LA20.094_Nghiên cứu điều trị gãy trên lồi cầu xương cánh tay kiểu duỗi ở trẻ em bằng nắn kín và xuyên kim qua da dưới màn tăng sáng
Gãy trên lồi cầu xƣơng cánh tay là loại gãy xƣơng đã đƣợc mô tả từ thời của Hippocrates. Đây là loại gãy xƣơng rất thƣờng gặp ở trẻ em, chiếm khoảng 3% các gãy xƣơng [16] và chiếm khoảng 60% các gãy xƣơng vùng khuỷu [30], [103]. Trong một số trƣờng hợp có thể gây ra các biến chứng cấp tính. Theo Skaggs (2010), tỷ lệ gãy trên lồi cầu trẻ em có biến chứng thần kinh là 7,7% [99], tổn thƣơng mạch máu dao động trong khoảng 1 – 20% [99], [113]. Trong nhóm tổn thƣơng thần kinh, thần kinh quay bị tổn thƣơng nhiều nhất (41,2%), kế đến là thần kinh giữa (36%) và thần kinh trụ (22,8%) [99]. Có nhiều phƣơng pháp điều trị gãy trên lồi cầu xƣơng cánh tay ở trẻ em nhƣ: nắn chỉnh bó bột, kéo liên tục qua xƣơng hay nắn chỉnh rồi cố định bằng xuyên kim. Nắn chỉnh, cố định bằng bột thời gian thƣờng bị kéo dài, vấn đề là khó có thể cố định vững chắc ổ gãy xƣơng, tỉ lệ di lệch thứ phát cao, di chứng cứng khuỷu, can xƣơng xấu là điều khó tránh khỏi [6]. Phƣơng pháp điều trị bằng cách nắn kín các di lệch sau đó cố định ổ gãy bằng xuyên kim qua da dƣới màn tăng sáng đƣợc giới thiệu bởi Swenson vào năm 1948 và hiện nay đã đƣợc chấp nhận rộng rãi [108]. Tuy nhiên, phƣơng pháp điều trị này vẫn còn nhiều vấn đề còn chƣa đƣợc thỏa đáng. Ví dụ nhƣ cấu hình kết hợp xƣơng, xuyên kim một bên từ bên hay từ cả hai bên? Khi chỉ xuyên kim từ phía bên ngoài có ƣu điểm là tránh tổn thƣơng thần kinh trụ nhƣng lại khó tạo đƣợc kết xƣơng vững chắc nhất. Xuyên kim từ hai bên đƣợc chứng minh là vững chắc nhất nhƣng lại có nguy cơ gây tổn thƣơng thần kinh trụ. Rõ ràng cách kết hợp xƣơng cần đƣợc chọn lọc đối với từng trƣờng hợp.
Trên thực tế, tỷ lệ gãy trên lồi cầu ở trẻ em là rất thƣờng gặp nhƣng các biến chứng cấp tính trƣớc và sau điều trị chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, nguyên nhân và kết quả điều trị các biến chứng này vẫn còn khác nhau theo tổng kết của các tác giả. Nghiên cứu của Ngô Bảo Khang (1983), Đỗ Thành Phƣơng (2005) chủ yếu tập trung phân tích điều trị từ việc nắn kín và bó bột [7], [5]. Nghiên cứu của Nguyễn Quốc Cang (1972), Nguyễn Ngọc Hƣng (1997), Nguyễn Hồng Trung (1999), Nguyễn Thái Sơn (2006) Bùi Huy Thái (1993) tập trung tổng kết kết quả điều trị bằng phƣơng pháp nắn kín xuyên đinh qua da [4],[10],[11],[12], [2]. Huỳnh Mạnh Nhi (1996) tập trung phân tích các nguyên nhân và cách khắc phục di lệch thứ phát trong điều trị dạng gãy di lệch nặng [6]. Trịnh Minh Giám (2011) với tên đề tài gần tƣơng tự nhƣng tác giả loại ra các ca có biến chứng ban đầu, các ca mổ mở do nắn thất bại, cấu hình xuyên kim không đƣợc đề cập đến trong nghiên cứu, thời gian theo dõi ngắn và cỡ mẫu nhỏ [3]. Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu: “Nghiên cứu điều trị gãy trên lồi cầu xương cánh tay kiểu duỗi ở trẻ em bằng nắn kín và xuyên kim qua da dưới màn tăng sáng” nhằm thực hiện mục tiêu sau đây:
1. Đánh giá hiệu quả điều trị gãy trên lồi cầu xƣơng cánh tay kiểu duỗi ở trẻ em bằng phƣơng pháp nắn kín và xuyên kim qua da dƣới màn tăng sáng với cấu hình chọn lọc.
2. Phân tích nguyên nhân và đánh giá kết quả điều trị các biến chứng thần kinh, mạch máu trong gãy trên lồi cầu xƣơng cánh tay kiểu duỗi ở trẻ em