ThS33.011_Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn ma văn kháng thời kỳ đổi mới
1. Lý do chọn đề tài
Trong nền văn xuôi đương đại Việt Nam, Ma Văn Kháng là nhà văn có nhiều đóng góp lớn. Với phong cách lao động nghiêm túc, không ngừng tìm tòi, đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật, ông đã khẳng định được vị trí vững chắc của mình trên văn đàn văn học. Sáng tác của ông được đánh giá cao ở cả thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Ma Văn Kháng là nhà văn viết nhiều và viết khoẻ. Từ truyện ngắn đầu tay – Phố cụt đăng trên báo Văn nghệ năm 1961, cho đến nay Ma Văn Kháng đã có đến 20 tập truyện ngắn, 12 cuốn tiểu thuyết và 4 truyện viết cho thiếu nhi. Những tập truyện ngắn viết về đề tài miền núi như: Xa phủ (1969), Bài ca trăng sáng (1972), Góc rừng xinh xắn (1972), Người con trai họ Hạng (1972), Mùa mận hậu (1972), Cái móng ngựa (1973) đã khẳng định tài năng, tâm huyết của nhà văn và góp phần làm cho bức tranh hiện thực cuộc sống được phản ánh trong nền văn học hiện đại Việt Nam trở nên phong phú, đa dạng.
Không chỉ thành công ở thể loại truyện ngắn, Ma Văn Kháng còn rất thành công ở thể loại tiểu thuyết. Từ Gió rừng (1976), Đồng bạc trắng hoa xòe (1978), Mùa lá rụng trong vườn (1982), Vùng biên ải (1983) đến Đám cưới không có giấy giá thú (1989), Côi cút giữa cảnh đời (1989) …, tên tuổi của Ma Văn Kháng càng được đông đảo bạn đọc biết đến bởi không chỉ ở vốn hiểu biết dồi dào mà còn ở một cách thể hiện mới mẻ.
Trong văn nghiệp của Ma Văn Kháng, truyện ngắn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Truyện ngắn đã đem đến vinh quang cho nhà văn ngay từ buổi đầu khởi nghiệp: Truyện ngắn Xa Phủ được giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi viết truyện ngắn 1967 – 1968 của tuần báo Văn nghệ; tập truyện Trăng soi sân nhỏ được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995 và giải thưởng Đông Nam Á năm 1998; truyện San Cha Chải được giải cây bút vàng của Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam 1996 – 1998.
Không chỉ thành công ở đề tài miền núi, Ma Văn Kháng còn thành công ở đề tài thành thị. Các tập truyện Ngày đẹp trời (1986), Trái chín mùa thu (1988), Heo may gió lộng (1990), Trăng soi sân nhỏ (1995) … đã thể hiện những giá trị nhân sinh sâu sắc và những trăn trở đầy trách nhiệm của nhà văn về cuộc đời và con người. Với quan niệm viết văn là việc “đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn”, Ma Văn Kháng đã tạo cho mình một tiếng nói, một phong cách nghệ thuật riêng. Các sáng tác của ông không chỉ đặt ra và lý giải những vấn đề có ý nghĩa dân tộc mà còn mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc như: vấn đề hôn nhân gia đình, tình yêu, tâm linh, những vấn đề về nghệ thuật, vai trò sứ mệnh của văn chương …
Ma Văn Kháng là nhà văn không ngừng đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật. Chính vì thế, lâu nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về truyện ngắn của ông. Tuy nhiên nghiên cứu về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Ma Văn Kháng vẫn chưa có một công trình chuyên biệt nào. Với mong muốn góp thêm tiếng nói vào sự khẳng định đặc điểm nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn tháng, chúng tôi lựa chọn đề tài: “ Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới”.
Nghiên cứu thành công vấn đề này, luận văn sẽ góp phần khẳng định tài năng, sự độc đáo của Ma Văn Kháng trên hành trình sáng tạo nghệ thuật của tác giả