LA01.067_Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa, nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hà Nội
Dưới góc độ lý thuyết, Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp luôn là mối quan tâm hàng đầu không chỉ của các doanh nghiệp mà còn là mối quan tâm rất lớn của các nhà nghiên cứu cả trong và ngoài nước. Có khá nhiều nghiên cứu về Năng lực cạnh tranh của DN đã được thực hiện, tuy nhiên khái niệm về Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vẫn chưa có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu. Bên cạnh đó, các nhân tố tác động đến Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng được tiếp cận theo nhiều hướng nghiên cứu khác nhau, đặc biệt có rất ít các nghiên cứu về Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở cả trong và ngoài nước tiếp cận dựa trên lý thuyết về năng lực của doanh nghiệp.
Theo Sanchez & Heence (1996, 2004) thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dựa trên khả năng kết hợp các nguồn lực của DN nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh. “Năng lực cạnh tranh của một công ty là khả năng duy trì, triển khai, phối hợp các nguồn lực và khả năng theo cách giúp công ty đạt được mục tiêu của nó” (Sanchez & Heene, 1996, 2004). Như vậy, tiếp cận dựa trên nguồn lực dựa vào lợi thế nguồn lực của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh còn tiếp cận dựa trên năng lực thì dựa vào khả năng kết hợp các nguồn lực để tạo ra năng lực – đòi hỏi DN phải năng động, hệ thống, nhận thức và toàn diện trong quản lý chiến lược (Sanchez, 2008). Bản chất của năng lực cạnh tranh đã được chuyển hướng chú trọng vào năng lực thay vì nguồn lực (Sanchez & Heence, 1996, Sanchez, 2001; Freiling & ctg, 2008). Theo quan điểm dựa trên năng lực của doanh nghiệp thì năng lực là chìa khóa để duy trì lợi thế cạnh tranh bền vững và đạt hiệu quả cao (Grant,1996; Jackson, Hitt & DeNisi, 2003; Teece, Pisano & Shuen, 1997; Sanchez & Heence, 1996, 2004; Sanchez, 2008).
Dưới góc độ thực tiễn, ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi nước. Cùng với việc đóng góp cho xã hội khối lượng hàng hóa lớn và giải quyết nhiều việc làm cho người lao động, các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn tạo nên nguồn thu nhập ổn định cho một bộ phận dân cư, khai thác các nguồn lực và tiềm năng tại chỗ của địa phương. Mặt khác, doanh nghiệp nhỏ và vừa giữ vai trò hỗ trợ, bổ sung cho các DN lớn tạo thành mối liên kết cùng hợp tác, cùng cạnh tranh và cùng nhau phát triển.
Tại Việt Nam, theo Tổng cục thống kê, tính đến cuối năm 2014, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm hơn 97%, sử dụng hơn 50% lao động, tạo 47% GDP và đóng góp khoảng 40% nguồn thu ngân sách [12]. Bên cạnh ưu thế về dễ khởi nghiệp, linh hoạt, phát huy được nghề truyền thống, là vườn ươm tài năng kinh doanh thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam lại có quy mô nhỏ, trình độ lao động và quản lý thấp, công nghệ lạc hậu, khả năng tiếp cận vốn vay hạn chế [1]. Bên cạnh đó, Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO, là thành viên TPP, Cộng đồng kinh tế ASEAN và đang tiếp tục thực hiện lộ trình đã cam kết hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới qua các hiệp định thương mại đã tham gia. Quá trình hội nhập kinh tế vừa mang lại cho doanh nghiệp nhỏ và vừa những lợi ích nhưng cũng tạo những thách thức to lớn đó là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, sự thay đổi nhanh chóng và khó lường của môi trường kinh doanh, cũng như áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt ở cả thị trường trong và ngoài nước, đã tạo ra nhiều thách thức đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam.
Đứng trước các thách thức đó, để tồn tại và phát triển bền vững, cạnh tranh ngang bằng với các doanh nghiệp trên thế giới, các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo ra các lợi thế cạnh tranh của riêng mình. Để đáp ứng yêu cầu trên, trên cơ sở khoảng trống lý thuyết trong các nghiên cứu trước tác giả lựa chọn đề tài:”Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa, nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hà Nội“ làm nội dung nghiên cứu của luận án.