LA03.088_Nâng cao năng lực cạnh tranh của tổ chức kinh doanh chợ đô thị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Muc tiêu cua luân an la tìm kiếm cơ sở khoa học cho các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của TCKDCĐT ở cả tầm vi mô và vĩ mô (chủ yếu là cấp chính quyền địa phương) nhằm phát huy vai trò của chợ trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của TP Đà Nẵng; bảo tồn và duy trì chợ truyền thống ở đô thị để đáp ứng nhu cầu của xã hội trong bối cảnh nhiều loại hình thương mại tiên tiến, hiện đại đang phát triển.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là góp phần bổ sung lý thuyết về năng lực cạnh tranh của TCKDCĐT, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của TCKDC ĐT trên địa bàn TP Đà Nẵng đến năm 2025. Cu thê là:
– Hệ thống hóa các vấn đề lý luận có liên quan, lựa chọn cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu phù hợp để làm rõ bản chất, đánh giá thực trạng và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến NLCT của TCKDCĐT;
– Kiến nghị những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh có tính logic, thực tế và khả thi.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đôi tương nghiên cưu cua luân an là các giải pháp nâng cao năng lưc canh tranh cua tô chưc kinh doanh chơ đô thi. Các giải pháp liên quan đến chủ thể chính là TCKDCĐT. Tuy nhiên, do tính đặc thù của chợ đô thị nên sẽ nghiên cứu cả những giải pháp liên quan đến các cơ quan quản lý nhà nước để đảm bảo môi trường kinh doanh và cạnh tranh thích hợp hơn.
Phạm vi nội dung nghiên cứu bao gồm cơ sở lý luận, kinh nghiệm thực tiễn về NLCT của TCKDCĐT nói chung và chợ đô thị trên địa bàn TP Đà Nẵng; tình hình thực tế và giải pháp nâng cao NLCT của TCKDCĐT trên địa bàn TP Đà Nẵng. Trong đó, nội dung có tính mục tiêu là các giải pháp ở cả tầm vi mô và vĩ mô.
Khách thể nghiên cứu bao gồm các TCKDCĐT, các cơ quan quản lý nhà nước về chợ đô thị và thương nhân, người tiêu dùng đến chợ mua sắm.
Tổ chức kinh doanh chợ đô thị trước hết là doanh nghiệp và hợp tác xã. Tuy nhiên, theo định hướng phát triển chợ của Nhà nước, sẽ chuyển đổi mô hình quản lý chợ từ ban quản lý (BQL), tổ quản lý sang mô hình kinh doanh, quản lý chợ là doanh nghiệp, hợp tác xã nên việc nghiên cứu NLCT của BQL chợ cũng cần được thực hiện như là tiền thân của các doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh chợ đô thị ở TP Đà Nẵng. Việc nghiên cứu về TCKDCĐT không tách rời với chợ đô thị vì đây là hoại hình tổ chức thương mại có nhiều nét đặc thù, khác biệt với các loại hình chợ hiện đại. Ngoài ra, liên quan đến NLCT của TCKDCĐT có vai trò của Nhà nước nên luận án cũng nghiên cứu về công tác quản lý của Nhà nước đối với chợ đô thị, chủ yếu là của chính quyền địa phương để thấy được thực trạng, những ưu điểm và hạn chế nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao NLCT của TCKDCĐT.
Khi nghiên cứu NLCT của TCKDCĐT, chủ yếu là nghiên cứu trong mối quan hệ giữa TCKDCĐT với các bên liên quan có tính cạnh tranh trên cùng một khu vực thị trường, như các tổ chức kinh doanh trung tâm thương mại và siêu thị, các chủ thể kinh doanh mặt bằng và cung cấp dịch vụ kinh doanh cho thương nhân, kể cả thương nhân và người tiêu dùng, nhà cung cấp. Vì mỗi chợ tọa lạc trên một khu vực địa lý nhất định nên sự cạnh tranh giữa các TCKDCĐT (cạnh tranh nội khối) là không đáng kể nên sẽ không tập trung nghiên cứu sâu.
Pham vi nghiên cưu vê không gian la đia ban TP Đa Năng.
Pham vi nghiên cưu vê thơi gian: Dư liêu lam cơ sơ cho nghiên cưu chu yêu la trong khoang 10 năm (tư 2006 đên 2016); thơi gian dư bao la đên năm 2025.
6. Các câu hỏi nghiên cứu mà luận án cần tập trung giải quyết
Trong bối cảnh hiện nay, chợ đô thị là loại hình tổ chức thị trường trao đổi hàng hóa và dịch vụ mang tính truyền thống có nguy cơ bị thu hẹp hoặc tàn lụi vì sức ép của các loại hình thương mại tiên tiến, hiện đại hơn. Vấn đề đặt ra là cần có giải pháp thích hợp từ chính sách của Nhà nước đến hoạt động của các đơn vị, tổ chức được giao chức năng, nhiệm vụ quản lý chợ, kinh doanh và khai thác chợ để khắc phục các điểm yếu kém, tồn tại, làm cho chợ đô thị tiếp tục thích ứng với môi trường kinh doanh mới, phục vụ có hiệu quả cho nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, đất nước.
Những câu hỏi nghiên cứu được đặt ra và luận án cần tập trung giải quyết là:
– Tổ chức kinh doanh chợ đô thị phải chịu sức ép cạnh tranh như thế nào trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định hướng thị trường và hội nhập?
– NLCT của TCKDCĐT là gì? Cấu thành và tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của TCKDCĐT là gì ? Làm thế nào để đánh giá?
– Trong trường hợp TP Đà Nẵng, thực trạng năng lực cạnh tranh của TCKDCĐT hiện nay như thế nào ?
– Định hướng và giải pháp gì để nâng cao năng lực cạnh tranh của TCKDCĐT trên địa bàn TP Đà Nẵng trong giai đoạn đến năm 2025 nhằm duy trì, bảo tồn và phát triển chợ một cách hiệu quả hơn ?
8. Kết cấu của luận án
Ngoài các phần theo quy định, luận án gồm có các nội dung chính như sau:
– Mở đầu
– Chương 1. Cơ sở lý luận và kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của tổ chức kinh doanh chợ đô thị
– Chương 2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của tổ chức kinh doanh chợ đô thị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
– Chương 3. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của tổ chức kinh doanh chợ đô thị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
– Kết luận
1.1. Khái niệm cơ bản và lý thuyết cơ sở để nghiên cứu năng lực cạnh tranh của tổchức kinh doanh chợ đô thị 16
1.1.1. Các khái niệm cơ bản 16
1.1.2. Một số lý thuyết cơ sở để nghiên cứu năng lực cạnh tranh của tổ chức kinh doanh chợ đô thị 25
1.2. Phương pháp luận nghiên cứu năng lực cạnh tranh của tổ chức kinh doanh chợ đô thị 31
1.2.1. Quan điểm tiếp cận nghiên cứu năng lực cạnh tranh của tổ chức kinh doanh chợ đô thị 31
1.2.2. Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của tổ chức kinh doanh chợ đô thị 33
1.2.3. Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của tổ chức kinh doanh chợ đô thị 35
1.2.4. Các tiêu chí và phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh của tổ chức kinh doanh chợ đô thị 43
1.3. Kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của tổ chức kinh doanh chợ đô thị – chọn điển hình ở nước ngoài và Việt Nam 49
1.3.1. Kinh nghiệm từ một số nước trên thế giới 49
1.3.2. Kinh nghiệm của một số địa phương ở Việt Nam 54
1.3.3. Những bài học kinh nghiệm rút ra 57
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA TỔ CHỨC KINH DOANH CHỢ ĐÔ THỊ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 61
2.1. Khái quát về tổ chức hoạt động kinh doanh của hệ thống chợ đô thị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng 61
2.1.1. Giới thiệu về thành phố Đà Nẵng 61
2.1.2. Hệ thống chợ đô thị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng 64
2.1.3. Các tổ chức quản lý và kinh doanh chợ đô thị của thành phố 74
iii
2.1.4. Cơ chế, chính sách và công tác quản lý nhà nước đối với chợ đô thị trên địa bàn 76
2.2. Khảo sát về năng lực cạnh tranh của tổ chức kinh doanh chợ đô thị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng 82
2.2.1. Khảo sát nhà quản lý 82
2.2.2. Khảo sát thương nhân 87
2.2.3. Khảo sát người tiêu dùng 90
2.3. Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của tổ chức kinh doanh chợ đô thị trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng 93
2.3.1. Vị trí, mặt bằng và cơ sở vật chất 93
2.3.2. Năng lực tài chính 95
2.3.3. Năng lực nhân sự 98
2.3.4. Năng lực tổ chức và quản trị 100
2.3.5. Năng lực cung cấp dịch vụ 103
2.3.6. Năng lực marketing 105
2.3.7. Kết quả kinh doanh 107
2.3.8. Đánh giá chung về NLCT của TCKDCĐT trên địa bàn TP Đà Nẵng 109
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA TỔ CHỨC KINH DOANH CHỢ ĐÔ THỊ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 112
3.1. Định hướng phát triển kinh tế, xã hội và dự báo khái quát thị trường hàng hóa thành phố Đà Nẵng giai đoạn đến năm 2025 112
3.1.1. Định hướng phát triển kinh tế, xã hội thành phố Đà Nẵng đến năm 2025 112
3.1.2. Dự báo khái quát thị trường hàng hóa thành phố Đà Nẵng đến năm 2025 114
3.2. Quan điểm, mục tiêu và định hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của tổ chức kinh doanh chợ đô thị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng 116
3.2.1. Quan điểm 116
3.2.2. Mục tiêu và định hướng 119
3.3. Đề xuất giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của tổ chức kinh doanh chợ đô
thị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng 124
iv
3.3.1. Hoàn thiện môi trường kinh doanh của tổ chức kinh doanh chợ đô thị 124
3.3.2. Giải pháp đối với tổ chức kinh doanh chợ đô thị 134
KẾT LUẬN 150
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 152
TÀI LIỆU THAM KHẢO 153
PHỤ LỤC 161
v
DANH MỤC CÁC CHƯ VIẾT TẮT
ASEAN Association of Southeast Asian Nations
(Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á)
ANTT An ninh trật tự ATTP An toan thưc phâm BQL Ban quản lý
CB Cán bộ
CSVC Cơ sở vật chất
DAMFAMCO Công ty Quản lý hội chợ triển lãm và các chợ Đà Nẵng
DN Doanh nghiêp
ĐH Đại học
ĐN Đà Nẵng
GDP Gross Domestic Product (Tổng sản phẩm trong nước) GRDP Gross Regional Domestic Product
(Tổng sản phẩm trên địa bàn trong nước) HTX Hơp tac xa
MTV Một thành viên NLCT Năng lực cạnh tranh NV Nhân viên
PCCC Phong chay chưa chay
PL Phụ lục
TCKDCĐT Tổ chức kinh doanh chợ đô thị
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TP Thành phố UBND Uy ban nhân dân VSMT Vệ sinh môi trường
WTO World Trade Organization (Tổ chức Thương mại Thế giới)
vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Số lượng và phân bố chợ đô thị trên địa bàn TP Đà Nẵng (2017) 65
Bang 2.2: Tông hơp nhưng thê manh va điêm yêu hiên nay cua chơ đô thi 74
Bảng 2.3: Các loại hình tổ chức quản lý và kinh doanh chợ đô thị trên địa bàn TPĐN
(2017) 75
Bảng 2.4: Tình hình thu thập phiếu khảo sát từ nhà quản lý 83
Bảng 2.5: Thống kê kết quả đánh giá năng lực cạnh tranh (của nhà quản lý) 84
Bảng 2.6: Tình hình thu thập phiếu khảo sát từ thương nhân 88
Bảng 2.7: Thống kê kết quả đánh giá năng lực cạnh tranh (của thương nhân)
88
Bảng 2.8: Tình hình thu thập phiếu khảo sát từ người tiêu dùng 91
Bảng 2.9: Thống kê kết quả đánh giá năng lực cạnh tranh (của người tiêu dùng)
91
Bảng 2.10 TOWS cua cac TCKDCĐT trên địa bàn TP. Đà Nẵng hiện tại 110
vii
DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐÔ THI
Hình 0.1: Các yếu tố năng lực cạnh tranh của TCKDCĐT 13
Hình 0.2: Các yếu tố môi trường tác động đến năng lực cạnh tranh của
TCKDCĐT 13
Hình 1.1: Các mô hình tổ chức quản lý và kinh doanh chợ đô thị 21
Hình 1.2: Mô hình 5 áp lực cạnh tranh của M. Porter 28
Hình 1.3: Mô hình chuỗi giá trị của M. Porter 28
Hình 1.4: Mô hình viên kim cương của M. Porter 29
Hình 1.5: Các kiểu đánh giá năng lực cạnh tranh 47
Hình 2.1: Biểu đồ chỉ số thành phần năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Đà Nẵng
63
Hình 2.2: Biểu đồ kết quả khảo sát nhà quản lý về các tiêu chí năng lực cạnh tranh của TCKDCĐT 86
Hình 2.3: Biểu đồ kết quả khảo sát thương nhân về các tiêu chí năng lực cạnh tranh của TCKDCĐT 90
Hình 2.4: Biểu đồ kết quả khảo sát người tiêu dùng về các tiêu chí năng lực cạnh tranh của TCKDCĐT 92
Hình 2.5: Kết quả khảo sát về đánh giá các tiêu chí năng lực cạnh tranh của
TCKDCĐT trên địa bàn TP. Đà Nẵng 93
Hình 2.6: Biểu đồ kết quả khảo sát đánh giá năng lực cạnh tranh tổng thể của
TCKDCĐT trên địa bàn TP. Đà Nẵng 109
1
1. Tính cấp thiết của đề tài
MỞ ĐẦU
Trong hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội của các đô thị, chợ là bộ phận thiết yếu. Chợ là hình thức biểu hiện của thị trường, là nơi kết nối cung – cầu, đáp ứng nhu cầu của xã hội về sản xuất và tiêu dùng. Ở đây, chợ được hiểu là chợ truyền thống. Chợ truyền thống tại các đô thị được gọi là chợ đô thị. Chợ đô thị đã có quá trình hình thành và phát triển từ lâu đời; đến nay đã có được mạng lưới rộng khắp, đa dạng, giữ vai trò quan trọng trong đời sống của dân cư và sự phát triển kinh tế – xã hội chung của đất nước.
Cũng như các thực thể khác trong nền kinh tế, chợ đô thị luôn chịu tác động bởi nhiều yếu tố bên ngoài, nhất là trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, phát triển kinh tế thị trường ngày càng mạnh mẽ. Sự phát triển của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước với các hình thức thương mại mới, văn minh và hiện đại, quy mô lớn, trình độ cao đang đặt ra thách thức cạnh tranh rất lớn đối với các chợ truyền thống ở khu vực đô thị. Cụ thể, chợ đô thị phải cạnh tranh với các siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi, cửa hàng mặt phố, tiệm tạp hóa, hàng rong và thương mại điện tử. Trong các năm qua, xu hướng lựa chọn của người tiêu dùng về nơi mua sắm đã có sự thay đổi; nhiều người, nhất là người có thu nhập cao, giới trẻ và người làm việc hành chính, văn phòng thường đến siêu thị, cửa hàng tiện lợi, trung tâm thương mại hay truy cập các trang web bán hàng trực tuyến để mua hàng thay vì đến chợ truyền thống. Một số chợ truyền thống có dấu hiệu thương nhân kinh doanh sa sút, mặt bằng bên trong chợ sử dụng không hết hoặc kém hiệu quả, người đi chợ giảm hoặc chỉ tập trung vào một số khoảng thời gian trong ngày chứ không liên tục, dàn đều.
Tuy vậy, chợ truyền thống nói chung, chợ truyền thống ở đô thị nói riêng là một bộ phận quan trọng trong hệ thống thương mại, thị trường của các địa phương; gắn liền với nó là công ăn việc làm, thu nhập và đời sống của một bộ phận lớn lao động xã hội và dân cư. Họ là những người lao động quy mô nhỏ, thu nhập trung bình và thấp, rất nhạy cảm về kinh tế và xã hội. Hơn nữa, chợ là thực thể có tính xã hội, cộng đồng; dịch vụ chợ có tính chất của sản phẩm công cộng. Về khía cạnh văn hóa, xã hội; đại đa số người tiêu dùng ở các đô thị hiện nay vẫn còn giữ thói quen mua sắm hàng hóa ở các chợ truyền thống; khách du lịch cũng rất quan tâm và thích thăm quan, mua sắm ở các chợ địa phương. Việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình hội nhập quốc tế là yêu cầu tự nhiên, xác đáng của dân tộc và cư dân địa phương. Do vậy, chợ truyền thống ở đô thị cần được tiếp tục tồn tại và phát triển. Đòi hỏi này
2
cần được thực hiện không chỉ đơn thuần thông qua các doanh nghiệp mà vai trò của
Nhà nước rất quan trọng.
Trong môi trường cạnh tranh, chợ đô thị ở thành phố (TP) Đà Nẵng các năm qua đã có những thay đổi tích cực; tuy nhiên, tình trạng kém thu hút thương nhân và khách hàng tham gia hoạt động chợ cũng đã xuất hiện nhiều hơn. Việc quản lý hoạt động của chợ chưa tập trung hướng đến đáp ứng nhu cầu của các đối tượng tham gia chợ. Chất lượng dịch vụ của các chợ đô thị chưa đảm bảo, chưa tạo được sự khác biệt và khai thác được những lợi thế so sánh của chợ so với các loại hình thương mại khác. Điều đó phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh (NLCT) của các tổ chức kinh doanh chợ đô thị (TCKDCĐT) và vai trò của Nhà nước trong việc định hướng, ban hành cơ chế, chính sách và thực hiện chức năng quản lý đối với thị trường nói chung, chợ nói riêng.
Vì vậy, việc nghiên cứu, đề xuất giải pháp nâng cao NLCT của các tổ chức kinh doanh chợ là cần thiết, đáp ứng yêu cầu bức thiết của thực tiễn quản lý kinh tế ở khu vực đô thị trên địa bàn TP Đà Nẵng hiện nay cũng như trong tương lai.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án đã được công bố ở trong và ngoài nước
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Vấn đề cạnh tranh đã được đề cập đến trong kinh tế chính trị học cổ điển (từ thế kỷ XIX) bởi Adam Smith, David Ricardo, Cac Mac… Lúc bấy giờ, cạnh tranh được nghiên cứu với giả thiết là thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Các chủ thể kinh tế có thể phát huy lợi thế tuyệt đối hoặc/và lợi thế tương đối (so sánh) để thắng lợi trong cạnh tranh.
Đến đầu thế kỷ XX, E. H. Chamberlin, với tác phẩm “The theory of monopolistic competition” (Lý thuyết cạnh tranh độc quyền, 1933) đã khởi xướng mô hình cạnh tranh độc quyền và trở thành cơ sở lý luận cho tử tưởng cạnh tranh bằng sự khác biệt.
Trong thời kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đã có một số phát triển về mặt lý thuyết liên quan đến cạnh tranh, nổi bật là mô hình cạnh tranh trong kinh tế học tổ chức (hay tổ chức công nghiệp, IO) được tổng quát hóa thông qua mối quan hệ giữa cơ cấu ngành (Structure of industry), sự vận hành hay chiến lược (Conduct/strategy) của doanh nghiệp và hiệu quả kinh doanh (Performance) của ngành, còn được gọi là mô hình SCP hay mô hình Bain/Mason (Jose S. Bain, 1956; Edward Mason, 1939). Theo đó, hiệu quả kinh doanh phụ thuộc chủ yếu vào cơ cấu ngành mà các doanh nghiệp đang hoạt động. Chiến lược của các doanh nghiệp cùng
3
ngành về cơ bản là giống nhau; hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp cũng gần như nhau. Jay Barney (1986) và M. E. Porter (1981) gọi đây là hiệu quả kinh doanh ngành.
Các lý thuyết và mô hình cạnh tranh gắn với kinh tế học tổ chức chú trọng đến các yếu tố môi trường kinh doanh bên ngoài; chưa đề cập sâu đến yếu tố nội lực bên trong của mỗi doanh nghiệp. Hạn chế này được khắc phục nhờ sự ra đời của lý thuyết về nguồn lực của doanh nghiệp mà đại biểu tiên phong là Birger Wernerfelt với tác phẩm “Resource-based view of the firm” (Quan điểm dựa vào nguồn lực của doanh nghiệp, 1984). Nguồn lực là yếu tố quyết định đến lợi thế cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các nguồn lực bao gồm tất cả các tài sản, các năng lực, các quy trình tổ chức, các thuộc tính của doanh nghiệp, thông tin, tri thức… được kiểm soát bởi doanh nghiệp mà cho phép doanh nghiệp nhận ra và thực hiện các chiến lược để cải thiện hiệu quả và hiệu lực của nó (Daft, 1983). Các nguồn lực có thể bao gồm nguồn lực hữu hình như là tài chính, tổ chức, vật chất và công nghệ (J. B. Baney, 1991) và nguồn lực vô hình như nhân sự, sáng tạo và danh tiếng (R. M. Grant, 1991; R. Hall, 1992).
Lý thuyết nguồn lực là sự bổ sung cho mô hình IO và mô hình Chamberlin về cạnh tranh. Tuy nhiên, hạn chế của nó là vẫn dựa trên sự cân bằng, không tập trung vào quá trình động của thị trường (Jacobson 1992).
Cũng vào những năm cuối thể kỷ XX, M. E. Porter đã xuất bản các tác phẩm kinh điển như: “Competitive strategy” (Chiến lược cạnh tranh, 1980), “Competitive advantage” (Lợi thế cạnh tranh, 1985) và “Competitive advantage of nations” (Lợi thế cạnh tranh quốc gia, 1990). Porter đã lý giải một cách tường minh các khái niệm như chiến lược cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh và phân tích sâu sắc các yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh. Các mô hình phân tích cạnh tranh nổi bật của Porter là mô hình 5 lực cạnh tranh, mô hình chuỗi giá trị và mô hình viên kim cương.
Với sự thay đổi lớn trong môi trường cạnh tranh, trên thị trường ngày nay cầu đã có vai trò gây áp lực lên cung; khách hàng có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy, bên cạnh các nghiên cứu nêu trên, lý thuyết marketing đã có ảnh hưởng quan trọng trong nghiên cứu và hoạch định chiến lược cạnh tranh. Tác giả điển hình và nổi tiếng trong lĩnh vực này là Philip Kotler. Với quan điểm trọng khách hàng, các doanh nghiệp cần dựa vào thị trường, phải hiểu khách hàng và thỏa mãn tốt nhu cầu của khách hàng; đó chính là yếu tố quyết định tạo nên thành công trong cạnh tranh.
4
Trên cơ sở các tư tưởng và công trình nghiên cứu nêu trên, trong lĩnh vực quản trị kinh doanh và quản lý kinh tế đã có nhiều giáo trình được xuất bản làm tài liệu giảng dạy và học tập trong các trường đại học. Có thể nêu ra một số tác giả có uy tín như: Michael A. Hitt, R. Duane Ireland và Robert E. Hoskisson, Arthur A. Thompson, A. J. Strickland, Fred R. David, Michael E. Porter, Philip Kotler…
Từ những năm cuối thế kỷ XX đến nay, có nhiều bài báo quan trọng viết về lý thuyết nguồn lực, lý thuyết năng lực động và các mô hình nghiên cứu định lượng để đo lường NLCT của doanh nghiệp. Một số bài báo có giá trị học thuật lớn và điển hình như: The Resource – Based Theory of competitive advantage: Implications for strategy fomulation của Robert M. Grant (1991); Firm Resources and Sustained Competitive Advantage của Barney, J. (1991); The comparative Advantage theory of competition, Shelby D. Hunt & Robert M. Morgan (1995); Dynamic Capabilities and Strategic Management, David J. Teece, Gary Pisano and Amy Shuen (1997).
Các bài báo đã cho thấy rằng NLCT của doanh nghiệp trước hết là do các yếu tố nguồn lực bên trong của doanh nghiệp tạo ra, nhưng nguồn lực ấy phải được huy động sao cho có thể phát huy tốt nhất các thế mạnh, khắc phục các điểm yếu đồng thời tận dụng tối đa cơ hội và né tránh được các đe dọa của môi trường bên ngoài, hướng đến thỏa mãn cao nhất nhu cầu của khách hàng đồng thời phản ứng một cách thích hợp trước các chiến lược, sách lược của đối thủ cạnh tranh để giành chiến thắng.
Về các yếu tố nguồn lực tạo nên NLCT, các nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm nguồn NLCT cốt lõi (core competitive). Theo Barney (1991), đó là những nguồn lực thỏa mãn đồng thời 4 tiêu chí là 1) có giá trị; 2) hiếm có; 3) khó có thể bắt chước và
4) không thể thay thế được (gọi tắt là VRIN). Những nguồn lực như vậy là yếu tố
quyết định tạo nên lợi thế cạnh tranh bền vững cho doanh nghiệp.
Khi nghiên cứu về NLCT, khái niệm năng lực động (academic capabilities) đã được đề xuất. Theo Teece D.J. và các cộng sự (1997), năng lực động là khả năng tích hợp, xây dựng và định dạng lại những tiềm năng của doanh nghiệp để đáp ứng với thay đổi của môi trường kinh doanh. Các nhà nghiên cứu cho rằng đây là yếu tố quyết định thành công của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh năng động hiện nay.
Trong tác phẩm “Đại dương xanh”, W. Chan Kim và Renée Mauborgne cho rằng trong bối cảnh thị trường hiện đại, các doanh nghiệp có thể khám phá những khoảng trống thị trường gọi là “đại dương xanh” mà không nhất thiết cạnh tranh đối đầu với các đối thủ trực tiếp. Quan điểm này đã chứng tỏ tính phù hợp qua thực tiễn kinh doanh thành công của nhiều công ty ở nước ngoài cũng như tại Việt Nam.
5
Theo C. K. Prahalad và Venkat Ramaswamy, trong cuốn “Tương lai của cạnh tranh”, khách hàng ngày nay có nhiều sự lựa chọn hơn bao giờ hết, tuy vậy họ lại có ít sự hài lòng. Vì vậy, các công ty cần hợp tác với khách hàng để cùng kiến tạo giá trị, đem lại sự thỏa mãn cho cả hai bên. Đây là quan điểm mới trong kinh doanh và lựa chọn chiến lược cạnh tranh.Với đặc điểm của giao dịch thương mại truyền thống, các TCKDCĐT và thương nhân có thể áp dụng lý thuyết này để tồn tại và phát triển bền vững trên thị trường.
Về phương pháp nghiên cứu, ngày nay, các nhà nghiên cứu nước ngoài có xu hướng áp dụng kỹ thuật định lượng và phần mềm xử lý dữ liệu thống kê (như SPSS, AMOS) vào nghiên cứu, đo lường NLCT của doanh nghiệp hơn là tính chỉ số NLCT dựa vào điểm số và trọng số của các yếu tố liên quan. Các kỹ thuật như phân tích ma trận (SWOT hay TOWS, EFE, IFE, BCG…), so sánh cặp, so sánh chuẩn (benchmarking)… vẫn được áp dụng như là những phương pháp định tính để hỗ trợ trong nghiên cứu và hoạch định chiến lược cạnh tranh cho doanh nghiệp, tổ chức.
Riêng đối với lĩnh vực kinh doanh chợ đô thị, đến nay chưa thấy công trình nghiên cứu nào của tác giả nước ngoài đề cập cụ thể. Có một số nghiên cứu liên quan đến kinh doanh dịch vụ và dịch vụ phân phối như: Parasuraman và cộng sự (1988), Mehta và cộng sự (2000) công bố các thành phần, thang đo chất lượng dịch vụ; Jillian C. Sweeney, Geoffrey N. Soutar (2001), James F. Petric (2002) đưa ra các thành phần giá trị cảm nhận của khách hàng.
Tóm lại, ở nước ngoài đã có nhiều công trình nghiên cứu về cạnh tranh và NLCT. Điểm chung đáng lưu ý là chúng rất căn bản, thể hiện trình độ cao, nhưng lại được nghiên cứu trong bối cảnh thực tế của nước ngoài, thường khác nhiều so với Việt Nam. Vì vậy, các công trình này nên được xem là cơ sở để tiếp tục nghiên cứu và vận dụng vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu ở trong nước
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về NLCT với các cấp độ, phạm vi khác nhau; đóng góp nhiều về lý luận cũng như thực tiễn quản trị kinh doanh, quản lý kinh tế. Tuy nhiên, chưa thấy có nghiên cứu nào trùng với để tài luận án mà nghiên cứu sinh (NCS) thực hiện. Các công trình nghiên cứu liên quan phần lớn là NLCT của doanh nghiệp, có một số nghiên cứu về doanh nghiệp thương mại, dịch vụ nhưng đối tượng, phạm vi không giống với đề tài luận án.
Liên quan đến NLCT của doanh nghiệp, một số giáo trình và sách tham khảo đã được xuất bản, như: Quản trị chiến lược do Bộ môn Quản trị chiến lược Trường Đại học Thương mại biên soạn, 2012; Quản trị chiến lược phát triển vị thế cạnh tranh của
6
Nguyễn Hữu Lam (chủ biên – cb), NXB Giáo dục, 1998; Quản trị chiến lược của PGS. TS. Ngô Kim Thanh (cb), NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2011; Quản trị chiến lược của PGS. TS. Lê Thế Giới (cb), NXB Thống kê, 2011… Các giáo trình này đã khái quát được lý thuyết cơ bản về cạnh tranh và chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, có một số sách chuyên khảo đáng lưu ý là Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu hoá của Trần Sửu, NXB Lao động, 2006; Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay của Nguyễn Hữu Thắng, NXB Chính trị quốc gia, 2008; Nâng cao Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước trong hội nhập kinh tế quốc tế, Nguyễn Minh Tuấn, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2009. Các tác phẩm này đã trình bày tương đối rõ các vấn đề lý luận về cạnh tranh và NLCT của doanh nghiệp gắn với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam; phân tích thực trạng, một số nhân tố tác động đến cạnh tranh và đưa ra những giải pháp chung nhằm nâng cao NLCT của các doanh nghiệp.
Liên quan gần với đề tài của luận án, có một số công trình nghiên cứu như: Thị trường, chiến lược, cơ cấu của Tôn Thất Nguyễn Thiêm, NXB TP Hồ Chí Minh,
2003; Năng lực động của doanh nghiệp Việt Nam của Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang, Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh, 2008; Nâng cao lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp – Nghiên cứu trường hợp các siêu thị tại TP. Hồ Chí Minh của Bùi Thị Thanh và Nguyễn Xuân Hiệp, NXB Lao động, 2012…
Năm 2012, Hồ Trung Thanh đã nghiên cứu đề tài về tiêu chí và mô hình đánh giá NLCT động cho các doanh nghiệp ngành Công Thương . Tác giả đã đề xuất 6 tiêu chí đánh giá NLCT của doanh nghiệp ngành dệt may là: (1) năng lực sáng tạo (2) định hướng học hỏi (3) sự hội nhập toàn diện (4) năng lực Marketing (5) định hướng kinh doanh và (6) kết quả kinh doanh với 44 biến độc lập và 5 biến phụ thuộc. Đây là nghiên cứu dựa theo lý thuyết NLCT động và nghiên cứu bằng phương pháp định lượng nhưng áp dụng chủ yếu cho lĩnh vực sản xuất công nghiệp.
Về dịch vụ phân phối và thương mại, năm 2010 Trường Đại học Thương mại Hà Nội và Ủy ban Kinh tế của Quốc Hội đã xuất bản tập sách Các cam kết WTO về dich vụ phân phối, những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội; TS. Trịnh Thị Thanh Thủy, PGS. TS. Nguyễn Hoàng Long và ctg đã xuất ban tập sách Phương hướng điều chỉnh cơ cấu thương mại Việt Nam đến năm 2020, NXB Thông tin Truyền thông, 2011.
7
Về chủ đề chợ, đến nay có một số nghiên cứu của các nhà khoa học trong ngành thương mại và các trường đại học như Thương mại (Hà Nội), Kinh tế Quốc dân (Hà Nội) và Kinh tế (TP. Hồ Chí Minh). NCS đã tiếp cận với một số tài liệu điển hình như: Xây dựng và quản lý chợ do PGS. TS. Hoàng Thọ Xuân và nhóm chuyên gia Dự án Việt Nam – Phần Lan (Bộ Thương mại), 2004; Quản lý và kinh doanh chợ do TS. Phạm Quang Thao chủ biên, Trường Cán bộ Thương mại Trung ương (Hà Nội),
2005, Nâng cao năng lực và kỹ năng quản lý chợ (trong khuôn khổ dự án “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của thương mại nông thôn” của Bộ Công Thương, 2011, Cẩm nang quản lý chợ do Vụ Thị trường trong nước, Bộ Công Thương biên soạn,
2012.
Ngoài ra, ở Việt Nam cũng đã có nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học các cấp liên quan đến luận án, như: Nguyên lý và phương pháp xác định sức cạnh tranh của doanh nghiệp, GS. TS. Nguyễn Bách Khoa, 1997; Tổ chức, quản lý hệ thống chợ nội thành đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội Thủ đô Hà Nội, PGS. TS. Hoàng Đức Thân, 2002; Các giải pháp phát triển hệ thống phân phối hàng hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế; PGS. TS. Lê Trịnh Minh Châu và ctg, 2003; Giải pháp phát triển các mô hình kinh doanh chợ, ThS. Trịnh Thị Thanh Thủy, PGS. TS. Lê Trịnh Minh Châu và ctg, 2006; Đề án phát triển thương mại trong nước đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 của Bộ Công Thương, 2007; Báo cáo rà soát khuôn khổ pháp lý về dịch vụ phân phối ở Việt Nam và những khuyến nghị về sự phù hợp của các quy định chuyên ngành với cam kết WTO, Andras Lakatos và nhóm chuyên gia của Dự án hỗ trợ thương mại đa biên (Mutrap), 2009; Phát triển thương mại trên địa bàn TP Đà Nẵng đến năm 2020, TS. Đỗ Ngọc Mỹ,
1010…
Một số bài báo khoa học về chủ đề NLCT của doanh nghiệp: Phương pháp luận xác định năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế của doanh nghiệp, GS. TS. Nguyễn Bách Khoa, 2004; Những giải pháp marketing nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn TP Hà Nội, PGS. TS. Nguyễn Hoàng Long, 2006; Đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bằng ma trận, Lê Công Hoa, Lê Chí Công, 2006; Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh – cơ sở quan trọng để xây dựng tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, GS. TS. Bùi Xuân Phong, 2007; Mô hình cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, GS. TS. Hồ Đức Hùng, 2008; Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên địa bàn TP Đà Nẵng, TS. Võ Thị Thúy Anh,
2011.
8
Luận án tiến sĩ liên quan đến NLCT của doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh dịch vụ: Một số giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong giai đoạn mới, Nguyễn Vĩnh Thanh, 2005; Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch TP. Hồ Chí Minh đến năm 2020, Nguyễn Cao Trí, 2011; Nâng cao lợi thế cạnh tranh cho các siêu thị tại TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 – 2020, Nguyễn Xuân Hiệp, 2011; Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước kinh doanh du lịch sau cổ phần hóa trên địa bàn Hà Nội, Trần Thị Bích Hằng, 2012.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu ở trong nước đã đề cập, trình bày, đánh giá được thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao NLCT cho từng ngành, lĩnh vực kinh doanh cụ thể gắn với từng thời kỳ, không gian và hoàn cảnh kinh tế, xã hội nhất định. Các tác giả đã kế thừa và phát triển những thành tựu nghiên cứu đi trước, làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và đánh giá NLCT theo những góc nhìn và kỹ thuật khác nhau. Một số tác giả nghiên cứu dựa trên tiếp cận chuẩn tắc, thiên về định tính hoặc thống kê mô tả; một số khác tiếp cận thực chứng, thiên về định lượng. Kỹ thuật phân tích thống kê hiện đại với sự hỗ trợ của các phần mềm tin học cũng đã được sử dụng…
Tuy nhiên, đến nay NCS vẫn chưa tìm thấy công trình nghiên cứu nào đề cập trực tiếp đến NLCT của TCKDCĐT. Dẫu vậy, NCS cũng xem những công trình nghiên cứu đi trước là nguồn tài liệu tham khảo quý báu, là cơ sở lý luận và thực tiễn, là gợi ý để tiếp tục đi sâu hơn vào chủ đề của luận án.
Một số kết quả nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến năng lực cạnh tranh của tổ chức kinh doanh chợ đáng lưu ý:
Về các tiêu chí xác định NLCT của doanh nghiệp, nghiên cứu của Nguyễn Bách
Khoa (1997) và Nguyễn Hoàng Long (2006) đã chỉ ra 2 nhóm là: NLCT phi marketing và NLCT marketing. NLCT phi marketing có 5 thành tố: 1) vị thế tài chính, thể hiện ở lợi nhuận đạt được, dòng tiền mặt của doanh nghiệp, tỷ lệ vốn vay trên vốn sở hữu (hoặc tổng số vốn kinh doanh), mức dự trữ và hiệu suất lợi tức cổ phần; 2) Năng lực quản trị và lãnh đạo; 3) Năng lực nguồn nhân lực; 4) Năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D); 5) Năng lực sản xuất và tác nghiệp (Đối với doanh nghiệp dịch vụ, đó là năng lực tổ chức, quản trị các quá trình phục vụ, tác nghiệp). NLCT marketing gồm 6 thành tố: 1) Tổ chức marketing; 2) Hệ thông tin marketing;
3) Hoạch định chiến lược marketing; 4) Các chương trình marketing mix; 5) Kiểm tra marketing; 6) Hiệu suất hoạt động marketing.
9
Theo Bùi Xuân Phong (2007), các yếu tố cấu thành NLCT của doanh nghiệp gồm: 1) Trình độ tổ chức, quản lý; 2) Trình độ của đội ngũ lãnh đạo; 3) Các nguồn lực của doanh nghiệp; 4) Hoạt động nghiên cứu và triển khai; 5) Quản lý môi trường của doanh nghiệp; 6) NLCT của sản phẩm dịch vụ; 7) Thị phần của doanh nghiệp; 8) Năng suất sản xuất kinh doanh; 9) Hiệu quả kinh doanh; 10) Danh tiếng, uy tín của doanh nghiệp.
Nguyễn Xuân Hiệp (2011) với nghiên cứu về lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, trường hợp các siêu thị tại TP. Hồ Chí Minh đã công bố 5 yếu tố chính quyết định lợi thế cạnh tranh của các siêu thị tại TP Hồ Chí Minh là 1) tập hàng hóa; 2) giá cả; 3) không gian siêu thị; 4) tin cậy và 5) nhân viên phục vụ. Các yếu tố này được đo lường thông qua 21 tiêu chí cụ thể. Mỗi yếu tố, tiêu chí có tầm quan trọng khác nhau đối với lợi thế cạnh tranh của siêu thị.
Về mô hình cạnh tranh, Hồ Đức Hùng (2008) nêu tóm tắt rằng, NLCT là cơ sở của lợi thế cạnh tranh; từ lợi thế cạnh tranh mà xác định vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. NLCT của doanh nghiệp chịu tác động bởi 2 nhóm yếu tố là khả năng cạnh tranh và môi trường cạnh tranh. Đối với khả năng cạnh tranh thì có thể sử dụng mô hình 6 nguồn lực là 1) kỹ thuật, công nghệ, máy móc thiết bị; 2) vật tư, nguyên liệu; 3) nhân lực; 4) vốn, tài chính; 5) thị trường, marketing và 6) quản lý, điều hành. Ông cũng đã nêu ra hai cách tiếp cận đánh giá NLCT của doanh nghiệp. Một là dựa vào 5 yếu tố: 1) quy mô; 2) công nghệ và sản phẩm; 3) marketing và thương hiệu; 4) quản lý và chiến lược; 5) thị trường. Cách thứ hai là dựa vào 12 yếu tố: 1) quy mô doanh nghiệp; 2) thương hiệu; 3) đặc trưng sản phẩm; 4) công nghệ; 5) tài chính; 6) marketing; 7) quản lý; 8) hợp tác; 9) chiến lược; 10) thị trường; 11) hiệu quả kinh doanh và 12) đầu tư và xuất khẩu.
Năm 2009, Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang đã công bố kết quả nghiên cứu về một số yếu tố tạo thành năng lực động của doanh nghiệp ở TP. Hồ Chí Minh. Tác giả đã xác định được 5 nhân tố (vô hình) tạo nên năng lực động của doanh nghiệp – những nhân tố thỏa mãn tiêu chí VRIN và là nguồn tạo nên NLCT bền vững cho doanh nghiệp. Đó là: 1) định hướng kinh doanh; 2) năng lực marketing (đáp ứng thị trường); 3) định hướng học hỏi; 4) nội hóa tri thức; và 5) chất lượng mối quan hệ.
Về phương pháp tiếp cận đánh giá NLCT, có 3 cách chính là phân tích thống kê mô tả, định tính; so sánh chuẩn (benchmarking, hay phương pháp Thompson Strickland) và phân tích định lượng đã được sử dụng trong các công trình nghiên cứu. Mỗi phương pháp có những ưu nhược điểm riêng và thích hợp với tình huống, điều kiện nghiên cứu nhất định.
10
3. Những “khoảng trống” tri thức
Trên cơ sở khảo cứu của NCS, nhận thấy rằng, chủ đề NLCT của tổ chức kinh doanh chợ đô thị còn nhiều tồn tại; đáng kể là:
– Chưa có sự thống nhất về khái niệm và định nghĩa NLCT nói chung cũng như NLCT của doanh nghiệp hay tổ chức nói riêng.
– Có nhiều quan điểm tiếp cận và nghiên cứu NLCT của doanh nghiệp không hoàn toàn giống nhau. Nội dung các thành phần hay tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá NLCT cũng khác nhau.
– Có nhiều cách đánh giá NLCT khác nhau, như phân loại, xếp hạng, cho
điểm, tính giá trị bằng phương pháp định lượng (thông qua phương trình hồi quy).
– Chợ truyền thống ở đô thị mặc dù đã hình thành từ lâu đời và có vai trò to lớn trong đời sống kinh tế, xã hội nhưng chưa được nghiên cứu nhiều; chưa làm rõ được đặc điểm, tính độc đáo của chợ để từ đó có chinh sách, giải pháp thích hợp nhằm khai thác, phát huy và tạo nên sự khác biệt, có giá trị về kinh tế, văn hóa để phục vụ xã hội.
– NLCT của TCKDCĐT chưa được nghiên cứu trực tiếp; cũng chưa có tác giả nào đưa ra khái niệm, nội dung và tiêu chí đánh giá NLCT của TCKDCĐT.
– Trên địa bàn TPĐN chưa có nghiên cứu nào về NLCT của TCKDCĐT.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Muc tiêu cua luân an la tìm kiếm cơ sở khoa học cho các giải pháp nâng cao NLCT của TCKDCĐT ở cả tầm vi mô và vĩ mô (chủ yếu là cấp chính quyền địa phương) nhằm phát huy vai trò của chợ trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của TP Đà Nẵng; bảo tồn và duy trì chợ truyền thống ở đô thị để đáp ứng nhu cầu của xã hội trong bối cảnh nhiều loại hình thương mại tiên tiến, hiện đại đang phát triển.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là góp phần bổ sung lý thuyết về NLCT của TCKDCĐT, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao NLCT của TCKDC ĐT trên địa bàn TP Đà Nẵng đến năm 2025. Cu thê là:
– Hệ thống hóa các vấn đề lý luận có liên quan, lựa chọn cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu phù hợp để làm rõ bản chất, đánh giá thực trạng và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến NLCT của TCKDCĐT;
– Kiến nghị những giải pháp nâng cao NLCT có tính logic, thực tế và khả thi.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đôi tương nghiên cưu cua luân an là các giải pháp nâng cao năng lưc canh tranh cua tô chưc kinh doanh chơ đô thi. Các giải pháp liên quan đến chủ thể chính là TCKDCĐT. Tuy nhiên, do tính đặc thù của chợ đô thị nên sẽ nghiên cứu cả
11
những giải pháp liên quan đến các cơ quan quản lý nhà nước để đảm bảo môi
trường kinh doanh và cạnh tranh thích hợp hơn.
Phạm vi nội dung nghiên cứu bao gồm cơ sở lý luận, kinh nghiệm thực tiễn về NLCT của TCKDCĐT nói chung và chợ đô thị trên địa bàn TP Đà Nẵng; tình hình thực tế và giải pháp nâng cao NLCT của TCKDCĐT trên địa bàn TP Đà Nẵng. Trong đó, nội dung có tính mục tiêu là các giải pháp ở cả tầm vi mô và vĩ mô.
Khách thể nghiên cứu bao gồm các TCKDCĐT, các cơ quan quản lý nhà nước về chợ đô thị và thương nhân, người tiêu dùng đến chợ mua sắm.
Tổ chức kinh doanh chợ đô thị trước hết là doanh nghiệp và hợp tác xã. Tuy nhiên, theo định hướng phát triển chợ của Nhà nước, sẽ chuyển đổi mô hình quản lý chợ từ ban quản lý (BQL), tổ quản lý sang mô hình kinh doanh, quản lý chợ là doanh nghiệp, hợp tác xã nên việc nghiên cứu NLCT của BQL chợ cũng cần được thực hiện như là tiền thân của các doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh chợ đô thị ở TP Đà Nẵng. Việc nghiên cứu về TCKDCĐT không tách rời với chợ đô thị vì đây là hoại hình tổ chức thương mại có nhiều nét đặc thù, khác biệt với các loại hình chợ hiện đại. Ngoài ra, liên quan đến NLCT của TCKDCĐT có vai trò của Nhà nước nên luận án cũng nghiên cứu về công tác quản lý của Nhà nước đối với chợ đô thị, chủ yếu là của chính quyền địa phương để thấy được thực trạng, những ưu điểm và hạn chế nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao NLCT của TCKDCĐT.
Khi nghiên cứu NLCT của TCKDCĐT, chủ yếu là nghiên cứu trong mối quan hệ giữa TCKDCĐT với các bên liên quan có tính cạnh tranh trên cùng một khu vực thị trường, như các tổ chức kinh doanh trung tâm thương mại và siêu thị, các chủ thể kinh doanh mặt bằng và cung cấp dịch vụ kinh doanh cho thương nhân, kể cả thương nhân và người tiêu dùng, nhà cung cấp. Vì mỗi chợ tọa lạc trên một khu vực địa lý nhất định nên sự cạnh tranh giữa các TCKDCĐT (cạnh tranh nội khối) là không đáng kể nên sẽ không tập trung nghiên cứu sâu.
Pham vi nghiên cưu vê không gian la đia ban TP Đa Năng.
Pham vi nghiên cưu vê thơi gian: Dư liêu lam cơ sơ cho nghiên cưu chu yêu la trong khoang 10 năm (tư 2006 đên 2016); thơi gian dư bao la đên năm 2025.
6. Các câu hỏi nghiên cứu mà luận án cần tập trung giải quyết
Trong bối cảnh hiện nay, chợ đô thị là loại hình tổ chức thị trường trao đổi hàng hóa và dịch vụ mang tính truyền thống có nguy cơ bị thu hẹp hoặc tàn lụi vì sức ép của các loại hình thương mại tiên tiến, hiện đại hơn. Vấn đề đặt ra là cần có giải pháp thích hợp từ chính sách của Nhà nước đến hoạt động của các đơn vị, tổ
12
chức được giao chức năng, nhiệm vụ quản lý chợ, kinh doanh và khai thác chợ để khắc phục các điểm yếu kém, tồn tại, làm cho chợ đô thị tiếp tục thích ứng với môi trường kinh doanh mới, phục vụ có hiệu quả cho nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, đất nước.
Những câu hỏi nghiên cứu được đặt ra và luận án cần tập trung giải quyết là:
– Tổ chức kinh doanh chợ đô thị phải chịu sức ép cạnh tranh như thế nào trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định hướng thị trường và hội nhập?
– NLCT của TCKDCĐT là gì? Cấu thành và tiêu chí đánh giá NLCT của
TCKDCĐT là gì ? Làm thế nào để đánh giá?
– Trong trường hợp TP Đà Nẵng, thực trạng NLCT của TCKDCĐT hiện nay
như thế nào ?
– Định hướng và giải pháp gì để nâng cao NLCT của TCKDCĐT trên địa bàn TP Đà Nẵng trong giai đoạn đến năm 2025 nhằm duy trì, bảo tồn và phát triển chợ một cách hiệu quả hơn ?
7. Mô hình và phương pháp nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu
Đến nay có nhiều mô hình nghiên cứu NLCT khác nhau tương ứng với các cấp độ vĩ mô hay vi mô; quốc gia, địa phương, ngành hay doanh nghiệp, sản phẩm. Nhận thấy NLCT của TCKDCĐT tương đồng với NLCT của doanh nghiệp nên NCS kế thừa các nghiên cứu đi trước trong lĩnh vực này để lựa chọn mô hình nghiên cứu.
Về lý luận, khái niệm NLCT của TCKDCĐT được xây dựng trên cơ sở đặc điểm, nội dung hoạt động và quan hệ cạnh tranh của TCKDCĐT trong bối cảnh Việt Nam hiện nay.
Để đánh giá thực trạng NLCT của TCKDCĐT, NCS chọn mô hình APP là mô hình với 3 nhóm yếu tố cấu thành NLCT; đó là: Tài sản (Assets), Quá trình (Processes) và Hiệu quả (Performance). Tuy nhiên, NCS cũng tiếp thu những phát triển từ một số tác giả khác và điều chỉnh thành 3 yếu tố là: Nguồn lực, Năng lực hoạt động và Hiệu quả hoạt động.
NLCT của TCKDCĐT được xem như là một hàm số phụ thuộc vào các biến số
phản ánh nguồn lực, năng lực hoạt động và hiệu quả hoạt động của nó.
13
Nguồ n lự c
– Vị trí, mặt bằng
– Cơ sở vật chất
– Tài chính
– Nhân sự
– Nguồn lực vô
hình
Năng l ự c hoạ t đ ô n g
– Năng lực tổ chức và quản trị (bao gồm các chức năng)
– Năng lực cung cấp dịch vụ
– Năng lực
marketing
Hiệ u quả hoạ t đ ộ ng
– Hiệu suất khai thác mặt bằng
– Doanh thu
– Thị phần
– Lợi nhuận
– Hiệu quả tài chính
Hình 0.1: Các yếu tố năng lực cạnh tranh của TCKDCĐT
Nguồn: Tác giả kế thừa và đề xuất Mặt khác, TCKDCĐT là thực thể kinh doanh chịu ảnh hưởng lớn bởi môi trường bên ngoài, đặc biệt là luật pháp, cơ chế, chính sách và sự quản lý của Nhà nước. Do đó, để đề xuất được những giải pháp thích đáng nâng cao NLCT cho TCKDCĐT, NCS vận dụng các mô hình nghiên cứu môi trường kinh doanh, môi trường marketing và mô hình viên kim cương, mô hình 5 áp lực cạnh tranh của M.
Porter để xác định các yếu tố ảnh hưởng.
Phân tích các yếu tố môi trường cho phép NCS nhận định được những thuận lợi, cơ hội và khó khăn, thách thức đối với chợ đô thị nói chung, TCKDCĐT nói riêng. Từ đó, các giải pháp được đề xuất sẽ tập trung vào việc phát huy các thế mạnh, cơ hội và tìm cách vượt qua thách thức, khắc phục điểm yếu để TCKDCĐT có thể tồn tại và phát triển trong môi trường kinh doanh cạnh tranh.
NLCT của
TCKDCĐT
Các yếu tố môi trường ngành
Các yếu tố môi trường vĩ mô
Hình 0.2: Các yếu tố môi trường tác động đến năng lực cạnh tranh của TCKDCĐT
Nguồn: Tác giả kế thừa và đề xuất
14
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của luận án được xác lập là những nguyên lý khoa học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac Lenin; quan điểm, định hướng và mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội nói chung, phát triển hệ thống thương mại nói riêng trong hội nhập quốc tế của Việt Nam. Từ đó lựa chọn phương pháp tiếp cận nghiên cứu soạn thảo luận án là phương pháp tiếp cận hệ thống, logic và phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Đối với từng vấn đề và nội dung nghiên cứu cụ thể, chi tiết, NCS lựa chọn, vận dụng phù hợp các phương pháp cụ thể, như nghiên cứu, tổng hợp các tài liệu; khảo sát và điều tra xã hội học (phỏng vấn chuyên gia, phỏng vấn và điều tra qua bản hỏi…); phân tích – tổng hợp – so sánh; mô hình hóa, sơ đồ hóa, quy trình hóa… Sử dụng kết hợp cả hai phương pháp nghiên cứu là nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng. Trong đó, nghiên cứu định tính dựa trên dữ liệu thu thập được từ các tài liệu, các cuộc trao đổi, thảo luận với nhà chuyên môn, chuyên gia và quan sát tại hiện trường; tiến hành xử lý, sắp xếp một cách có hệ thống, thống kê mô tả, phân tích, so sánh, suy luận logic để rút ra những kết luận nghiên cứu cụ thể hoặc những kết luận tạo cơ sở để triển khai nghiên cứu định lượng. Nghiên cứu định lượng dựa trên việc khảo sát ý kiến của các bên liên quan thông qua bản hỏi với kỹ thuật có tính khoa học, xử lý dữ liệu và tính toán kết quả bằng các phần mềm Excel, SPSS; từ đó
đưa ra các nhận định, đánh giá và đề xuất.
Vận dụng phối kết hợp hợp lý phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng cho phép tác giả: (1) Xác định các yếu tố cấu thành và bộ tiêu chí đánh giá NLCT của TCKDCĐT. Kết quả là có 7 nhóm yếu tố (như là những biến độc lập) tác động thuận chiều đến NLCT tổng thể của TCKDCĐT (biến phụ thuộc) là: Cơ sở vật chất và bố trí mặt bằng; Tài chính; Nhân sự; Tổ chức và quản trị; Cung cấp dịch vụ; Marketing và Kết quả kinh doanh. (2) Xác định thang đo và chỉnh sửa các bản hỏi theo góp ý của chuyên gia; xác định quy mô mẫu với từng đối tượng điều tra theo lý thuyết nghiên cứu marketing và áp dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện kết hơp với phân bổ hạn ngạch. Kết quả khảo sát được làm sạch và xử lý bằng phương pháp thống kê với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS
20.0 và Excel.
Sử dụng dữ liệu, kết quả khảo sát với các nhóm đối tượng điều tra là nhà quản lý, thương nhân của chợ đô thị và người tiêu dùng TP Đà Nẵng, tiến hành phân tích, rút ra những nhận định, đánh giá có độ tin cậy, khách quan, xác thực về thực trạng
15
NLCT của TCKDCĐT trên địa bàn TP Đà Nẵng; tạo luận cứ thực tiễn cho đề xuất các giải pháp nâng cao NLCT của TCKDCĐT trên địa bàn trong thời gian tới.
Với sự vận dụng các phương pháp nêu trên, NCS đã thực hiện được các mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra về hệ thống hóa cơ sở lý luận; phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao NLCT của TCKDCĐT trên địa bàn TP Đà Nẵng.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Đê tai nghiên cưu la môt đong gop vê măt ly luân khoa hoc đôi vơi công tac quan ly nha nươc va quan tri kinh doanh trong linh vưc thi trương, thương mai noi chung; đôi vơi chơ đô thi noi riêng. Đây la cơ sơ tham khao đê cac nha hoach đinh chinh sach, cac cơ quan quan ly nha nươc trong nganh thương mai va tai đia phương xem xet, đê ra chinh sach, biên phap cu thê đôi vơi viêc quan ly, phat triên chơ đô thi. Kêt qua nghiên cưu cua đê tai la nguôn tai liêu tham khao va gơi y cho cac nha quan ly, đăc biêt la cac nha quan tri tai cac TCKDCĐT trong qua trinh hoach đinh, điêu hanh cac hoat đông chuyên môn cua chơ; gop phân không ngưng cai thiên va nâng cao năng lưc canh tranh cua TCKDCĐT.
Riêng vơi thanh phô Đa Năng, đê tai nay la sư phan anh trưc tiêp, khoa hoc thưc trang hoat đông, năng lưc canh tranh cua cac TCKDCĐT trên đia ban hiên nay va đa đưa ra nhưng đê xuât cu thê co thê tham khao, ap dung đê tiêp tuc phat triên hê thông chơ đô thi hôi nhâp cung vơi cac loai hinh thương mai văn minh, hiên đai va đa dang khac, đem lai hiêu qua kinh tê – xa hôi cao nhât cho đia phương.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài các phần theo quy định, luận án gồm có các nội dung chính như sau:
– Mở đầu
– Chương 1. Cơ sở lý luận và kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh tranh của tổ
chức kinh doanh chợ đô thị
– Chương 2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của tổ chức kinh doanh chợ đô thị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
– Chương 3. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của tổ chức kinh doanh chợ đô thị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
– Kết luận
16
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA TỔ CHỨC KINH DOANH CHỢ ĐÔ THỊ
1.1. Khái niệm cơ bản và lý thuyết cơ sở để nghiên cứu năng lực cạnh tranh của tổ chức kinh doanh chợ đô thị
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Doanh nghiệp và tổ chức kinh doanh
a) Doanh nghiệp
Doanh nghiệp (DN) là khái niệm phổ biến có thể được tiếp cận theo nhiều góc
độ khác nhau, ít nhất là góc độ kinh tế và góc độ pháp lý.
Về kinh tế, khái niệm DN đã được đề cập trong các tác phẩm kinh điển của Adam Smith, Karl Marx, R. H. Coase… với nội dung cốt lõi là tổ chức kinh doanh, được biểu hiện như công ty hay quan hệ đối tác, thực hiện việc sản xuất và bán sản phẩm trên thị trường để tìm kiếm lợi nhuận. Giáo trình Kinh tế vi mô (NXB Giáo dục, 2000) viết: “Doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo nhu cầu thị trường và xã hội để đạt lợi nhuận tối đa và đạt hiệu quả kinh tế – xã hội cao nhất.”
Dưới góc độ pháp lý, Luật DN (2014) định nghĩa: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”; “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”.
Như vậy, DN là đơn vị hay tổ chức có chức năng kinh doanh và phải thỏa mãn các quy định của pháp luật.
b) Tổ chức kinh doanh
Tổ chức kinh doanh là thực thể kinh doanh có cấu trúc; bao gồm nhiều người liên kết lại với nhau theo một phương thức nào đó để cùng thực hiện những công việc kinh doanh. Như trên đã trình bày, về mặt kinh tế, tổ chức kinh doanh chính là DN – đơn vị kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, nhưng không bao gồm các chủ thể phi tổ chức như cá nhân, hộ gia đình. Ngoài ra, theo pháp luật Việt Nam, hợp tác xã (HTX) cũng là tổ chức kinh doanh, mặc dù không được gọi là DN.
Tổ chức kinh doanh, dù là DN hay HTX (theo quy định của pháp luật) đều là chủ thể tham gia thị trường với tư cách là người bán (cung cấp sản phẩm, dịch vụ) và cũng là người mua (tiêu thụ các yếu tố đầu vào để sản xuất, kinh doanh); vận
17
động trên thị trường, chịu sự tác động bởi các quy luật kinh tế thị trường, cạnh tranh
để tìm kiếm và tối đa hóa lợi nhuận.
Bên cạnh DN và HTX, đơn vị sự nghiệp công lập cũng có thể có một số hoạt động mang tính chất kinh doanh (trong quá trình cung cấp dịch vụ công và thực hiện chức năng phục vụ quản lý nhà nước). Do vậy, đơn vị sự nghiệp công trong một số trường hợp hoạt động gần như tổ chức kinh doanh.
Trong luận án này, tổ chức kinh doanh được hiểu là DN (kinh tế) nói chung, bao gồm DN và HTX theo quy định của pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, đơn vị sự nghiệp thực chất có tham gia thị trường như là chủ thể cung cấp hàng hóa, dịch vụ với yêu cầu tự trang trải chi phí, tìm kiếm thu nhập hay lợi nhuận thì cũng được xem như là tổ chức kinh doanh đặc biệt.
1.1.1.2. Chợ và chợ đô thị
a) Khái niệm về chợ
Do nhu cầu của sản xuất, trao đổi và tiêu dùng hàng hóa; gắn liền với nền sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp; từ lâu đời, ở Việt Nam đã xuất hiện một hình thức tổ chức thị trường được gọi là chợ.
Chợ là nơi nhiều người tụ họp để mua bán hàng hóa trong những ngày, buổi nhất định. Chợ cũng có thể được hiểu là loại hình tổ chức thương mại tại một địa điểm nhất định, đáp ứng các nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa và nhu cầu tiêu dùng của dân cư trong khu vực xung quanh chợ.
Theo nghĩa thông thường, chợ là nơi gặp nhau giữa người mua và người bán
để trao đổi, mua bán sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê,
2011) định nghĩa: chợ là nơi công cộng để mọi người đến mua bán hàng hóa, có thể được quy định vào những buổi hoặc những ngày nhất định”. Từ điển Bách khoa Việt Nam viết: “chợ là nơi gặp gỡ nhau giữa cung và cầu các hàng hóa, dịch vụ, vốn; là nơi tập trung hoạt động mua bán hàng hóa giữa người sản xuất, người buôn bán và người tiêu dùng”.
Chợ là loại hình thương mại truyền thống phát triển khá phổ biến ở nước ta; là hiện thân của hoạt động thương mại; là sự tồn tại của không gian thị trường mỗi vùng, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và tập trung nhiều nhất ở các vùng đô thị, các thành phố lớn.
Theo một số văn bản quy phạm pháp luật, có các định nghĩa như sau:
18
“Chợ là mạng lưới thương nghiệp hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế-xã hội”(1).
“Chợ là một địa điểm cố định có địa giới được quy định trên địa bàn dân cư có hoặc không có nhà lồng, được thành lập theo quyết định của Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố, tập trung việc mua bán của các thành phần kinh tế, với một hay nhiều ngành hàng, với nhiều phương thức kinh doanh khác nhau được luật pháp cho phép; là nơi lưu thông hàng hóa giữa người bán và người mua theo nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân”(2).
“Chợ là một môi trường kiến trúc công cộng của một khu vực dân cư được chính quyền quy định, cho phép hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ thương nghiệp”(3).
Trong nghiên cứu này, khái niệm chợ được hiểu theo Quy định hiện hành của Chính phủ, là “loại chợ mang tính truyền thống, được tổ chức tại một địa điểm theo quy hoạch, đáp ứng các nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hoá và nhu cầu tiêu dùng của khu vực dân cư”(4).
Tính truyền thống của chợ thể hiện ở chỗ chợ được hình thành và phát triển gắn liền với quá trình phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam từ xưa đến nay; phản ánh tập quán trao đổi, mua bán và bản sắc văn hóa của người Việt Nam. Chợ truyền thống khác với các loại hình thương mại hiện đại như trung tâm thương mại, siêu thị, sàn giao dịch… về tổ chức hoạt động và cơ sở vật chất (CSVC), kỹ thuật. Phần lớn các chợ truyền thống được hình thành tự phát hoặc do Nhà nước đầu tư, xây dựng, trực tiếp quản lý hoặc giao cho DN quản lý.
b) Chợ đô thị
Trên cơ sở khái niệm về chợ như trên, chợ đô thị được định nghĩa là loại chợ truyền thống, được tổ chức tại khu vực đô thị theo quy hoạch của Nhà nước, nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ của dân cư.
Điểm khác nhau cơ bản giữa chợ nói chung và chợ đô thị là vị trí tọa lạc.
Theo Luật Quy hoạch đô thị (2009), đô thị là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hoá hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa
1 Thông tư 15-TM/CSTTTN ngày 16/10/1996 của Bộ Thương mại.
2 Quyết định số 1117/QĐ-UB-TM ngày 22/7/1993 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
3 Quyết định số 13/2006/QĐ-BXD ngày 19/4/2006 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng về tiêu chuẩn thiết kế chợ.
4 Nghị định 02/2003/NĐ-CP ngày 14/01/2003 của Chính phủ về phát triển và quản lý chợ.
19
phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã;
thị trấn.
Các chợ mặc dù tọa lạc trên không gian đô thị nhưng không phù hợp với quy hoạch sẽ không được khảo sát và nghiên cứu trong luận án này.
Chợ đô thị có các chức năng chủ yếu như sau:
– Tổ chức hoạt động mua bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ5 (bao gồm việc thu hút các nhà cung cấp cùng với hàng hóa, dịch vụ tập trung đến chợ để phân phối, phục vụ cho nhiều đối tượng khách hàng khác nhau với nhiều phương thức khác nhau);
– Hình thành giá cả thị trường cho các loại hàng hóa, dịch vụ;
– Kiểm định chất lượng hàng hóa lưu thông qua chợ;
– Tạo ra giá trị gia tăng cho hàng hóa, dịch vụ;
– Trao đổi thông tin thị trường;
– Kích thích kinh tế phát triển và đáp ứng nhu cầu tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ
của xã hội;
– Là môi trường giao lưu văn hóa, xã hội của dân cư.
1.1.1.3. Tổ chức kinh doanh chợ đô thị
a) Khái niệm
Tại chợ đô thị, có ba loại chủ thể chính tham gia vào hoạt động phân phối hàng hóa và cung cấp dịch vụ, đó là: 1) người bán hàng, cung cấp dịch vụ (hay thương nhân); 2) người mua hàng, tiêu dùng dịch vụ; và 3) đơn vị quản lý cơ sở hạ tầng, cung cấp các dịch vụ cơ bản tại chợ.
Đơn vị quản lý cơ sở hạ tầng, cung cấp các dịch vụ cơ bản tại chợ đô thị hiện nay có thể là đơn vị sự nghiệp (BQL chợ), DN hoặc HTX.
Tổ chức kinh doanh chợ đô thị (TCKDCĐT) là pháp nhân, được thành lập bởi cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước hoặc được Nhà nước cho phép thành lập, công nhận; có thể là DN hoặc HTX, có chức năng kinh doanh cơ sở hạ tầng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ trong lĩnh vực phân phối hàng hóa tại chợ.
Ban quản lý chợ là đơn vị sự nghiệp, không đăng ký kinh doanh nên không chính thức là TCKDCĐT. Tuy nhiên, trong thực tế, BQL chợ có thể có một số hoạt động mang tính kinh doanh như là TCKDCĐT.
b) Nhiệm vụ
TCKDCĐT có các nhiệm vụ chính như sau:
5 Có tác giả tách ra thành các chức năng riêng là mua bán hàng hóa, tập trung và phân phối hàng hóa ; cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh (Lê Trịnh Minh Châu)
20
– Cung cấp dịch vụ, đáp ứng nhu cầu của thương nhân và người đến chợ để
giao dịch (mua hàng, tiêu dùng dịch vụ);
– Tổ chức, quản lý và thực hiện các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ từ đầu tư cơ sở hạ tầng, chuẩn bị các yếu tố đầu vào đến sản xuất và cung cấp dịch vụ cho khách hàng một cách tốt nhất; tự trang trải được chi phí, có lãi và không ngừng phát triển trong môi trường cạnh tranh.
Dịch vụ do TCKDCĐT cung cấp là vừa mang tính thị trường vừa mang tính công cộng. Tính thị trường biểu hiện ở quan hệ mua bán, trao đổi theo các nguyên tắc và quy luật thị trường. Tính công cộng biểu hiện ở việc đảm bảo nhu cầu tự do đi lại, mua sắm, tiêu thụ hàng hóa thiết yếu của người dân địa phương.
Do đó, TCKDCĐT vừa là đơn vị kinh doanh vừa phải thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công theo quy định của Nhà nước; chịu sự quản lý của Nhà nước theo quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy định liên quan đến thị trường, kinh doanh thương mại, dịch vụ và chính sách xã hội.
c) Nội dung hoạt động
Là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, TCKDCĐT có các hoạt động chủ yếu sau:
– Nghiên cứu và phát triển thị trường;
– Đầu tư, trang bị và quản lý tài sản của chợ, bao gồm mặt bằng, các công trình kiến trúc, trang thiết bị và CSVC khác;
– Tổ chức, bố trí, cho thuê mặt bằng, tài sản và cung cấp cung cấp dịch vụ cho khách hàng (chủ yếu là thương nhân và người tiêu dùng) trong phạm vi chợ;
– Tham gia cùng với các cơ quan chức năng của Nhà nước tại địa phương để quản lý chất lượng hàng hóa, đảm bảo vệ sinh và an toàn thực phẩm (ATTP), quản lý thị trường theo quy định của pháp luật;
– Bảo vệ an ninh trật tự (ANTT);
– Phòng, chống cháy nổ;
– Phòng chống thiên tai;
– Quản trị nội bộ TCKDCĐT, như quản trị nhân sự, quản trị tài chính, quản trị
kỹ thuật và công nghệ…
d) Mô hình tổ chức
Để quản lý và duy trì hoạt động của các chợ đô thị, chính quyền địa phương đã tổ chức ra các đơn vị gọi là ban hay tổ quản lý chợ. Các đơn vị này có thể độc lập hoặc trực thuộc UBND địa phương (phường, quận hoặc thành phố). Tuy nhiên, với các cấp quy mô và tính đặc thù của chợ, các đơn vị nói trên chủ yếu thực hiện chức năng quản lý nhà nước, không có chức năng kinh doanh. Theo chủ trương xã hội
21
hóa đầu tư và phát triển chợ của Nhà nước, đã có thêm mô hình tổ chức là DN và
HTX ra đời, có chức năng kinh doanh chợ đô thị.
Cụ thể có 3 mô hình tổ chức quản lý và kinh doanh chợ như sau:
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
Chủ quản
Quản lý nhà nước
ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP (Ban/công ty quản lý
chợ)
DOANH NGHIỆP (Công ty quản lý,
kinh doanh chợ)
HỢP TÁC XÃ (Hợp tác xã quản
lý, kinh doanh chợ)
Hình 1.1: Các mô hình tổ chức quản lý và kinh doanh chợ đô thị
Nguồn: Tác giả tổng hợp
– Đơn vị sự nghiệp có thu
Đơn vị sự nghiệp có thu là tổ chức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập để thực hiện một số nhiệm vụ sự nghiệp do Nhà nước giao, có nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp; là đơn vị dự toán độc lập, có con dấu và tài khoản riêng, tổ chức bộ máy kế toán theo quy định của Luật Kế toán. Nó không phải là cơ quan quyền lực của Nhà nước, cũng không phải là đơn vị quản lý hành chính Nhà nước.
Đơn vị sự nghiệp có thu thực hiện chức năng quản lý chợ được gọi tên phổ biến là BQL chợ; tự trang trải các chi phí, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng tại Kho bạc Nhà nước.
Theo Nghị định số 02 (2003) của Chính phủ, BQL chợ có trách nhiệm quản lý tài sản nhà nước và các hoạt động trong phạm vi một hoặc một số chợ; thực hiện ký hợp đồng với thương nhân về thuê, sử dụng điểm kinh doanh; kinh doanh các dịch vụ tại chợ; tổ chức bảo đảm công tác phòng cháy chữa cháy (PCCC), vệ sinh môi trường (VSMT), ANTT và ATTP trong phạm vi chợ; xây dựng Nội quy của chợ theo quy định tại Điều 10 Nghị định này để trình Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt theo phân cấp quản lý chợ; tổ chức thực hiện Nội quy chợ và xử lý các vi phạm về Nội quy chợ; điều hành chợ hoạt động và tổ chức phát triển các hoạt động tại chợ; tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh của chợ và báo cáo định kỳ cho các cơ quan quản lý nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương).
22
Sở dĩ chợ được Nhà nước đầu tư, tổ chức và quản lý là do chợ thuộc bộ phận quan trọng trong hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại của địa phương; phục vụ nhu cầu xã hội tối cần thiết của nhân dân, gồm người buôn bán nhỏ và dân cư trên địa bàn xung quanh chợ. Các dịch vụ mà chợ cung cấp cho thương nhân và khách hàng không hoàn toàn mang tính thị trường đầy đủ mà có sự hỗ trợ của Nhà nước.
Chức năng của BQL chợ chủ yếu là tổ chức, điều hành và đảm bảo cho chợ hoạt động bình thường, đúng pháp luật; góp phần phát triển kinh tế và xã hội một cách ổn định; không kinh doanh như các DN; mặc dù có tham gia thị trường và cung cấp một số dịch vụ có thu tiền, như cho thuê mặt bằng, điểm kinh doanh, điện, nước, dịch vụ vệ sinh, bảo vệ hàng hóa và tài sản…. Mục tiêu của BQL chợ không phải là lợi nhuận.
Về tài chính, BQL chợ được ngân sách nhà nước cấp vốn đầu tư ban đầu, cấp kinh phí bổ sung cho đầu tư cơ bản và hoạt động thường xuyên. BQL chợ có nguồn thu từ các dịch vụ như cho thuê mặt bằng và điểm kinh doanh, giữ xe và tài sản, hàng hóa… Các khoản thu của chợ về nguyên tắc là thu của ngân sách; sau khi trang trải các khoản chi phí (theo định mức, theo dự toán) còn lại nộp vào Kho bạc Nhà nước. Cân đối tài chính hằng năm, nếu thiếu thì ngân sách bù, cấp bổ sung. Theo chủ trương cải tiến cơ chế quản lý, dần dần các BQL chợ được tự chủ một phần về mặt thu chi tài chính và nguồn kinh phí do ngân sách nhà nước cấp có xu hướng giảm dần.
Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) đã có hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của BQL chợ tại Thông tư số 06 (2003).
Tham gia thị trường với tư cách là TCKDCĐT chỉ có hai mô hình là DN và HTX. Theo định hướng của Chính phủ, nhất là ở khu vực đô thị, các đơn vị sự nghiệp này sẽ dần dần chuyển sang mô hình DN hoặc HTX để vừa kinh doanh vừa quản lý chợ.
– Doanh nghiệp
Doanh nghiệp quản lý, kinh doanh chợ (gọi tắt là DN chợ) là mô hình tương đối mới ở Việt Nam. Nhằm xã hội hóa đầu tư và phát triển chợ, theo Nghị định số 02 (2003), Chính phủ chủ trương chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ từ BQL sang DN; mở rộng áp dụng mô hình này đối với các chợ mới đầu tư, xây dựng.
DN chợ là pháp nhân, được thành lập nhằm mục đích kinh doanh và chịu sự điều tiết bởi Luật DN.
DN chợ thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của Chính phủ, cụ thể:
1) Tổ chức kinh doanh các dịch vụ tại chợ;
2) Bảo đảm công tác PCCC, ANTT, ANTT và ATTP trong phạm vi chợ;
23
3) Xây dựng Nội quy chợ chợ để trình Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền phê duyệt theo phân cấp quản lý chợ; tổ chức điều hành chợ hoạt động theo Nội quy chợ và xử lý các vi phạm về Nội quy chợ;
4) Bố trí, sắp xếp các khu vực kinh doanh bảo đảm các yêu cầu về trật tự, vệ sinh,
văn minh thương mại và phù hợp với yêu cầu của thương nhân kinh doanh tại chợ;
5) Ký hợp đồng với các thương nhân về việc thuê, sử dụng điểm kinh doanh tại chợ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật;
6) Tổ chức thông tin kinh tế, phổ biến chính sách, quy định của pháp luật và nghĩa vụ đối với Nhà nước của thương nhân kinh doanh tại chợ theo hướng dẫn của các cơ quan chức năng;
7) Tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh của chợ và báo cáo định kỳ cho các cơ
quan quản lý nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương).
Mô hình DN quản lý chợ sẽ phát huy được tính độc lập, tự chủ, năng động và hiệu quả hơn so với mô hình đơn vị sự nghiệp có thu.
Mục tiêu lợi nhuận là động lực thúc đẩy, làm cho DN năng động và tính cạnh tranh cũng mạnh mẽ hơn. Các chợ lớn ở đô thị áp dụng mô hình DN kinh doanh, khai thác và quản lý sẽ đạt được hiệu quả cao hơn so với các mô hình khác.
– Hợp tác xã
Hợp tác xã là hình thức tổ chức kinh tế tập thể, được thành lập theo sự tự nguyện của các thành viên tham gia (còn được gọi là xã viên), cùng đóng góp các nguồn lực, cùng lao động, cùng quản lý để đạt được mục tiêu chung trong sản xuất hoặc hoạt động kinh doanh. Địa vị pháp lý và các vấn đề liên quan đến hợp tác được luật hóa thành Luật HTX.
Để phát huy tiềm năng, lợi thế của thương nhân, Nhà nước đã khuyến khích hình thành các HTX quản lý, khai thác và kinh doanh chợ. Nghị định số 02 (2003) của Chính phủ đã ghi rõ là chợ có thể được giao cho HTX thương mại – dịch vụ để tổ chức kinh doanh, khai thác và quản lý. Theo Nghị định này HTX cũng được xem như là DN.
HTX có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của HTX theo quy định của pháp luật.
Đối với chợ, HTX là tổ chức đóng vai trò nhà đầu tư, huy động vốn của xã viên và các nguồn vốn khác trong xã hội để đầu tư vào chợ. HTX có thể nhận thầu của Nhà nước để quản lý, khai thác và kinh doanh chợ. HTX chợ thực hiện các chức