ThS01.173_Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
Trong hơn 4 thập kỷ qua cùng với xu hướng toàn cầu hóa, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã gia tăng đáng kể. Theo số liệu thống kê của Tổ chức Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), dòng vốn này có xu hướng tăng lên qua các năm, năm 2012 tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của toàn cầu đạt 1.350,926 tỷ USD, trong khi đó vào năm 1970 số lượng vốn này chỉ đạt 13,346 tỷ USD (tăng gấp 144 lần). Mặt khác, khi so sánh tương quan với giá trị tổng sản phẩm quốc nội dòng vốn FDI toàn cầu trong 4 thập kỷ qua đã tăng nhanh hơn gấp 6 lần. Đối với các nước đang phát triển dòng vốn FDI cũng có sự gia tăng rất đáng kể, nếu như ở thập kỷ 90 dòng vốn FDI vào các nước này chỉ chiếm 29% tổng vốn toàn cầu thì trong thập kỷ qua con số này đã thay đổi rất nhiều, chiếm đến 46% (UNCTAD, 2013). Điều này đã cho thấy xu hướng dịch chuyển rõ rệt dòng vốn FDI trên thế giới hiện nay, đang dần chuyển sang các nước đang phát triển. Cùng với sự gia tăng về lượng vốn FDI còn được xem là công cụ quan trọng trong thúc đẩy phát triển kinh tế của rất nhiều nước trên thế giới (Wang, 2009). Nhiều chính phủ các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển tin rằng FDI có thể giúp họ vượt qua sự trì trệ trong phát triển kinh tế và giải quyết nạn đói nghèo (Brooks et al., 2010). Theo Bwalya (2006), FDI có thể hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế thông qua 3 kênh: (i) hỗ trợ vốn (không liên quan đến nợ nần) nhằm tài trợ đầu tư cho nước thu hút; (ii) nâng cao trình độ kỹ thuật của nước thu hút và (iii) chuyển giao công nghệ mới cho các doanh nghiệp trong các nước này. Tầm quan trọng đối với việc gia tăng lượng vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển kinh tế và xã hội đã dẫn đến sự cạnh tranh lớn giữa các nước, đòi hỏi chính phủ mỗi quốc gia phải đẩy mạnh xúc tiến và cải thiện môi trường đầu tư. Xu hướng này xuất hiện không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển trong quá trình chuyển đổi kinh tế.
Trên thực tế, xu hướng toàn cầu hóa đã dẫn đến sự dịch chuyển rất lớn nguồn lực từ nước này sang nước khác, từ khu vực này sang khu vực khác. Trong thế kỷ 21, theo dự đoán của các nhà kinh tế nguồn lực sẽ chuyển từ các quốc gia phát triển đến các quốc gia đang phát triển có tốc độ tăng trưởng cao, trong đó có Việt Nam.
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bắt đầu vào Việt Nam từ năm 1988, bước ngoặt này đã được coi là thành tựu của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN (Kokko et al., 2003). Sau khi cải cách kinh tế được thực hiện năm 1986, dòng vốn FDI hàng năm vào Việt Nam đã tăng lên đáng kể, từ 341,7 triệu USD năm 1988 đến năm 2013 ước tính tăng lên 22.352,2 triệu USD, mức tăng trưởng hàng năm trên 30% (Tổng cục Thống kê, 2014). Cao điểm quá trình thu hút lượng vốn này là năm 2008 với tổng vốn huy động trên 71.000 triệu USD, tuy nhiên đã có sự sụt giảm nghiêm trọng từ năm 2009 cho đến nay (từ số vốn đăng ký năm 2009 là 23.107,3 triệu USD đã giảm xuống còn 16.348 triệu USD năm 2012, giảm 29,3%). Mặc dù sự sụt giảm này không nằm ngoài xu hướng chung của toàn cầu dưới tác động của khủng hoảng kinh tế, nhưng nếu so sánh với khu vực ASEAN và Trung Quốc thì xu hướng dòng chảy ngược lại có sự gia tăng trong 4 năm qua. Điều này đã đặt ra các câu hỏi lớn: Các yếu tố nào ảnh hưởng thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam? Các yếu tố ảnh hưởng phân bố không gian vốn FDI giữa các địa phương tại Việt Nam là gì?. Để trả lời các câu hỏi này đòi hỏi phải: xác định các yếu tố và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam; xác định các yếu tố ảnh hưởng phân bố không gian vốn FDI giữa các địa phương tại Việt Nam. Nếu như kết quả ước lượng và kiểm định không có ý nghĩa đồng nghĩa đối với các nhà đầu tư nước ngoài Việt Nam hoàn toàn không có lợi thế cạnh tranh nổi bật gì so với các nước, hoặc không có sự khác biệt về lợi thế giữa các địa phương trong thu hút dòng chảy FDI tại Việt Nam. Với tầm quan trọng của dòng vốn FDI đối với tăng trưởng kinh tế, việc trả lời các câu hỏi này rất cần thiết nhằm đưa ra giải pháp phù hợp, từ đó tăng cường thu hút hơn nữa dòng vốn FDI vào Việt Nam nói chung và tại các địa phương nói riêng trong thời gian tới. Với lý do trên tác giả đã lựa chọn và thực hiện đề tài “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam” làm luận án tiến sĩ của mình.