ThS38.011_Nghiên cứu phương pháp phân tích vi lượng iot trong các đối tượng môi trường
Nội dung đề tài: “Nghiên cứu phương pháp phân tích vi lượng iot trong các đối tượng môi trường”
Các nguyên tố vi lượng có vai trò quan trọng đối với sức khỏe con
người, chúng có trong thành phần của các enzym, điều khiển sự hoạt động của
các cơ thể sống, cho nên các nguyên tố vi lượng không những duy trì sự sống
mà còn đảm bảo cho sự phát triển của con người cả về thể chất lẫn trí tuệ.
Iot là nguyên tố vi lượng rất cần cho sự phát triển của cơ thể như quá
trình tổng hợp hocmon tuyến giáp, duy trì thân nhiệt, phát triển xương, quá
trình biệt hóa và phát triển của não cũng như hệ thần kinh của bào thai.
Thiếu iot sẽ gây hiện tượng tuyến giáp không đủ lượng hocmon cần
thiết, dẫn đến nồng độ hocmon trong máu thấp gây tổn thương não và các cơ
quan khác trong cơ thể. Hiện tượng này được gọi là rối loạn “Thiếu iot”.
Theo thống kê của tổ chức y tế thế giới (WHO). Hiện tại trên toàn cầu có
khoảng 1,5 tỷ người sống trong các vùng thiếu iot và có nguy cơ mắc các
chứng bệnh thiếu iot, trong đó có hơn 20 triệu người mắc chứng bệnh đần độn.
Việt Nam cũng nằm trong vùng thiếu iot. theo số liệu điều tra quốc gia
về tình trạng thiếu Iot năm 1992 cho thấy có tới 84% dân số Việt Nam trong
tình trạng thiếu iot: trong đó 16% thiếu nặng, 45% thiếu vừa và 23% thiếu
nhẹ, khoảng 10% trẻ em nước ta bị bệnh bướu cổ.
Môi trường (khí quyển, thủy quyển, địa quyển) và lương thực, thực
phẩm là nguồn cung cấp Iot cho con người.
Hàng ngày khẩu phần iot đưa vào cơ thể dưới 100g thì sẽ xảy ra hiện
tượng thiếu iot. Bướu cổ và các bệnh rối loạn do thiếu iot là những bệnh nan
giải. Giải pháp để phòng chống hiện tượng rối loạn thiếu iot là trộn lẫn iot vào
muối ăn cho nhân dân dùng hàng ngày. Đối với những bệnh nhân nặng dùng
muối iot không đạt được kết quả mong muốn, người ta phải điều trị bằng biện
pháp tích cực hơn như tiêm hay cho uống dầu thực vật có gắn iot (Lipiodol)
hoặc các viên nén có hàm lượng iot cao theo chỉ định của bác sỹ điều trị.
Khi phân tích môi trường hay các nguồn nước, lương thực và thực
phẩm của một vùng địa lý, người ta thấy hàm lượng của iot trong các đối
tượng này có liên quan đến tỷ lệ những người mắc bệnh bướu cổ.
Bệnh bướu cổ sinh ra không phải chỉ do hàm lượng iot trong các đối
tượng không khí, nước uống, lương thực và thực phẩm thấp mà còn do các
yếu tố vi lượng khác nữa. Chẳng hạn hàm lượng canxi trong đất , trong nước
quá cao, do tập quán sinh hoạt ăn uống của các dân tộc, do cơ địa của từng
người v.v… Vì thế cho nên một số nơi mặc dù hàm lượng iot trong lương
thực, thực phẩm cao như: Hải Phòng, Thái Bình… vẫn có tỷ lệ người mắc
bệnh bướu cổ đáng kể.
Để đánh giá vi lượng iot trong đất, nước, lương thực và thực phẩm cần
phải nghiên cứu tìm được phương pháp phân tích có độ nhạy, độ lặp lại và độ
chính xác cao, như các phương pháp phân tích quang học hiện đại (AAS,
AES,…) phương pháp động học xúc tác, phương pháp điện hóa hiện đại (Von
-ampe hòa tan, hấp phụ,…) phương pháp sắc kí lỏng hiệu năng cao (HPLC),
phương pháp phóng xạ, phương pháp kích hoạt Nơtron….
Song các phương pháp này đòi hỏi phải có thiết bị chuyên dụng, đắt
tiền, chưa phù hợp với đa số các phòng thí nghiệm hiện có ở nước ta.
Xuất phát từ những lý do trên, trong luận văn này chúng tôi đặt cho
mình nhiệm vụ nghiên cứu để tìm một phương pháp phân tích iot đơn giản có
thể áp dụng cho các phòng thí nghiệm cơ sở, đó là phương pháp trắc quang
UV-VIS dựa trên phản ứng tạo phức màu của iot với một thuốc thử hữu cơ.
Để tăng độ nhạy của phương pháp chúng tôi sẽ kết hợp với phương pháp chiết
để tách và làm giàu iot đồng thời loại trừ ảnh hưởng của lượng thuốc thử dư