LA20.008_Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ và ảnh hưởng của vô sinh do vòi tử cung đến phụ nữ tại Thanh Hóa
Nội dung đề tài: “Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ và ảnh hưởng của vô sinh do vòi tử cung đến phụ nữ tại Thanh Hóa”
Vô sinh (VS) – hiếm muộn trong cộng đồng hiện nay đang là một vấn đề báo động trong lĩnh vực sức khoẻ sinh sản không chỉ ở những nước phát triển mà ngay cả những nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Bên cạnh những báo động về nạn gia tăng dân số, nhất là tỷ lệ sinh con thứ 3, thì hạnh phúc của rất nhiều cặp vợ chồng lại đang bị đe doạ bởi tình trạng VS ngày một tăng, đặc biệt là VS do nguyên nhân vòi tử cung (VTC) [8], [17], [24].
Tỷ lệ VS do VTC dao động từ 20-25% trong tỷ lệ VS nói chung và chiếm tới trên 70% đối với VS thứ phát do nữ nói riêng, bao gồm cả dính, tắc nghẽn hay ứ nước một hoặc hai VTC [6], [28], [91]. Có rất nhiều yếu tố được cho là yếu tố nguy cơ gây VS do nguyên nhân VTC, đặc biệt là mối liên quan giữa các yếu tố thuộc về tiền sử sản phụ khoa như tiền sử (TS) viêm nhiễm đường sinh dục (VSD), TS nạo phá thai (NPT), TS tránh thai bằng đặt dụng cụ tử cung (DCTC), TS các phẫu thuật vùng tiểu khung với VS do nguyên nhân VTC vẫn còn đang là vấn đề gây tranh cãi.
Việc xác định những yếu tố này có phải là yếu tố nguy cơ cho vô sinh do vòi tử cung hay không rất quan trọng, vì đây là những nguyên nhân VS mắc phải nên có thể cảnh báo trước, có thể phòng tránh được, đặc biệt là để kiểm soát tốt viêm nhiễm và các thủ thuật, phẫu thuật trên phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ [37], [111], [131], [137].
VS do bệnh lý VTC, nhất là dính tắc cả 2 bên VTC, tương đối nan giải, điều trị tốn kém, thường phải mổ nội soi (NS) để giải quyết dính, tắc. Nếu phương pháp này không thành công, thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) là giải pháp cuối cùng. Nối VTC bị coi là kém hiệu quả hơn, vì phần VTC bị nối có thể bị hẹp, khó có thai và dễ đưa đến chửa ngoài tử cung (CNTC), và cũng chỉ có thể làm ở các trung tâm lớn cần BS có kỹ năng và tay nghề cao [15], [26], [58].
Như vậy, người phụ nữ bị VS do nguyên nhân VTC là một bệnh lý gây tổn thương nặng nề cả về kinh tế, tinh thần lẫn thể chất và rất cần sự điều trị cũng như sự nâng đỡ phối hợp của cả xã hội [46], [54], [89], nhất là trong một xã hội coi chức năng sinh sản là chức năng chính của người phụ nữ như ở một số nước đang phát triển trong đó có Việt Nam [7], [87]. Người phụ nữ bị VS ở những nước này thường liên quan đến những khó khăn về kinh tế do chi phí y tế quá cao, bị xã hội coi thường, xa
lánh và thậm chí bị bạo hành, ly hôn, thường là bởi những người thân mà hay gặp nhấtlà chính các ông chồng của họ [96], [140].
Tại Việt Nam, cho đến thời điểm này, những nghiên cứu đi sâu vào VS do nguyên nhân VTC, các yếu tố nguy cơ và ảnh hưởng của VS đến người phụ nữ còn chưa nhiều. Đặc biệt, cho đến nay, có rất ít nghiên cứu tiếp cận vấn đề VS nữ ở cả góc độ phòng chống làm giảm nguy cơ VS và giảm những hậu quả nặng nề của nó mặc dù VS do VTC ảnh hưởng nặng nề đến chất lượng cuộc sống và hạnh phúc gia đình nhất là những gia đình nghèo, hơn nữa đây là loại VS có liên quan đến yếu tố giới là người phụ nữ.
Tại Thanh Hóa, tỷ lệ VS do nguyên nhân VTC gặp tương đối cao, ước tính chiếm khoảng trên 70% các trường hợp VS thứ phát ở nữ giới tại Thanh Hóa qua một nghiên cứu khảo sát [29], nhưng hiện tại chưa có nghiên cứu nào đi sâu vào những vấn đề đã nêu trên.
Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ và ảnh hưởng của vô sinh do vòi tử cung đến phụ nữ tại Thanh Hóa” trong thời gian từ tháng 8/2007 đến tháng 5/2010.
Với 2 mục tiêu:
1.Phân tích mối liên quan giữa một số yếu tố nguy cơ trong tiền sử sản
phụ khoa với vô sinh do nguyên nhân vòi tử cung
2.Đánh giá những ảnh hưởng tác động đến cuộc sống của phụ nữ bị vô sinh
do nguyên nhân vòi tử cung tại Thanh Hóa