Theo Đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2009 -2014 của BGD&ĐT, mục tiêu chiến lược phát triển GDĐH là: Nâng tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân lên 200 vào năm 2010; 240/vạn dân năm 2014; 300/vạn dân vào năm 2015 và 450/vạn dân vào năm 2020. Tỷ lệ học ĐH và CĐ đạt 35% trong độ tuổi vào năm 2020. Mở rộng quy mô đào tạo trong các cơ sở GDĐH ngoài công lập, phấn đấu đến 2020 tỷ lệ sinh viên học trong các cơ sở GDĐH ngoài công lập chiếm 40% tổng số sinh viên trong cả nước. Hình thành một số trường ĐH có trình độ cao ở khu vực, có ít nhất một trường được đánh giá là thuộc tốp 200 ĐH hàng đầu thế giới năm 2020.
Sinh viên sau khi tốt nghiệp có kiến thức hiện đại, vững chắc, có khả năng lao động sáng tạo, có tư duy độc lập, phê phán và năng lực giải quyết vấn đề, có khả năng thích ứng cao với những biến động, có khả năng sử dụng tiếng Anh trong học tập, nghiên cứu và làm việc sau khi tốt nghiệp, 80% số sinh viên tốt nghiệp đạt mức 3 theo chuẩn năng lực ngoại ngữ quốc tế. Đến năm 2020 có ít nhất 5% tổng số sinh viên tốt nghiệp ĐH có trình độ ngang bằng với sinh viên tốt nghiệp loại giỏi ở các trường ĐH hàng đầu trong khối ASEAN, 80% số sinh viên tốt nghiệp được các doanh nghiệp và cơ quan sử dụng lao động đánh giá đáp ứng được các yêu cầu của công việc. Đồng thời, với việc nâng cao chất lượng toàn diện sinh viên diện đại trà, mở rộng diện đào tạo, bồi dưỡng sinh viên tài năng để chuẩn bị đội ngũ nhân lực có trình độ cao, thạo ngoại ngữ, đủ sức cạnh tranh trong khu vực và thế giới để đến năm 2020, Việt Nam đứng trong nhóm 50 nước đứng đầu về năng lực cạnh tranh về nhân lực.
Các chương trình đào tạo tiên tiến quốc tế được tiếp tục áp dụng trên quy mô rộng, đến năm 2010 có ít nhất 50 chương trình, 2020 có ít nhất 150 chương trình quốc tế được thực hiện, trong số đó, một số chương trình sẽ do các giáo sư của các đại học có uy tín quốc tế thực hiện giảng dạy trực tiếp bằng tiếng Anh.
Đội ngũ giảng viên các trường cao đẳng và đại học được chuẩn bị đầy đủ cả về số lượng và chất lượng để thực hiện nhiệm vụ đổi mới toàn diện GDĐH. Đến năm 2015 có 30% giảng viên cao đẳng đạt trình độ thạc sỹ trở lên, trong đó có 5% là tiến sỹ, đến năm 2020, các tỷ lệ này là 50% và 10%. Đến năm 2015 có 55% giảng viên đại học đạt trình độ thạc sỹ trở lên, trong đó có 25% là tiến sỹ, đến năm 2020 các tỷ lệ này là 65% và 30%.
Năng lực và hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ của các cơ sở GDĐH được nâng cao. Tăng số lượng trường đại học theo hướng nghiên cứu lên 14 vào năm 2010, 25 vào năm 2015 và 30 vào năm 2020. Sự gắn kết phối hợp giữa đào tạo – nghiên cứu khoa học – sản xuất dịch vụ được đẩy mạnh.
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI xác định sự nghiệp giáo dục, nhất là GDĐH và chuyên nghiệp, trực tiếp góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Theo đó, quy mô GDĐH cần mở rộng một cách hợp lý nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành. Nghị quyết số 04-NQ/HNTW ngày 14 tháng 1 năm1993 Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX và X tiếp tục khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; giáo dục – đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội; đầu tư cho giáo dục – đào tạo là đầu tư phát triển. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là cần có các giải pháp mạnh mẽ để phát triển GDĐH và việc phát triển GDĐH phải coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả; thực hiện đa dạng hoá các loại hình đào tạo; mở rộng các hình thức đào tạo không tập trung, đào tạo từ xa, từng bước hiện đại hóa, chuẩn hóa và xã hội hóa GDĐH; chuyển dần mô hình GDĐH hiện nay sang mô hình mở – mô hình xã hội hóa học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục thực hiện sự liên thông giữa các bậc học, các hình thức đào tạo, bảo đảm sự công bằng xã hội trong GDĐH.
Một trong những yêu cầu đặt ra là chuyển đổi hệ thống GDĐH theo hướng linh hoạt hóa, đa dạng hóa về loại hình, phương thức, chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo để người học có nhiều cơ hội hơn trong việc lựa chọn phù hợp với nhu cầu và khả năng của họ. Chuyển mục tiêu GDĐH sang đáp ứng nhu cầu cho cả phát triển kinh tế-xã hội và phát triển của mỗi cá nhân. Cơ cấu lại hệ thống GDĐH theo yêu cầu của thị trường lao động mới thông qua việc mở rộng quy mô đào tạo đội ngũ chuyên gia, nhà quản lý trong nền kinh tế thị trường; ưu tiên đào tạo kỹ sư, các nhà khoa học trong các ngành, lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ thông tin để chuẩn bị cho quá trình tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ và nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo Đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2009-2014 của BGD&ĐT, tỷ lệ hỗ trợ nghiên cứu khoa học của các cơ sở GDĐH trong NSNN đạt và duy trì ở mức 1,5% từ năm 2015.
Ngoài NSNN, nguồn lực cho giáo dục sẽ được huy động từ các tổ chức kinh tế – xã hội, được chia sẻ với người học và các hộ gia đình để đảm bảo có đủ nguồn tài chính thực hiện giáo dục có chất lượng.
Việc phân bổ tài chính cho các cơ sở giáo dục được thực hiện dựa trên nhu cầu thực và kết quả hoạt động của từng cơ sở nhằm tạo sự cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích các cơ sở phấn đấu nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo.
Nguồn lực cho giáo dục được quản lý và sử dụng có hiệu quả trên cơ sở nâng cao tính tự chủ của các cơ sở giáo dục, đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm đối với Nhà nước, người học và xã hội. Từ nay đến 2020, tất cả các cơ sở giáo dục đều được kiểm toán và công bố công khai kết quả kiểm toán.
Nhà nước tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các trường trung cấp nghề, cao đẳng nghề, trung cấp chuyên nghiệp, CĐ, ĐH. Tập trung đầu tư xây dựng một số cơ sở dùng chung như: trung tâm dữ liệu quốc gia, hệ thống thư viện điện tử, ký túc xá và các cơ sở văn hóa, thể dục thể thao.
Nhà nước có chính sách ưu đãi, hỗ trợ khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực GDĐH; bảo đảm quyền sở hữu theo pháp luật và các quyền lợi về vật chất và tinh thần của nhà đầu tư.
Phấn đấu có đủ phòng học các loại theo quy định xóa bỏ tình trạng đi thuê lớp học và hạn chế dần việc học vào buổi tối, 60% sinh viên được ở nhà ký túc xá; nâng cấp và xây dựng mới cơ sở vật chất cho 15 trường đại học trọng điểm và các trường đại học ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long, miền núi phía Bắc và các tỉnh Trung Bộ; vay vốn của Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu Á để xây dựng 4 trường đại học đẳng cấp quốc tế.
Từng bước hiện đại hoá các phòng thí nghiệm, thư viện và công nghệ thông tin phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học cho các trường đại học cao đẳng, tập trung đầu tư chiều sâu cho các trường trọng điểm.
Comments 1