dựng 23 tiêu chí về môi trường và gán điểm 0-3 để đánh giá mức độ CBTT môi trường. Mô hình OLS của nghiên cứu cho kết quả về ảnh hưởng tiêu cực của CBTT môi trường đến giá trị thị trường. Giải thích cho kết quả đó tác giả cho rằng có hai nguyên nhân: thứ nhất, thị trường là ngắn hạn và các nhà đầu tư không xem xét thông tin TNXH có lợi ích lâu dài để quyết định đầu tư, thứ hai, các nhà đầu tư nhận thấy rằng các hoạt động về TNXH làm tăng chi phí của DN khiến các nhà đầu tư phản ánh tiêu cực vì lợi nhuận dự kiến giảm mà rủi ro không giảm tương ứng. Kết quả là tương tự với ảnh hưởng ngược chiều của thông tin về sản phẩm và môi trường đến giá trị thị trường DN Tobin’Q trong nghiên cứu của Mustaruddin Saleh và cộng sự (2011) trong bối cảnh Malaysia – một quốc gia đang phát triển với mẫu là 200 doanh nghiệp vốn hóa thị trường cao nhất trong thời gian 1999-2005.
Cũng với những giải thích tương tự, một số nghiên cứu không tìm thấy ảnh hưởng của CBTT TNXH đến giá trị thị trường DN. Lý giải kết quả các nhà nghiên cứu cho rằng giá của cổ phiếu không phụ thuộc vào mức độ thực hành TNXH DN bởi đơn giản là các nhà đầu tư không xem xét việc tiết lộ TNXH như là một quyết định để đầu tư (Alexander and Buchloz (1978), Murray và cộng sự (2005), Xu và cộng sự (2012) mà giá cổ phiếu phụ thuộc vào những yếu tố khác như thực trạng của nền kinh tế Jitaree (2015). Cụ thể, Alexander and Buchloz (1978) nghiên cứu mối quan hệ giữa TNXH với hoạt động của thị trường của chứng khoán của các tập đoàn tại Hoa Kỳ trong giai đoạn 1970-1974. Bằng việc xếp hạng mối tương quan giữa TNXH và sự biến động giá cổ phiếu của từng DN trong hai giai đoạn: 5 năm 1970 – 1974 và giai đoạn 3 năm 1971- 1973 không thấy sự mối tương quan giữa hai biến số này. Tương tự, Murray và cộng sự (2005) nghiên cứu thực hiện ở một bối cảnh khác với mẫu là 100 công ty hàng đầu Vương quốc Anh. Với dữ liệu công bố về xã hội và môi trường được lưu trữ tại Trung tâm Nghiên cứu Kế toán Xã hội và Môi trường (CSEAR) thông qua phương pháp phân tích hồi quy OLS tác giả cũng không tìm thấy mối liên hệ giữa CBTT môi trường và xã hội với giá mức tăng giá của cổ phiếu DN. Chi tiết và cụ thể hơn với phương pháp ước lượng hồi quy hai giai đoạn để khắc phục hiện tượng nội
sinh giữa biến CBTT TNXH và giá trị doanh nghiệp Tobin’Q trong mô hình Jitaree
K
10
(2015) với mẫu nghiên cứu 323 DN niêm yết trên TTCK Thai Lan trong đó 82 DN sản xuất và 241 DN phi sản xuất, với dữ liệu năm 2009-2011 cũng không thấy ảnh hưởng CBTT TNXH đến giá trị doanh nghiệp Tobin’Q. Tương tự, với bối cảnh ở quốc gia Đông Nam Á là Indonesia, Dewi and Monalisa (2016) với mẫu 26 DN niêm yết trong ngành khai thác mỏ trong thời gian 2010 -2012 OLS. Thông qua phương pháp hồi quy OLS, tác giả cung cấp bằng chứng CBTT TNXH không ảnh hưởng đến tỷ lệ giá trị thị trường trên giá trị ghi sổ (Price to book value – PBV). Điều này được tác giả lý giải là do các nhà đầu tư ở các quốc gia này có nhận thức thấp về TNXH DN và không có một tiêu chuẩn chung nào về TNXH nên việc CBTT nhiều hay ít cũng không ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư.
Nhóm 3: Có mối quan hệ hỗn hợp giữa CBTT TNXH với giá trị thị trường DN
Kết quả hỗn hợp là do các nghiên cứu thực hiện nghiên cứu ở các bối cảnh khác nhau hoặc xem xét các khía cạnh khác nhau của TNXH. Ví dụ, Khlif và cộng sự (2015) nghiên cứu mối quan hệ này với bối cảnh ở hai nền kinh tế khác nhau là Nam Phi và Maroc với mẫu là 28 DN niêm yết (14 DN Nam Phi và 14 DN Maroc) trong năm 2004 – 2009. Kết quả nghiên cứu này là hỗn hợp bởi với tổng thể mẫu thì tác giả không thấy ảnh hưởng của CBTT TNXH đến giá trị DN Tobin’Q nhưng xét từng thị trường thì lại thấy kết quả ảnh hưởng là dương tại Nam Phi và còn tại Maroc thì ngược lại. Kết quả này được tác giả lý giải do có sự khác biệt giữa hai hệ thống luật pháp của hai quốc gia. Nam Phi với hệ thống luật thông thường (Conmon law) có sự chuyên nghiệp, minh bạch và thực thi pháp luật mạnh mẽ hơn so với Maroc với hệ thống luật dân sự (Civil Law). Hay một nghiên cứu khác, Verbeeten và cộng sự (2016) thực hiện nghiên cứu hai khía cạnh môi trường và xã hội với 130 DN lớn nhất niêm yết trên TTCK Đức năm 2005 – 2008. Kết quả cho thấy thông tin môi trường không ảnh hưởng nhưng thông tin xã hội lại ảnh tưởng tích cực đến giá cổ phiếu DN. Kết quả này cho thấy rằng việc cung cấp thêm thông tin TNXH có thể ảnh hưởng tới nhóm bên liên quan khác nhau. Đối với những thông tin về trách nhiệm môi trường DN cung cấp thỏa mãn yêu cầu của Chính phủ và của các tổ chức bảo vệ môi trường nhưng lại có thể tác động tiêu cực tới các cổ đông bởi nó báo hiệu có thể DN đầu tư quá mức vào hoạt động môi trường. Đối với những thông tin xã hội được công bố thì lại mang tới cho nhà đầu tư kỳ vọng về HQTC trong tương lai của DN vì nó thể hiện DN có nguồn nhân lực tốt và không
rủi ro với các sự kiện xấu của nền kinh tế. Tổng hợp bằng chứng của các nghiên
K
11
cứu nước ngoài về ảnh hưởng của CBTT TNXH đến HQTC doanh nghiệp đo lường bằng giá trị thị trường được tác giả trình bày phụ lục 1.
Nghiên cứu đo lường hiệu quả DN theo số liệu kế toán
Bên cạnh những nghiên cứu sử dụng chỉ tiêu giá trị thị trường để kiểm tra ảnh hưởng của CBTT TNXH tới HQTC DN thì nhiều nghiên cứu sử dụng ROA, ROE, ROI là chỉ tiêu đại diện cho HQTC. Đây là những chỉ tiêu đo lường phản ánh giá trị lịch sử do kế toán ghi chép được sử dụng phổ biến và dễ thu thập nhất đại diện cho chỉ tiêu đo lường HQTC. Kết quả cũng là khác biệt giữa các nghiên cứu.
Đầu tiên, theo các tác giả những DN sản xuất hoặc những DN kinh doanh trong ngành công nghiệp nhạy cảm chịu áp lực và bị yêu cầu nhiều hơn từ phía các bên liên quan về những hoạt động TNXH đặc biệt là những vấn đề liên quan đến môi trường thì nhu cầu CBTT TNXH của những DN này là nhiều hơn các DN khác và hiệu ứng về ảnh hưởng của những thông tin này đối với HQTC DN là nhiều hơn các DN khác (Jitaree, 2015). Kết quả nghiên cứu về mối quan hệ giữa CBTT TNXH với HQTC với mẫu là các DN sản xuất thường cho kết quả là tích cực. Điều này có nghĩa thực hành và CBTT TNXH có thể giúp cải thiện HQTC trong năm hiện tại (Deegan and Gordon,
1996; Ngwakwe, 2009; Kimbro and Melendy, 2010; Mishra and Suar, 2010; Chen and Wang, 2011; Kartika Dewi and Monalisa, 2016) và trong năm kế tiếp (Chen and Wang, 2011; Jitaree, 2015). Ví dụ, Ngwakwe (2009) kiểm tra mối quan hệ thực hành trách nhiệm môi trường và HQTC cho 60 DN sản xuất niêm yết trên TTCK Nigeria. Bằng việc tách các DN trong mẫu thành hai nhóm DN có trách nhiệm với môi trường và vô trách nhiệm với môi trường. Kết quả cho thấy rằng việc thực hành TNXH có ảnh hưởng đánh kể đến chỉ tiêu ROA. Tương tự, một kết quả khác được chứng minh bởi Kimbro and Melendy (2010) khi thực hiện khảo sát tại các DN sản xuất niêm yết trên TTCK Hồng Kông. Kết quả nghiên cứu cho thấy những DN có tiết lộ môi trường tự nguyện có ROE, ROA cao hơn những DN khác. Dewi & Monalisa (2016) với mẫu 26
DN khai thác mỏ niêm yết trên TTCK Indonesia, dựa trên kết quả khảo sát báo cáo thường niên 2010-2012 của doanh nghiệp và hồi quy OLS tác giả cũng cho kết quả tương tự CBTT TNXH ảnh hưởng tích cực đến ROA. Điều này được tác giả lý giải thực hành và CBTT TNXH của khiến cho các cộng đồng xã hội tin tưởng và tôn trọng DN góp phần gia tăng hiệu quả sử dụng tài sản. Kết quả ngược với nghiên cứu này, với các DN phi sản xuất đặc biệt là các ngân hàng được xem là ít gây ảnh hưởng đến môi trường nhất. Perkins Cheung and Wilson Mak (2010) với mẫu 57 ngân hàng từ
các nước Châu Âu và Bắc Mỹ bằng cơ dữ liệu có sẵn về ESG (môi trường, xã hội,
K
12
quản trị doanh nghiệp) trên Blomberg năm 2006 – 2009, tác giả không tìm thấy mối tương quan giữa CBTT TNXH với ROA, ROE. Giải thích cho kết quả này, tác giả cho rằng các hoạt động các DN ngân hàng không liên quan trực tiếp đến môi trường bởi vậy tác động của các hoạt động TNXH đến các bên liên quan là không nhiều.
Tiếp đó, sự khác biệt về thời gian và phương pháp nghiên cứu cũng khiến cho các nghiên cứu cho các kết quả nghiên cứu là khác nhau. Ở những thời điểm khác nhau có thể những yêu cầu của các bên liên quan đối với DN về TNXH là khác nhau. Xã hội ngày càng phát triển thì những yêu cầu về thực hành TNXH của các bên đối với DN càng nhiều. Abbott and Monsen (1979) kiểm tra 500 DN niêm yết Mỹ theo xếp hạng của Fortune với thời gian nghiên cứu 1964 – 1974. Đo lường mức độ CBTT TNXH thông qua kiểm tra sự có mặt hay vắng mặt của các thuộc tính TNXH. Bằng việc so sánh giá trị trung bình của lợi nhuận từ đầu tư ROI giữa 2 nhóm DN có mức độ CBTT thấp và nhóm DN có mức độ CBTT TNXH cao, tác giả không thấy ảnh hưởng của CBTT TNXH đến lợi nhuận từ đầu tư ROI. Giải thích cho điều này tác giả cho rằng những hoạt động đầu tư của nhà đầu tư không bị ảnh hưởng bởi những áp lực chính trị và xã hội. Kết quả tương tự Robert and Frazier (1983) với mẫu là 79 DN niêm yết Mỹ trong 3 ngành: sản xuất và chế tạo, dầu khí và hóa học trong năm 1978. Bằng phương pháp đo thông tin công bố bằng việc đếm từ trong báo cáo thường niên và thực hiện phân tích mô hình hồi quy OLS tác giả cũng không tìm thấy ảnh hưởng của các thông tin công bố trong phần thông điệp của nhà quản trị với ROI. Tuy nhiên, cùng với bối cảnh các DN ở Mỹ năm 2007 Frank Montabon và cộng sự (2007) tìm thấy mối liên hệ tích cực của CBTT TNXH với ROI khi thực hiện nghiên cứu 45 DN thông qua phân tích tương quan chính tắc (Canonical correlation analysis)
Sự khác biệt về nội dung thông tin TNXH cũng là nguyên nhân gây ra sự khác biệt giữa các kết quả nghiên cứu. Cùng trong bối cảnh Indonesia Nagib Salem Muhammad Bayoud (2012) khảo sát 135 DN niêm yết trên TTCK Indonesia trong 4 ngành công nghiệp bằng hồi quy OLS cho thấy CBTT lao động ảnh hưởng tích cực đến ROE. Nhưng ngược lại với kết quả của nghiên cứu này, Dewi and Monalisa (2016) dựa trên khung báo cáo TNXH của GRI thực hiện nghiên cứu 26 DN trong ngành khai thác mỏ niêm yết trên TTCK Indonesia không thấy ảnh hưởng CBTT TNXH đến ROE. Lý giải điều này tác giả cho rằng nhà đầu tư ở Indonesia có nhận thức thấp về TNXH và tại Indonesia không có một tiêu chuẩn chung nào về TNXH chính nên việc các DN CBTT TNXH theo GRI nhiều hay ít cũng không ảnh hưởng
đến quyết định của nhà đầu tư. Ở bối cảnh khác cùng quốc gia Đông Nam Á,
K
13
Mustaruddin Saleh và cộng sự (2011) thực hiện nghiên cứu tác động của CBTT đến HQTC DN, với mẫu 200 DN vốn hóa thị trường cao nhất trên thị trường Bursa Malaysia. Thông qua phân tích nội dung báo cáo thường niên DN năm 1999 – 2005 với hồi quy dữ liệu bảng FEM và REM tác giả thấy rằng CBTT TNXH ảnh hưởng tích cực đến tỷ suất lợi nhuận của tài sản (ROA). Bên cạnh đó, nghiên cứu còn chỉ rõ thông tin công bố về cộng đồng, lao động có ảnh hưởng tích cực đến tỷ suất lợi nhuận trên tài sản ROA.Tuy nhiên, thông tin về môi trường và sản phẩm lại có ảnh hưởng ngược chiều với giá trị DN Tobin’Q. Điều này được lý giải chi phí đầu tư về môi trường và phát triển sản phẩm là tốn kém làm tăng chi phí vốn của DN, trong khi điều này không làm thay đổi hình ảnh và uy tín của DN. Bảng tổng hợp các nghiên cứu nước ngoài về ảnh hưởng của CBTT TNXH đến HQTC DN đo lường theo số liệu kế toán được tác giả trình bày trong phụ lục 2.
Tại Việt Nam, cùng với sự gia tăng những quan tâm của cộng đồng đối với hoạt động thực hành và CBTT TNXH của DN, các bài viết về CBTT TNXH cũng được nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam thực hiện. Những bài viết chủ yếu tập trung vào nền tảng lý thuyết về báo cáo TNXH như: vấn đề như kinh nghiệm quốc tế, tiêu chuẩn hướng dẫn, cơ sở lý thuyết giải thích cho hành vi công bố của DN. Ngoài ra, một số ít nghiên cứu về thực hành báo cáo TNXH của các DN Việt Nam.
Tác giả Nguyễn Thị Hương Liên (2014) đưa ra kinh nghiệm thực hiện báo cáo TNXH ở các DN Châu Âu và tầm quan trọng của việc thực hiện báo cáo này. Ngoài ra, còn có một số những nghiên cứu sơ khai về kế toán TNXH như nghiên cứu của Bùi Đức Lộng (2016), Lê Kim Ngọc (2016) đề cập đến bản chất, tiêu chuẩn hướng dẫn kế toán TNXH và định hướng áp dụng tại Việt Nam hay Lê Văn Liên và cộng sự (2016) giới thiệu các cơ sở lý thuyết cơ bản để giải thích cho hành vi CBTT môi trường và xã hội DN.
Thực hiện nghiên cứu sâu hơn, một số nhà nghiên cứu tiến hành khảo sát thực tiễn CBTT TNXH của DN Việt Nam. Các nghiên cứu xoay quanh trả lời câu hỏi thực trạng CBTT TNXH của các DN Việt Nam, nhân tố thúc đẩy DN thực hiện CBTT TNXH, sự khác biệt về CBTT TNXH giữa DN sản xuất với những loại hình DN khác…. Cụ thể, kết quả nghiên cứu của các nghiên cứu như sau:
Mức độ CBTT TNXH của các DN Việt Nam là thấp, mất cân đối và chủ yếu là thông tin tốt.
Kết quả nghiên cứu này được chứng minh bởi Lê Ngọc Mỹ Hằng (2015), Nguyễn Xuân Hưng và Trịnh Hiệp Thiện (2016), Kelly Anh Vu và cộng sự (2017), Ho
K
14
Ngoc Thao Trang and Liafisu Sina Yekini (2014), Trần Thảo Nhi (2014), Nguyễn Thị
Bích Ngọc và cộng sự (2015). Trong nghiên cứu của Trần Thảo Nhi (2014) với mẫu là
30 DN nằm trong rổ chỉ số VN 30 thông qua việc đo lường các trang có CBTT TNXH trong báo cáo thường niên của các DN này tác giả thấy rằng trong 30 báo cáo được kiểm tra năm 2013 thì có có 6 báo cáo có số 24 trang trở lên, 18 báo cáo có 9- 23 trang, 6 báo cáo nhỏ hơn 8 trang. Nghiên cứu này cũng cho thấy rằng cơ cấu thông tin các DN công bố mất cân đối, DN chủ yếu CBTT về vấn đề kinh tế 63%, 14% lao động, 9% xã hội, 6% môi trường, 6% sản phẩm và vấn đề khác là 3%. Trong một nghiên cứu khác Ho Ngoc Thao Trang and Liafisu Sina Yekini (2014) cho thấy rằng CBTT về nguồn nhân lực là nhiều nhất bởi tác giả cho rằng nguồn nhân lực là nguồn lực sẵn có nhiều nhất của DN. Điều này hoàn toàn khác với các quốc gia phát triển như Mỹ, Úc nơi mà khách hàng là nhóm người gây áp lực nhiều đến việc các DN CBTT. Xét trên giác độ loại thông tin tác giả chỉ ra rằng 100% DN đưa ra những thông tin trung lập, có 50% DN chỉ rõ thông tin tốt và 20% DN có chỉ ra những thông tin xấu. Lê Ngọc Mỹ Hằng (2016) khảo sát 158 DN yết trên TTCK HOSE thông qua việc phân tích nội dung 474 báo cáo thường niên trong vòng 3 năm 2012- 2014. Kết quả CBTT TNXH cho các DN này chỉ được 15- 16 điểm trung bình trong 3 năm trong khi số điểm tối đa theo thang đo của tác giả là 147 điểm.
Có sự khác biệt về CBTT TNXH giữa các loại DN
Lê Ngọc Mỹ Hằng (2015) thông qua kiểm định Mann-Whitney U test cho thấy rằng mức độ CBTT của 158 DN niêm yết trên TTCK HOSE trong 3 năm cho thấy rằng những DN hoạt động trong ngành công nghiệp nhạy cảm có ảnh hưởng đến môi trường có mức độ CBTT môi trường nhiều hơn so với những DN khác. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Kelly Anh Vu và cộng sự (2017) thì lại không thấy có sự khác biệt này, nhưng tác giả cũng chỉ ra có sự khác biệt về CBTT này giữa những DN được kiểm toán bởi Big Four và không phải là Big Four.
Nhân tố ảnh hưởng đến CBTT TNXH
Tác giả Phạm Đức Hiếu (2012) dựa trên hai lý thuyết là lý thuyết tam giác phát triển của Elkington và lý thuyết quyền lực của người sử dụng báo cáo tài chính (thuyết các bên liên quan) của Feeman để giải thích lý do các DN thực hiện và CBTT TNXH. Trong nghiên cứu này tác giả dùng phiếu khảo sát với những nhà quản lý DN và những người tiêu dùng và kết quả cho thấy những nhà quản lý có
nhận thức cao chưa phải là nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện và báo cáo TNXH,
K
15
về phía người tiêu dùng cho thấy nhận thức của người tiêu dùng và quyết định mua sắm có ảnh hưởng đến việc thực hiện và CBTT TNXH. Kelly Anh Vu & cộng sự (2017) thực hiện kiểm tra ảnh hưởng của quản trị DN và quyền sở hữu đến mức độ CBTT của 200 DN ngẫu nhiên niêm yết trên TTCK HOSE và HNX bằng việc xây dựng phương trình hồi quy OLS với số liệu tác giả thu thập năm 2013 kết quả kiểm tra cho thấy tỷ lệ sở hữu vốn nhà nước và tỷ lệ sở hữu vốn của nhà quản trị có ảnh hưởng tiêu cực đến CBTT TNXH.
Ảnh hưởng CBTT TNXH đến HQTC DN DN
Ho Ngoc Thao Trang and Liafisu Sina Yekini (2014) khảo sát 20 báo cáo thường niên của 20 DN niêm yết trên TTCK Việt Nam trong 3 năm từ 2010 – 2012, tuy nhiên nghiên cứu này mới chỉ thực hiện kiểm định thông qua kiểm tra hồi quy OLS dữ liệu chéo với kết quả ROA năm 2010 có ảnh hưởng tích cực đến CBTT TNXH năm 2011và CBTT TNXH năm 2011 có ảnh hưởng tích cực đến ROA, ROE, ROS năm 2012. Một nghiên cứu khác với quy mô mẫu lớn hơn, Nguyễn Thị Bích Ngọc & cộng sự (2015) khảo sát 50 DN được lựa chọn ngẫu nhiên niêm yết TTCK Việt Nam (HOSE và HNX) trong thời gian 2010 -2013, kết quả hồi quy dữ liệu bảng cho thấy CBTT TNXH (thông tin về môi trường) có ảnh hưởng tích cực đến giá trị DN Tobin’Q năm sau nhưng lại không ảnh hưởng đến Tobin’Q hiện tại. Một nghiên cứu khác của Nguyễn Xuân Hưng và Trịnh Hiệp Thiện (2016) cũng được thực hiện về mối quan hệ này được thực hiện với việc kiểm tra 160 DN trên tổng số 692 DN niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TPHCM (HOSE) và sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) với số liệu trong 5 năm từ năm 2010 đến năm 2014 cho thấy rằng CBTT TNXH năm trước có ảnh hưởng đến kết quả tài chính năm sau của DN. Tạ Thị Thúy Hằng (2017) chọn 44 DN ngẫu nhiên trong số 113 DN niêm yết trên TTCK Việt Nam có tổng giá trị vốn hóa thị trường 90% tại thời điểm thu thập dữ liệu là tháng 11/2016. Kết quả hồi quy OLS dữ liệu chéo kết quả cho thấy CBTT TNXH không ảnh hưởng đến ROA và ROE nhưng thông tin cộng đồng ảnh hưởng đến lợi nhuận DN. Hồ Viết Tiến và Hồ Thị Vân Anh (2017) chọn ngẫu nhiên 100 DN niêm yết trên TTCK Việt Nam năm 2012 – 2016. Kết quả cho thấy CBTT môi trường, sản phẩm, cộng đồng có ảnh hưởng tích cực đến Tobin’Q và ROA và gần đây nhất Hồ Thị Vân Anh (2018) cùng mẫu nghiên cứu nhưng kết quả cho thấy không có quan hệ giữa CBTT TNXH và TBQ. Như vậy, kết quả của các nghiên cứu về mối quan hệ CBTT TNXH và HQTC
tại Việt Nam có sự khác biệt. Đa số cho kết luận là tích cực tuy nhiên cũng có nghiên
K
16
cứu không thấy mối quan hệ giữa hai biến số này. Sự khác biệt này là do sự khác biệt về mẫu, thời gian và phương pháp nghiên cứu. Bảng tổng hợp các nghiên cứu ảnh hưởng của CBTT TNXH đến HQTC tại các DN ở Việt Nam được tác giả trình bày trong phụ lục 3.
Như vậy, tổng quan nghiên cứu ảnh hưởng của CBTT TNXH đến HQTC DN thì thấy rằng đa số kết quả có mối quan hệ tích cực giữa hai biến số này. Tuy nhiên, có một số nghiên cứu cho kết quả ngược chiều hoặc không có mối liên hệ giữa hai biến số này. Điều này được lý giải bởi một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, Khác biệt về bối cảnh nghiên cứu. Mối quan hệ giữa bên liên quan với DN phụ thuộc vào tầm quan trọng của các bên liên quan (Ullmann, 1985), bởi vậy yếu tố văn hóa, kinh tế, quy định của pháp luật, ngành nghề kinh doanh có thể đóng vai trò quan trọng trong việc xác định chính sách về thực hành và CBTT TNXH tại DN. Các nghiên cứu cho thấy mối quan hệ giữa CBTT TNXH và HQTC DN có thể cho kết quả khác nhau tùy thuộc vào bối cảnh nghiên cứu. Ví dụ, Khlif & cộng sự (2015) cho thấy mối quan hệ tích cực giữa CBTT TNXH và HQTC DN ở Nam Phi – quốc gia phát triển nơi mà hệ thống pháp luật chuyên nghiệp, minh bạch và thực thi pháp luật mạnh mẽ nhưng lại không thấy mối quan hệ này ở Maroc – quốc gia hệ thống pháp luật thông thường hay Cahan và cộng sự (2015) thấy rằng những quốc gia quốc gia thuộc trường phái kế toán Anglo – Saxon thì ảnh hưởng của thông tin TNXH đến giá trị Tobin’Q là lớn hơn so với các quốc gia khác.
Thứ hai, Khác biệt về phương pháp nghiên cứu. Để kiểm tra mối quan hệ CBTT TNXH với HQTC DN các nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích hồi quy: hồi quy bình phương nhỏ nhất OLS, phương pháp hồi quy tác động ngẫu nhiên REM, hồi quy tác động cố định FEM, hồi quy GMM, phương pháp hồi quy hai giai đoạn 2SLS dữ liệu bảng. Tuy nhiên mối quan hệ giữa CBTT TNXH và HQTC là mối quan hệ hai chiều (Jitaree, 2015), bởi vậy có thể xảy ra hiện tượng nội sinh trong mô hình. Bởi vậy đòi hỏi thực hiện phương pháp ước lượng mô hình khắc phục hiện tượng nội sinh giữa các biến. Hiện tại còn thiếu vắng những nghiên cứu thực hiện phương pháp hồi quy phù hợp để khắc phục khuyết tật này.
Thứ ba, Sự khác biệt về các biến kiểm soát trong mô hình nghiên cứu. Theo các tác giả mối quan hệ giữa CBTT TNXH và HQTC bị chi phối bởi các đặc thù khác nhau của DN như quy mô DN (Murray và cộng sự, 2005; Nagib Salem Bayoud và cộng sự, 2012; Klerk, 2015; Nma Ahmed Mohammed và cộng sự, 2016; Jitaree,
K
17
2015), tỷ lệ nợ (Mustaruddin Saleh và cộng sự, 2011; Jitaree, 2015; Klerk, 2015; Nma AhmedMohammed và cộng sự, 2016), tỷ lệ tăng trưởng (Mustaruddin Saleh và cộng sự (2011) Nguyễn Thị Bích Ngọc và cộng sự, 2015; Nguyễn Xuân Hưng và Trịnh Hiệp Thiện, 2016; ngành nghề kinh doanh (Mustaruddin Saleh và cộng sự,
2011; Nagib Salem Bayoud và cộng sự, 2012; Verbeeten và cộng sự, 2016; Khlif và cộng sự, 2015), tuổi doanh nghiệp (Nagib Salem Muhammad Bayoud, 2012; Jitaree,
2015;Verbeeten và cộng sự, 2016; Alan Murray và cộng sự, 2005). Do vậy, tùy thuộc vào mục tiêu nghiên cứu các tác giả có lựa chọn các biến kiểm soát cho mô hình của mình.
Thứ tư, Sự khác biệt về phương pháp đo lường CBTT TNXH và đo lường HQTC. Có nghiên cứu đo lường CBTT TNXH bằng việc đo độ rộng, độ sâu, đếm số câu thông tin công bố (Klerk và cộng sự, 2015; Blacconiere and Patten, 1994; Verbeeten và cộng sự, 2016) nhưng cũng có những nghiên cứu thực hiện tính chỉ số công bố dựa trên cơ sở kiểm tra sự có mặt của thông tin DN công bố (Belkaoui, 1976; Frankle and Anderso, 1980; Lars Hassel và cộng sự, 2005; Clarkson và cộng sự, 2013; Khlif và cộng sự, 2015; Dewi and Monalisa, 2016) hoặc cũng có nghiên cứu dựa trên chỉ số khảo sát của bên thứ ba (Murray và cộng sự, 2005; Cahan và cộng sự, 2015). Bên cạnh đó các chỉ tiêu đo lường HQTC cũng rất đa dạng ở các nghiên cứu. Các chỉ tiêu thường được các nghiên cứu sử dụng đó là ROA, ROE (Rim Makni và cộng sự,
2009; Mustaruddin Saleh và cộng sự, 2011; Nagib Salem Bayoud và cộng sự, 2012; Jitaree, 2015; Mahoney and Roberts, 2007; Dewi and Monalisa ,2016; Nagib Salem Muhammad Bayoud, 2012), EPS (Frankle and Anderso, 1980; Jitaree, 2015; Nma Ahmed Mohammed & cộng sự, 2016), giá cổ phiếu (Belkaoui, 1976; Robert, 1978; Freedman and Stagliano, 199; Blacconiere and Patten,1994; Edmund và cộng sự,
1997; Hassel và cộng sự, 2005; Alan Murray và cộng sự, 2005; Clarkson và cộng sự,
2013; Klerk, 2015); Tobin’Q (Cahan và cộng sự 2015; Khlif và cộng sự, 2015; Mustaruddin Saleh và cộng sự, 2011, Jitaree, 2015).
Thứ năm, Sự khác biệt về thời gian nghiên cứu. Sự khác biệt về thời gian nghiên cứu cũng có thể cho kết quả khác nhau do vấn đề về nhận thức của các bên liên quan về TNXH ở mỗi thời điểm là khác nhau. Ví dụ, Abbott and Monsen (1979), Robert and Frazier (1983) với mẫu nghiên cứu DN ở Mỹ trong giai đoạn 1970 thì không thấy mối tương quan giữa TNXH và HQTC nhưng Frank Montabon và cộng sự
(2007) lại tìm thấy mối liên hệ tích cực của hai biến số này.
K
18
1.2. Khoảng trống nghiên cứu
Như vậy, thông qua nghiên cứu tổng quan nước ngoài và trong nước đã trình bày tác giả nhận thấy vẫn khoảng trống của các nghiên cứu trước:
Thứ nhất, Các nghiên cứu trên thế giới có sự khác biệt về kết quả nghiên cứu: tác động xấu, tác động tốt và tác động không rõ ràng (tức là không làm tăng hay không làm giảm HQTC). Trong bối cảnh Việt Nam đa số các nghiên cứu cho thấy công bố thông tin trách nhiệm xã hội ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả tài chính doanh nghiệp, tuy nhiên vẫn còn có những nghiên cứu không tìm thấy ảnh hưởng này, ví dụ như Nguyễn Xuân Hưng và Trịnh Hiệp Thiện (2016) không thấy ảnh hưởng này ở những doanh nghiệp có chất lượng báo cáo thấp, Hồ Thị Vân Anh (2018) không thấy ảnh hưởng của CBTT TNXH đến TBQ. Sự khác biệt này là do có sự khác biệt ở số lượng mẫu trong mỗi nghiên cứu, thời gian nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu. Các nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc sử dụng hồi quy đa biến thông thường (OLS, FEM, REM) để tìm hiểu ảnh hưởng của CBTT TNXH đến HQTC DN mà chưa giải quyết hiện tượng nội sinh trong mô hình nghiên cứu do biến CBTT TNXH và HQTC có thể có mối quan hệ tương quan hai chiều. Điều này có nghĩa cần thực hiện phương pháp hồi quy bổ sung để có thể khác phục hiện tượng nội sinh có thể xảy ra trong mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính doanh nghiệp.
Thứ hai, Các nghiên cứu đa số đo lường mức độ CBTT TNXH dựa trên phương pháp phân tích nội dung. Tuy nhiên, cách thực hiện có sự khác biệt giữa các nghiên cứu và còn có nhiều bàn cãi về độ tin cậy của thang đo. Tại Việt Nam các nghiên cứu thường sử dụng phương pháp phân tích nội dung các báo cáo của DN để đo lường mức độ CBTT TNXH. Một số nghiên cứu thực hiện đếm từ, đếm câu liên quan đến TNXH được công bố trong báo cáo thường niên của các doanh ngiệp (Ho Ngoc Thao Trang and Liafisu Sina Yekini, 2014; Nguyễn Thị Bích Ngọc và cộng sự, 2015). Cách làm này là đơn giản và dễ thực hiện đối với các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên thực hiện đếm từ, đếm câu có thể gặp phải sai sót do có sự khác biệt trong kích thước phông chữ, hình ảnh báo cáo và đồ họa trong báo cáo của DN. Ngoài ra, có những nghiên cứu kiểm tra sự có vặt hay vắng mặt của các mục thông tin được các doanh nghiệp cung cấp trong báo cáo thường niên dựa trên các mục TNXH trong danh sách kiểm tra mà tác giả tự xây dựng (Hồ Viết Tiến và Hồ Thị Vân Anh, 2017; Hồ Thị Vân Anh, 2018). Cách làm này đơn giản nhưng có thể là thiếu sót khi mà chỉ kiểm tra việc có mặt hay vắng mặt của chỉ mục thông tin trong danh sách TNXH mà không xét đến lượng thông
tin cung cấp đối với từng chỉ mục bởi giữa các DN có sự khác biệt khá lớn về lượng
K