LA32.035_Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án xác định mục đích nghiên cứu là đề ra các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về khởi tố vụ án hình sự, góp phần nâng cao hiệu quả thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận án đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
– Nghiên cứu cơ sở lý luận về khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam;
– Phân tích và đánh giá quy định của pháp luật hiện hành về khởi tố vụ án hình sự; những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thực hiện các quy định này trong việc giải quyết vụ án hình sự;
– Nghiên cứu so sánh pháp luật tố tụng hình sự một số quốc gia trên thế giới, rút ra những điểm khác biệt và kinh nghiệm cho Việt Nam về quy định khởi tố vụ án hình sự;
– Đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự hiện hành vềkhởi tố vụ án hình sự và nâng cao hiệu quả khởi tố vụ án hình sự.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận về khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới, thực tiễn thực hiện các quy định về khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian là các văn bản pháp luật có liên quan đến quy định khởi tố vụ án hình sự, chủ yếu là văn bản pháp luật tố tụng hình sự ban hành từ năm 1988 đến nay; số liệu giải quyết án được phân tích và đánh giá từ năm 2011 đến 2017.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu của luận án, tác giả xác định đối tượng nghiên cứu là:
– Các quan điểm lý luận về khởi tố vụ án hình sự;
– Quy định khởi tố vụ án hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và pháp luật một số nước thế giới;
– Thực tiễn khởi tố vụ án; những khó khăn, vướng mắc, bất cập, tồn tại để làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn.
4. Những điểm mới của luận án
Luận án là công trình chuyên sâu ở cấp độ Luận án tiến sĩ nghiên cứu toàn diện, hệ thống về khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Điểm mới của Luận án thể hiện trong các điểm sau:
– Luận án đã làm rõ khái niệm khởi tố vụ án hình sự theo hướng khẳng định khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng mở đầu cho quá trình tố tụng hình sự, cơ sở lý luận và thực tiễn của quy định khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam.
– Luận án đã khái quát quá trình hình thành, phát triển và phân tích các quy định hiện hành về khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam, rút ra những kế thừa cần thiết cho việc tiếp tục hoàn thiện quy định này.
– Luận án nghiên cứu khái quát quy định pháp luật tố tụng hình sự về vấn đề khởi tố vụ án hình sự của một số quốc gia trên thế giới như Liên bang Nga, Trung Quốc, Pháp, Đức… là những nước mà pháp luật Việt Nam có ảnh hưởng nhất định và từ đó rút ra những kinh nghiệm cho Việt Nam.
– Luận án đã phân tích thực tiễn khởi tố vụ án hình sự, những hạn chế, vướng mắc trong khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan có thẩm quyền và các nguyên nhân cụ thể dẫn đến những hạn chế này.
– Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và đánh giá thực tiễn, Luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam cũng như những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng quy định này trong thực tiễn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
– Về mặt khoa học: Luận án góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam và đề ra giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về khởi tố vụ án hình sự.
– Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của Luận án là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, vận dụng trong quá trình hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự. Đồng thời qua việc phát hiện những tồn tại trong thực tiễn khởi tố vụ án hình sự, Luận án đề ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn khởi tố vụ án hình sự.
Ngoài ra, những kết quả nghiên cứu của Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo về pháp luật hình sự và tố tụng hình sự.
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN………….. 7
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤ1N ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khởi tố vụ án hình sự – giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự……………22
1.2. Mối quan hệ giữa giai đoạn khởi tố vụ án hình sự với các giai đoạn
tố tụng khác……………………………………………………………………………………….36
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về khởi tố vụ án hình sự…………………………………………………………..40
1.4. Quy định về khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự một
số quốc gia trên thế giới………………………………………………………………………46
Kết luận Chương 1……………………………………………………………………………63
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VÀ BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015
VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ ………………………………………………………65
2.1. Chủ thể khởi tố vụ án hình sự………………………………………………………..65
2.2. Thủ tục tố tụng trong khởi tố vụ án hình sự …………………………………….77
2.3. Các quyết định tố tụng trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ……………97
2.4. Thời hạn khởi tố vụ án hình sự………………………………………………………112
2.5. Hoạt động kiểm sát khởi tố vụ án hình sự ……………………………………….114
Kết luận Chương 2……………………………………………………………………………123
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ ……………………………………………………126
3.1. Thực tiễn khởi tố vụ án hình sự từ năm 2011 đến năm 2017……………..126
3.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế hiệu quả khởi tố vụ án hình sự……….133
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả khởi tố vụ án hình sự…………………………..157
Kết luận Chương 3……………………………………………………………………………181
KẾT LUẬN………………………………………………………………………………………185
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Từ gốc
BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự TAND : Tòa án nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối ca
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Khi có một tội phạm được thực hiện, việc giải quyết vụ án hình sự nhanh chóng, chính xác nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh hành vi phạm tội và người thực hiện tội phạm là nhiệm vụ của tố tụng hình sự. Việc giải quyết vụ án hình sự có thể trải qua nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau, trong đó giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự, mở đầu cho quá trình chứng minh vụ án. Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm quyền sẽ xác định sự việc xảy ra có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự.
Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng rất quan trọng, đóng vai trò tiền đề cho các giai đoạn tố tụng tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Việc khởi tố vụ án hình sự sẽ tạo cơ sở pháp lý để thực hiện các hoạt động tố tụng tiếp theo và hầu hết các hoạt động tố tụng hình sự chỉ có thể được tiến hành sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự. Nếu việc khởi tố vụ án hình sự được thực hiện một cách kịp thời, có căn cứ và đúng pháp luật sẽ góp phần đảm bảo cho phát hiện và xử lý tội phạm được được nhanh chóng, tránh tình trạng truy cứu trách nhiệm hình sự oan sai đối với người vô tội. Ngược lại, nếu việc khởi tố vụ án hình sự không kịp thời sẽ có thể dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm, còn việc khởi tố vụ án không chính xác thì sẽ dẫn đến oan sai cho người vô tội, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tính nghiêm minh của pháp luật cũng như trật tự xã hội. Vì vậy, việc khởi tố vụ án hình sự cần phải đáp ứng được những yêu cầu chung về bảo vệ an toàn các hoạt động trong trật tự quản lý nhà nước và quản lý xã hội, nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện, điều tra, xử lý kịp thời, bảo vệ được những quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động này.
2
Khởi tố vụ án hình sự là một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng trong khoa học Luật tố tụng hình sự. Quy định này được pháp điển hóa lần đầu tiên trong BLTTHS năm 1988, tiếp tục được bổ sung, phát triển trong BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015. BLTTHS quy định trình tự, thủ tục khởi tố vụ án hình sự khá đầy đủ và cụ thể, trở thành cơ sở pháp lý quan trọng, đã và đang phát huy vai trò tích cực trong thực tiễn.Tuy nhiên, sau một thời gian dài áp dụng, các quy định về khởi tố vụ án hình sự cũng dần bộc lộ những vướng mắc, bất cập nhất định do còn nhiều điểm chưa hợp lý và thiếu đồng bộ, thống nhất; chưa dự liệu và điều chỉnh hết những trường hợp xảy ra trong thực tiễn tố tụng hình sự; chưa thực sự đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự. Những hạn chế này gây không ít khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc nhận thức và áp dụng quy định pháp luật, dẫn đến tình trạng khởi tố oan sai người vô tội hoặc bế tắc trong việc phát hiện và xử lý tội phạm.
Mặc dù là một trong những vấn đề trọng tâm của khoa học Luật tố tụng hình sự, lại là vấn đề phức tạp trong công tác thực hiện pháp luật, nhưng lý luận về khởi tố vụ án hình sự lại chưa được các chuyên gia pháp lý hình sự nghiên cứu chuyên sâu. Cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về khởi tố vụ án hình sự. Lý luận về khởi tố vụ án hình sự so với các vấn đề khác của tố tụng hình sự vẫn chưa phát triển, mảng tri thức về đề tài này hiện còn rất nhiều hạn chế dẫn đến việc nhận thức chưa có sự thống nhất. Do hạn chế về mặt lý luận nên các quy định pháp luật về khởi tố vụ án hình sự còn nhiều bất cập, từ đó thực tiễn khởi tố vụ án hình sự gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên sâu về quy định khởi tố vụ án hình sự là một yêu cầu khách quan và cần thiết, nhằm lý giải một cách khoa học những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra hiện nay.
3
Bên cạnh đó, nước ta đang trong tiến trình cải cách tư pháp nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, triển khai thực hiện Hiến pháp
2013 về quyền con người, về tổ chức bộ máy nhà nước. Đảng và Nhà nước ta khẳng định quyết tâm chính trị mạnh mẽ của mình trong việc thực hiện chủ trương và triển khai các nhiệm vụ cải cách tư pháp. Một trong những phương hướng hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp được Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đưa ra là: Hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Do vậy hoàn thiện các quy định về khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam là vấn đề hết sức cần thiết nhằm bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp không chỉ của người bị hại mà còn cả người thực hiện hành vi phạm tội trong tố tụng hình sự.
Tình hình như trên đặt ra nhu cầu cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn là cần phải có một công trình nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về vấn đề khởi tố vụ án hình sự. Do đó, tác giả đã chọn đề tài: “Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm Luận án Tiến sĩ luật học của mình nhằm nghiên cứu các vấn đề lý luận về khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng, xác định những bất cập còn tồn tại và đưa ra những giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vấn đề này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án xác định mục đích nghiên cứu là đề ra các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về khởi tố vụ án hình sự, góp phần nâng cao hiệu quả thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự.
4
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận án đặt ra nhiệm vụ
nghiên cứu như sau:
– Nghiên cứu cơ sở lý luận về khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự
Việt Nam;
– Phân tích và đánh giá quy định của pháp luật hiện hành về khởi tố vụ án hình sự; những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thực hiện các quy định này trong việc giải quyết vụ án hình sự;
– Nghiên cứu so sánh pháp luật tố tụng hình sự một số quốc gia trên thế giới, rút ra những điểm khác biệt và kinh nghiệm cho Việt Nam về quy định khởi tố vụ án hình sự;
– Đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
khởi tố vụ án hình sự và nâng cao hiệu quả khởi tố vụ án hình sự.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận về khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới, thực tiễn thực hiện các quy định về khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian là các văn bản pháp luật có liên quan đến quy định khởi tố vụ án hình sự, chủ yếu là văn bản pháp luật tố tụng hình sự ban hành từ năm 1988 đến nay; số liệu giải quyết án được phân tích và đánh giá từ năm 2011 đến 2017.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu của luận án, tác giả xác định đối
tượng nghiên cứu là:
5
– Các quan điểm lý luận về khởi tố vụ án hình sự;
– Quy định khởi tố vụ án hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam và pháp luật một số nước thế giới;
– Thực tiễn khởi tố vụ án; những khó khăn, vướng mắc, bất cập, tồn tại để làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn.
4. Những điểm mới của luận án
Luận án là công trình chuyên sâu ở cấp độ Luận án tiến sĩ nghiên cứu toàn diện, hệ thống về khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Điểm mới của Luận án thể hiện trong các điểm sau:
– Luận án đã làm rõ khái niệm khởi tố vụ án hình sự theo hướng khẳng định khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng mở đầu cho quá trình tố tụng hình sự, cơ sở lý luận và thực tiễn của quy định khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam.
– Luận án đã khái quát quá trình hình thành, phát triển và phân tích các quy định hiện hành về khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam, rút ra những kế thừa cần thiết cho việc tiếp tục hoàn thiện quy định này.
– Luận án nghiên cứu khái quát quy định pháp luật tố tụng hình sự về vấn đề khởi tố vụ án hình sự của một số quốc gia trên thế giới như Liên bang Nga, Trung Quốc, Pháp, Đức… là những nước mà pháp luật Việt Nam có ảnh hưởng nhất định và từ đó rút ra những kinh nghiệm cho Việt Nam.
– Luận án đã phân tích thực tiễn khởi tố vụ án hình sự, những hạn chế, vướng mắc trong khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan có thẩm quyền và các nguyên nhân cụ thể dẫn đến những hạn chế này.
– Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và đánh giá thực tiễn, Luận án
đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về khởi tố vụ án hình sự
6
trong tố tụng hình sự Việt Nam cũng như những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng quy định này trong thực tiễn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
– Về mặt khoa học: Luận án góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam và đề ra giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về khởi tố vụ án hình sự.
– Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của Luận án là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, vận dụng trong quá trình hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự. Đồng thời qua việc phát hiện những tồn tại trong thực tiễn khởi tố vụ án hình sự, Luận án đề ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn khởi tố vụ án hình sự.
Ngoài ra, những kết quả nghiên cứu của Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo về pháp luật hình sự và tố tụng hình sự.
7
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Hiện nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam được công bố ở nước ngoài.
Vấn đề khởi tố vụ án hình sự chưa thực sự thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học trên thế giới nên số lượng công trình còn ít so với các vấn đề khác của tố tụng hình sự. Sau đây là một số công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài:
“Human rights in the criminal trial – Human rights in criminal procedure” (tạm dịch là Quyền con người trong phiên tòa hình sự – Quyền con người trong tố tụng hình sự) của tác giả John M. Andrew (United Kingdom National Committee of Comparative Law, 1982), đây là cuốn sách chủ yếu phân tích những yêu cầu đảm bảo quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Nội dung sách phân tích các quyền của bị can, bị cáo trong quá trình bị truy cứu trách nhiệm hình sự từ giai đoạn khởi tố đến giai đoạn mở phiên tòa xét xử vụ án hình sự tại Vương quốc Anh (có sự so sánh với một số quốc gia Tây Âu) như: Quyền được giữ im lặng, quyền kiểm tra các chứng cứ, các cáo buộc, quyền đối chất nhân chứng chéo, quyền có một phiên tòa công bằng và thẩm phán không thiên vị, phải có sự tham gia của bồi thẩm đoàn,… Trong đó, tác giả cũng tập trung phân tích hai quá trình then chốt đó là “inquisitorial procedures” (tố tụng thẩm vấn) và “accusatorial procedures” (tố tụng tranh tụng). Tác giả phân tích rằng hai quá trình tố tụng này đều phụ thuộc vào những người tiến hành tố tụng, nếu quyền của người bị buộc tội không được đảm bảo thì quyền con người cũng sẽ không được đảm bảo.
“The guarantees for accused person under Article 6 of the European
Convention on Human Rights” ( tạm dịch là Đảm bảo quyền của người bị buộc
8
tội theo Điều 6 của Công ước Châu Âu về Nhân quyền) của tác giả Stephanos Stavros (NXB Sweet & Maxwell, Anh quốc, năm 1993). Công trình nghiên cứu này phân tích và so sánh một cách đầy đủ cách hiểu và áp dụng Điều 6 Công ước Châu Âu về nhân quyền của các quốc gia nằm trong khối EU, việc áp dụng đảm bảo quyền của người bị buộc tội trong quá trình tố tụng hình sự phụ thuộc vào truyền thống và sự phù hợp đối với pháp luật quốc gia của mỗi thành viên. (Điều 6 của Công ước nói về quyền được coi là không có tội khi chưa có sự phán quyết của tòa án và những quyền khác của người bị buộc tội).
“Criminal Procedure systems in the European Community” (tạm dịch là Những hệ thống tố tụng hình sự ở Cộng đồng Châu Âu) của tác giả Christine Van Den Wyngaert (NXB Butterworth & Co Ltd, 1993) đây là bài viết giới thiệu về những hệ thống tố tụng hình sự ở Châu Âu như Anh, Đức, Nga, Thụy Điển…, có sự so sánh các hệ thống tố tụng đó trong khuôn khổ các quốc gia Châu Âu. Trong bài viết có nêu rõ về những trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng có thể khởi tố vụ án, các quyền của người bị buộc tội có trong quá trình tố tụng…
“Criminal Prosecution Rationalization of Criminal Justice”, (tạm dịch là Sự lý giải về truy tố hình sự của tư pháp hình sự, Final Report, National Institute of Justice, US. Department of Justice, 1991), bài viết này gồm có 4 chương, bao gồm: tố tụng hình sự trong xã hội tự do; sự phát triển của tố tụng hình sự ở Hy Lạp, Rome, Giáo hội, Chế độ La Mã và những hệ thống thẩm vấn hiện đại; sự phát triển của tố tụng hình sự ở Anh, Scotland và Mỹ; những hệ thống tố tụng hình sự. Bài viết đã tập trung bàn về sự phát triển của hệ thống tố tụng hình sự ở một số quốc gia.
“Principle of Criminal Procedure” (tạm dịch là Nguyên tắc của tố tụng hình sự) của nhóm tác giả Russell L. Weaver, Leslie W. Abramson, John M Burkott, Catherine Hancok (NXB Thomson West, 2004) viết về vấn đề đảm bảo quyền của người bị buộc tội. Trong quá trình bị buộc tội từ giai đoạn khởi tố đến
9
khi bị xét xử, các cơ quan có thẩm quyền cần tuân thủ các nguyên tắc của tố tụng hình sự để đảm bảo các quyền của người buộc tội như: quyền im lặng, quyền có luật sư tham gia kể từ thời điểm bị khởi tố…
Russia’s Criminal Procedure Code Five Years Out (2007) (tạm dịch là BLTTHS nước Nga sau 5 năm áp dụng) của tác giả William Burnham và Jeffery Kahn, bài viết này nhận xét về nhiều sự thay đổi trong tố tụng hình sự của nước Nga sau 5 năm áp dụng BLTTHS năm 2001, trong đó quy định cụ thể về các căn cứ buộc tội cũng như thừa nhận người bị hại trở thành một bên buộc tội chính thức trong tố tụng hình sự.
Cuốn sách “Seeking Justice through the Criminal Justice System” (tạm dịch là Tìm kiếm công lý trong hệ thống tư pháp hình sự) do Bộ tư pháp Mỹ công bố trong chương trình khảo sát thực trạng của việc bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia vào quá trình tố tụng hình sự (2010). Cuốn sách này phân tích và nghiên cứu về quá trình tham gia tố tụng hình sự của người bị buộc tội, người bị hại và phản ứng tâm lý của họ về những quyền họ có thể có trong suốt quá trình tìm đến con đường chân lý của vụ án.
“Criminal process and human rights” (tạm dịch là Tố tụng hình sự và các quyền con người) của tập thể tác giả Jeremy Gans, Terese Henning, Jill Hunter và Kate Wamer (NXB New South Wales, Australia, 2011), các tác giả là những giáo sư, phó giáo sư của trường Đại học Luật tại Melbourne. Nội dung của bài viết xoay quanh vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự gắn liền với thực thi quyền con người tại Australia, đặc biệt là trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, những yêu cầu về việc bảo đảm những quyền tự do của con người như: quyền trong việc bắt, giam, giữ, xét xử, quyền được giữ im lặng, quyền được xét xử một cách công bằng cũng được phân tích một cách kĩ lưỡng.
“Protecting the right to a fair trial under the European Convention on
Human Rights” (Tạm dịch là Bảo đảm quyền được xét xử công bằng theo
10
Công ước châu Âu về quyền con người) của tác giả Dovydas VitkausKas Grigoriy Dikov (Europe human rights handbooks, Strasbourg, 2012). Hai tác giả là những luật sư có kinh nghiệm làm việc ở nước Nga và Anh, họ cũng từng làm việc cho Tòa án quyền con người Châu Âu, bài viết đã giới thiệu Điều 6 Công ước Châu Âu về nhân quyền, ghi nhận những quyền của người bị buộc tội khi tham gia vào quá trình tố tụng: Quyền được biết lý do bị buộc tội, biết các chứng cứ buộc tội, trong đó có nhấn mạnh quyền bào chữa của người bị buộc tội, quyền kiểm tra nhân chứng, quyền được xét xử công bằng…
Ngoài ra, còn có một số bài viết khác liên quan đến vấn đề khởi tố vụ án hình sự như:
American criminal procedure-case and commentary (tạm dịch là Tố tụng hình sự Mỹ, vụ án và bình luận) của tác giả Stephen A.Saltzburg (West Publishing, 1984).
The role of criminal Defense Lawyer in an Inquisitorial Procedure (tạm dịch: Vai trò của Luật sư bào chữa trong tố tụng thẩm vấn), Legal and Ethic Contranst, Hart Publishing, Vol.9, 2006.
Hand book on Criminal Procedure (Sổ tay tố tụng hình sự) của tác giả
Wayne. R. LaFave & Jerold H. Israel, NXB West Group (2003).
Evidentiary Barries to Conviction and Two Models of Criminal Procedure: A Comparative Study (Những rào cản về chứng cứ để ra phán quyết và hai mô hình tố tụng hình sự: nghiên cứu so sánh), tác giả Mirjan R. Damaska, Yale Law School Legal Scholarship Repository.
Các tài liệu nước ngoài rất có giá trị về mặt khoa học và độ tin cậy cao, nhưng vì lý do rào cản ngôn ngữ cũng như sự khó khăn khi tiếp cận tài liệu gốc nên số lượng tìm hiểu còn hạn chế. Đánh giá chung về các công trình trên, có thể nhận thấy rằng xu hướng nghiên cứu có nhiều điểm tương đồng với thực trạng nghiên cứu khoa học về lĩnh vực tố tụng hình sự ở Việt Nam. Các công
11
trình nghiên cứu nước ngoài thường chủ yếu đề cập đến quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung và quyền con người trong quá trình bị buộc tội nói riêng và các quyền này đều dựa vào nền tảng quy định của Công ước Châu Âu về quyền con người.
Theo chúng tôi, ở nước ngoài có ít các tài liệu nghiên cứu về khởi tố vụ án, bởi vì trong tố tụng hình sự đa số các quốc gia không coi khởi tố vụ án như một giai đoạn tố tụng độc lập như ở nước ta; mà chỉ như là một phần của giai đoạn điều tra.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Về vấn đề khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam, tính đến thời điểm nghiên cứu mà tác giả tiếp cận, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện về khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam dưới hình thức Luận án tiến sĩ luật học.
Trong thời gian gần đây, đã có một số công trình luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ viết về những vấn đề liên quan đến đề tài luận án mà tác giả đang nghiên cứu, cụ thể là:
Đề tài luận án tiến sĩ: Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự trong luật tố tụng hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả Lê Lan Chi (Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, 2010). Luận án phân tích về những vấn đề lý luận chung của nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự trong luật tố tụng hình sự Việt Nam như: làm rõ khái niệm, nội dung, vị trí của nguyên tắc này trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Đồng thời, tác giả còn so sánh các quan điểm, các quy định về nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự trong lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cũng như luật tố tụng hình sự của một số quốc gia khác trên thế giới. Cuối cùng, tác giả đánh giá tính hiệu quả của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội ở Việt Nam từ sau thời điểm BLTTHS năm 2003 có
12
hiệu lực đến nay để đưa ra các giải pháp từ pháp luật đến các giải pháp về cơ chế kiểm sát, giám sát, các giải pháp về vấn đề con người, về tổ chức thực hiện để hoàn thiện nguyên tắc này.
Đề tài luận án tiến sĩ Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại của tác giả Nguyễn Đức Thái (Đại học Luật TPHCM, 2015). Luận án đã phân tích khái niệm khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, cơ sở lý luận và thực tiễn của quy định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam, khái quát quá trình hình thành, phát triển và quy định hiện hành về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại. Đồng thời, Luận án đánh giá khái quát pháp luật các nước trên thế giới, đi sâu nghiên cứu pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức, Nga, Trung Quốc, những nước pháp luật Việt Nam có ảnh hưởng nhất định đề từ đó rút ra những kinh nghiệm cho Việt Nam. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, Luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam để góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn.
Đề tài luận án tiến sĩ Guarantee of the accused person’s right to defense counsel- a comparative study of Vietnamese, German and American criminal procedure laws (tạm dịch là Đảm bảo quyền có người bào chữa của người bị buộc tội, so sánh Luật tố tụng hình sự của Việt Nam, Đức và Mỹ) của tác giả Lương Thị Mỹ Quỳnh (Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh và Đại học Lund, Thụy Điển, năm 2011). Nội dung của luận án xoay quanh vấn đề tìm hiểu quyền bào chữa của người bị buộc tội qua pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam, Mỹ và Đức, đưa ra sự so sánh giữa bối cảnh lịch sử về việc đảm bảo quyền có người bào chữa của người bị buộc tội và làm sáng tỏ nền tảng lý luận về quyền này trong tố tụng hình sự, từ đó, tác giả đưa ra những kiến nghị phù hợp để góp phần bảo đảm quyền có người bào chữa của người bị buộc tội giai đoạn khởi tố đến lúc xét xử vụ án hình sự.
13
Đề tài luận án tiến sĩ Các chức năng trong tố tụng hình sự Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng (Hà Nội,
2012). Luận án làm rõ cơ sở lý luận của việc xác định chức năng tố tụng, ý nghĩa, nội hàm, phạm vi và giới hạn của từng chức năng trong tố tụng hình sự. Luận án cũng xác định rõ mối liên hệ giữa chức năng của tố tụng hình sự với mô hình tố tụng hình sự, trong đó trọng tâm là mối liên hệ với các yếu tố như mục đích của tố tụng hình sự, các nguyên tắc của tố tụng hình sự,…Đồng thời, luận án cũng xác định chủ thể thực hiện các chức năng tương ứng trong tố tụng hình sự, trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp đổi mới và hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự, về tổ chức và hoạt động của các chủ thể tham gia tố tụng, xây dựng mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo hướng tiếp thu các yếu tố hợp lý của mô hình tranh tụng và mô hình thẩm vấn.
Đề tài luận văn thạc sĩ Khởi tố vụ án hình sự – Những vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả Phan Văn Tuyến (Thành phố Hồ Chí Minh, 2009). Luận văn phân tích một số vấn đề lý luận về khởi tố: Khái niệm khởi tố vụ án; căn cứ, cơ sở khởi tố; chủ thể tiến hành tố tụng hình sựtrong giai đoạn khởi tố; phạm vi chứng minh trong giai đoạn khởi tố; trình tự khởi tố. Đồng thời, tác giả cũng phân tích các quy định của BLTTHS 2003 về khởi tố hình sự, từ đó chỉ ra những vấn đề cần bổ sung, sửa đổi trên cơ sở đối chiếu với thực trạng hoạt động khởi tố vụ án tại khu vực TPHCM. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động khởi tố trong tố tụng hình sự.
Đề tài luận văn thạc sĩ Những căn cứ và cơ sở khởi tố vụ án hình sự của tác giả Phạm Văn Huân (Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, 2010). Tác giả đã phân tích những vấn đề lý luận về những cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự theo quy định của BLTTHS năm 2003. Đồng thời thông qua việc phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện chế định: những cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình sự, xác định những nguyên nhân của kết
14
quả cũng như hạn chế, từ đó tác giả kiến nghị đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chế định khởi tố vụ án hình sự đảm bảo đúng pháp luật.
Bên cạnh đó, trong Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của các cơ sở đào tạo luật ở nước ta và các cuốn sách Bình luận khoa học BLTTHS của một số tác giả, khi đề cập đến quy định khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam chỉ nêu khái quát và ngắn gọn về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hình thành quy định này, phạm vi áp dụng, chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố, việc khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại cũng như hậu quả pháp lý của việc rút yêu cầu khởi tố và một số vấn đề khác có liên quan.
Những tài liệu nghiên cứu về đề tài này chỉ có một số bài viết trên các tạp chí khoa học chuyên ngành luật như: Bàn về việc khởi tố và không khởi tố vụ án hình sự theo quy định của BLTTHS, tác giả Mai Văn Minh, tạp chí Kiểm sát (Số 5/2005); Những trường hợp không được khởi tố vụ án hình sự nhìn từ góc độ lý luận và thực tiễn, tác giả Phạm Hồng Hải, tạp chí Kiểm sát (Số
2/2007); Bàn về “tội phạm hoặc người phạm tội mới” và thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Tòa án, tác giả Nguyễn Hiển Khanh, tạp chí Tòa án nhân dân (Số 9/2002); Áp dụng BLTTHS năm 2003: Một số vấn đề vướng mắc trong khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tác giả Lê Thị Huyền Trang, tạp chí Khoa học pháp lý (số 02/2009); Căn cứ không khởi tố vụ án hình sự và một số quy định liên quan, tác giả Phan Thị Thanh Mai, tạp chí Luật học (số 07/2010); Hoàn thiện thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, tác giả Đỗ Ngọc Quang, tạp chí Kiểm sát (số 08/2012); Thực tiễn và những khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, tác giả Trương Văn Chung, tạp chí Kiểm sát (số 10/2015); Một số vấn đề lí luận về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, tác giả Trần Quang Tiệp, Tạp chí Kiểm sát (số 01/2006); Người bị hại đã yêu cầu khởi tố trình bày lời buộc tội tại phiên toà theo trình tự, thủ
15
tục nào và Cần sửa đổi các quy định liên quan đến quyền khởi tố theo yêu cầu của người bị hại trong BLTTHS năm 2003, tác giả Hoàng Thị Liên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số 8/2006) và Tạp chí Kiểm sát (số 2/2008); Một số vướng mắc khi giải quyết vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, tác giả Lê Văn Cân, Tạp chí Kiểm sát (số 4/2008); Vấn đề người bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án tại phiên toà trong một số vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, tác giả Võ Hồng Sơn, Tạp chí Nghề Luật (số 2/2012); Bàn về một số vấn đề về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, tác giả Phạm Thái, Tạp chí Khoa học pháp lý (số 5/2012)… Những bài viết này chủ yếu thảo luận về vai trò và tính chất của khởi tố vụ án hình sự, các căn cứ khởi tố vụ án hình sự, vấn đề khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, phân tích một số khó khăn, vướng mắc, bất cập liên quan đến căn cứ và thủ tục khởi tố, trên cơ sở đó kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Nhìn chung, đề tài “Khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam” đã được một số nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu và những người làm công tác thực tiễn quan tâm. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về những vấn đề lý luận liên quan đến khởi tố vụ án hình sự cũng như đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về khởi tố vụ án hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, so sánh với pháp luật nước ngoài để đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật.
1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề còn tồn tại mà
Luận án sẽ giải quyết
Qua việc nghiên cứu tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến đề tài
Luận án, có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
– Thứ nhất, không có tác giả nước ngoài và có rất ít tác giả Việt Nam nghiên cứu toàn diện, hệ thống về vấn đề khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam;
16
– Thứ hai, việc nghiên cứu vấn đề khởi tố vụ án hình sự mới chỉ ở mức độ sơ lược, chủ yếu dưới hình thức bài báo khoa học hoặc Luận văn Thạc sĩ; còn ở cấp độ Tiến sĩ thì chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu và cụ thể về vấn đề này;
– Thứ ba, phần lớn nội dung các công trình nghiên cứu về đề tài khởi tố vụ án hình sự chỉ đề cập đến một số khía cạnh của vấn đề, chủ yếu phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật để làm rõ những bất cập của luật thực định và những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn, từ đó đưa ra các đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Các công trình trên chưa lý giải được cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hình thành quy định khởi tố vụ án hình sự, chưa làm rõ bản chất pháp lý của quy định này và mối liên hệ với các quy định khác của tố tụng hình sự. Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật chưa đặt trong tổng thể mô hình tố tụng hình sự và mối liên hệ với các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, chưa có sự nghiên cứu, so sánh với pháp luật thế giới để tham khảo, vận dụng vào điều kiện Việt Nam; do vậy chưa đưa ra các giải pháp, kiến nghị một cách đồng bộ và toàn diện.
Những hạn chế trên đã đồng thời mở ra hướng nghiên cứu mới về quy
định khởi tố vụ án hình sự.
Trên cơ sở tổng hợp, phân tích, đánh giá những công trình nghiên cứu đã công bố, cho thấy sự cần thiết phải có công trình chuyên khảo nghiên cứu về quy định khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu đó là:
– Thứ nhất, nghiên cứu, phân tích để làm rõ bản chất, nội hàm khái niệm khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam; làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành quy định khởi tố vụ án hình sự;
– Thứ hai, nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của quy định khởi tố vụ án hình sự trong lịch sử tố tụng hình sự. Các nội dung cụ thể của
17
quy định khởi tố vụ án hình sự trong BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm
2015. So sánh với pháp luật tố tụng hình sự một số quốc gia trên thế giới, rút ra những kinh nghiệm có thể tham khảo, vận dụng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam. Đánh giá thực tiễn khởi tố vụ án hình sự để làm cơ sở cho các đề xuất sửa đổi, bổ sung pháp luật về khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả thực hiện.
2. Mục tiêu nghiên cứu
– Làm rõ khái niệm và đặc điểm của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; Xác định mối quan hệ giữa giai đoạn khởi tố và các giai đoạn tố tụng khác; Trên cơ sở đó phân tích làm rõ bản chất pháp lý và ý nghĩa của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự.
– Làm rõ quá trình hình thành, phát triển và nội dung quy định khởi tố vụ án hình sự hiện nay ở Việt Nam; so sánh với quy định của pháp luật tố tụng hình sự của một số quốc gia trên thế giới.
– Đánh giá thực tiễn khởi tố vụ án hình sự ở Việt Nam trong thời gian qua; xác định những hạn chế còn tồn tại và phân tích nguyên nhân dẫn đến những hạn chế. Trên cơ sở đó, đưa ra các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định khởi tố vụ án hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trên thực tế.
3. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý thuyết
3.1.1. Câu hỏi nghiên cứu
Nhằm làm rõ mục tiêu nghiên cứu của đề tài, Luận án đặt ra các câu hỏi nghiên cứu như sau:
– Nội hàm khái niệm khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sựViệt
Nam? Khởi tố vụ án hình sự bao gồm những hoạt động gì?
18
– Quan hệ giữa hoạt động khởi tố vụ án hình sự với các hoạt động tố
tụng khác trong quá trình giải quyết vụ án hình sự?
Nam?
– Bản chất pháp lý của khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt
– Nội dung khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam?
– Quy định về khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm gì cho Việt Nam?
– Thực tiễn khởi tố vụ án hình sự ở nước ta như thế nào? Có những bất cập, hạn chế nào trong thực tiễn khởi tố vụ án hình sự?
– Việc hoàn thiện quy quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về khởi tố vụ án hình sự cần dựa trên những yêu cầu, điều kiện gì? Những giải pháp cụ thể nào cho việc hoàn thiện quy định pháp luật tố tụng nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, phù hợp với xu thế phát triển của đất nước?
3.1.2. Lý thuyết nghiên cứu
Lý thuyết nghiên cứu (những vấn đề lý thuyết sẽ được đề cập và sử dụng
trong đề tài Luận án) bao gồm:
– Học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh về nhà nước và pháp luật;
– Chủ trương, đường lối của Đảng về chính sách hình sự gắn liền với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự;
– Những vấn đề lý luận về khởi tố vụ án hình sự tại Việt Nam và một số
quốc gia khác trên thế giới.
3.1.3. Giả thuyết nghiên cứu
19
Hoạt động khởi tố vụ án hình sự vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế nên dẫn đến tình trạng làm oan người không có tội, bỏ lọt tội phạm. Điều đó là do quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành vẫn còn nhiều bất cập, thiếu hợp lý, chưa thực sự xuất phát từ các chức năng tố tụng, từ yêu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về khởi tố vụ án hình sự để khắc phục những bất cập, điều chỉnh các tình huống phát sinh trong thực tế là cần thiết nhằm hoàn thiện quy định khởi tố vụ án hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn.
3.1.4. Dự kiến kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu của đề tài dù ở mức độ dự kiến cũng sẽ gắn liền với các câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu đã được xác định. Luận án dự kiến đạt được những kết quả sau đây:
– Bổ sung, phát triển lý luận về khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam.
– Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện các quy định về khởi tố vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam.
– Đưa ra những giải pháp hoàn thiện quy định về khởi tố vụ án hình sự
trong tố tụng hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả thực hiện trong thực tiễn.
3.1.5. Nội dung kết cấu Luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục thì Luận án cấu trúc gồm 3 chương:
– Chương 1. Những vấn đề lý luận về khởi tố vụ án hình sự
– Chương 2. Quy định BLTTHS 2003 và BLTTHS 2015 về khởi tố vụ
án hình sự
20
– Chương 3. Thực tiễn khởi tố vụ án hình sự và giải pháp nâng cao hiệu quả khởi tố vụ án hình sự
3.2. Phương pháp nghiên cứu và hướng tiếp cận
3.2.1. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để phân tích và làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu.
Quá trình nghiên cứu đề tài được thực hiện trên cơ sở gắn liền lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Lý luận và phương pháp luận này đòi hỏi quá trình phân tích, đánh giá, so sánh pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước, các kết luận đưa ra không thể mang tính chất khen hay chê mà chỉ là sự khác biệt hay tương đồng. Những sự khác biệt hay tương đồng này phải được đánh giá trong bối cảnh lịch sử cụ thể của từng giai đoạn hình thành, phát triển của hiện tượng pháp luật này.
Trong quá trình nghiên cứu, Luận án vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về cải cách tư pháp, nhằm bảo đảm các kết quả nghiên cứu và các đề xuất kiến nghị phù hợp với quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Các vấn đề trong Luận án được phân tích, lý giải trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, khảo sát xã hội học, phỏng vấn chuyên gia, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng… nhằm giải quyết các mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án. Các phương pháp phân tích, so sánh tổng hợp được sử dụng khi phân tích các quy định của pháp luật hiện hành, so sánh với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, từ đó tìm ra ưu điểm cũng như những hạn chế bất cập của chúng, làm cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật. Các số liệu giải quyết án hàng năm, điều tra xã hội học, thông tin về tình hình giải quyết
21
án từ báo cáo công tác, thông báo rút kinh nghiệm và phương tiện thông tin đại chúng sẽ được tổng hợp, phân tích, nghiên cứu, làm cơ sở cho đề xuất hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn.
3.2.2. Hướng tiếp cận của đề tài nghiên cứu
– Luận án kế thừa (có chọn lọc, phân tích, đánh giá) các kết quả nghiên cứu đã được công bố trước đó với mục đích bổ sung, hoàn thiện các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đối tượng nghiên cứu của luận án.
– Luận án tiếp cận nghiên cứu các quy định của luật thực định liên quan đến đề tài để làm rõ những vấn đề lý luận về khởi tố vụ án hình sự cũng như những thiếu sót, hạn chế, vướng mắc của quy định này trong quá trình nhận thức và áp dụng.
– Luận án tiếp cận thực tiễn thông qua việc nghiên cứu số liệu giải quyết án hàng năm, thông tin từ báo cáo công tác và thông báo rút kinh nghiệm trong giải quyết án của của các cơ quan tiến hành tố tụng cấp tỉnh và Trung ương, thông tin về vụ án đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua khảo sát tại các địa phương và phỏng vấn những người tiến hành tố tụng hoặc trực tiếp nghiên cứu các hồ sơ vụ án.
– Các kết quả nghiên cứu của Luận án sẽ được thực hiện trên cơ sở gắn kết chặt chẽ pháp luật thực định với các lý thuyết khoa học, gắn kết chặt chẽ lý luận và thực tiễn cuộc sống nói chung, thực tiễn áp dụng pháp luật nói riêng. Cách tiếp cận này cho phép đánh giá tính phù hợp, tính tương thích của các quy định pháp luật với lý luận và thực tiễn. Kết cấu các chương mục của Luận án phản ánh hướng tiếp cận này.
22
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ
VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khởi tố vụ án hình sự – giai đoạn độc lập của Tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm giai đoạn tố tụng hình sự
Nhiệm vụ của tố tụng hình sự là bằng những trình tự và thủ tục luật định phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội. Đó là nhiệm vụ trọng tâm cũng đồng thời là mục đích của tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, hoạt động tố tụng hình sự là hoạt động phức tạp, gắn liền với việc phát hiện, xử lý tội phạm và người phạm tội. Hoạt động đó liên quan trực tiếp đến các quyền, lợi ích hợp pháp của con người. Vì vậy, nhiệm vụ trọng tâm, mục đích của tố tụng hình sự không thể đạt được bằng mọi giá; hoạt động tố tụng hình sự phải được giới hạn trong những phạm vi nhất định. Mục đích tố tụng được thực hiện phải trên cơ sở không chỉ không bỏ lọt tội phạm, mà quan trọng hơn là không làm oan người không có tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, không ngẫu nhiên mà BLTTHS quy định mục đích, nhiệm vụ của tố tụng hình sự là phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm; phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người không có tội; bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tố chức, cá nhân.
Để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ tố tụng, đạt được mục đích tố tụng nêu trên, BLTTHS quy định trình tự, thủ tục toàn bộ quá trình tố tụng qua từng giai đoạn gắn liền với hoạt động phong phú của các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng và hoạt động của người tham gia tố tụng khác. Trình tự, thủ tục đó tạo ra khả năng tối ưu cho việc thực hiện mục đích tố tụng đối với việc xử lý vụ án nói chung và mục đích, nhiệm vụ trực tiếp của từng giai đoạn tố tụng nói riêng.
23
Nghiên cứu BLTTHS nước ta cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, chúng tôi thấy rằng dù cơ cấu của Bộ luật có khác nhau, các phân chia các giai đoạn tố tụng có khác nhau, nhưng có những điểm giống nhau nhất định. Theo pháp luật tố tụng của các quốc gia thì giai đoạn tố tụng được quy định như là một phần độc lập tương đối của tố tụng hình sự, có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, mỗi giai đoạn tố tụng có những nhiệm vụ tố tụng nhất định. Nhiệm vụ chung cơ bản của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự là phát hiện, xử lý kịp thời, đúng đắn, khách quan, công minh tội phạm. Tuy nhiên, để hoàn thành được nhiệm vụ chung đó, quá trình tố tụng được thực hiện qua các giai đoạn khác nhau; mỗi giai đoạn có nhiệm vụ cụ thể riêng của mình: nhiệm vụ giai đoạn khởi tố vụ án là xác định dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án; nhiệm vụ giai đoạn điều tra là xác định các tình tiết của tội phạm và người phạm tội để ra quyết định khởi tố bị can, kết thúc điều tra đề nghị truy tố hoặc đình chỉ điều tra…
Mỗi giai đoạn tố tụng là một phần độc lập tương đối, nhìn chung được giới hạn bằng thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc. Tuy nhiên, các giai đoạn tố tụng không chỉ nối tiếp nhau một cách đơn thuần, mà có mối liên kết tố tụng qua lại, tạo điều kiện và kiểm tra lẫn nhau một cách hệ thống. Giai đoạn trước là điều kiện làm phát sinh giai đoạn sau; giai đoạn tố tụng tiếp theo chỉ được thực hiện khi nhiệm vụ giai đoạn trước đã được hoàn thành và giai đoạn sau kiểm tra tính đúng đắn, khách quan kết quả tố tụng của giai đoạn tố tụng trước.
Thứ hai, mỗi giai đoạn có những cơ quan, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng xác định. Khối lượng, phạm vi, quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể quan hệ tố tụng cũng khác nhau trong mỗi giai đoạn.
Trong giai đoạn điều tra vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng chính là cơ quan điều tra, cơ quan được giao một số nhiệm vụ điều tra; còn Viện kiểm sát là cơ quan thực hiện việc kiểm sát điều tra. Trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm
24
sát là cơ quan tiến hành tố tụng chính. Trong giai đoạn xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng chính là Tòa án; Viện kiểm sát thực hiện việc kiểm sát xét xử và thực hành quyền công tố tại phiên tòa v.v…
Những người tham gia tố tụng cũng có sự khác nhau trong từng giai đoạn tố tụng: trong giai đoạn khởi tố vụ án có thể chưa có hoặc có người bị nghi thực hiện tội phạm; trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, đặc biệt là giám đốc thẩm, tái thẩm người tham gia tố tụng lại càng hẹp hơn. Ngay đối với cùng một người tham gia tố tụng thì trong các giai đoạn tố tụng khác nhau, địa vị tố tụng cũng khác nhau tùy theo nhiệm vụ, bản chất của mỗi giai đoạn. Ví dụ, người bị tạm giữ có địa vị pháp lý khác với bị can trong giai đoạn điều tra; bị can trong giai đoạn điều tra, truy tố có quyền và nghĩa vụ tố tụng khác với quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị cáo trong giai đoạn xét xử v.v…
Khi nghiên cứu đặc điểm này của giai đoạn tố tụng, chúng tôi thấy một vấn đề cần xem xét là khái niệm bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Theo quy định của khoản 1 Điều 50 BLTTHS thì bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Như vậy, trong giai đoạn xét xử người bị truy cứu trách nhiệm hình sự vừa là bị can (trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử), vừa là bị cáo. Điều này không thật phù hợp với đặc điểm về chủ thể tố tụng trong giai đoạn tố tụng. Theo chúng tôi, phải chăng nên coi là bị cáo “là người đã có quyết định truy tố bằng bản cáo trạng”. Điều này không làm thay đổi địa vị pháp lý của người bị truy tố nhưng phù hợp hơn với lý thuyết về giai đoạn tố tụng hình sự.
Thứ ba, mỗi giai đoạn có một trình tự, thủ tục các hành vi tố tụng riêng. Trình tự, thủ tục đó do bản chất pháp lý, nội dung các nhiệm vụ cần giải quyết và những đòi hỏi cụ thể của các nguyên tắc tố tụng chung được thể hiện trong giai đoạn đó quyết định. Ví dụ, nhiệm vụ trong khởi tố vụ án chỉ là xác định dấu hiệu nào đó của tội phạm; trong khi đó nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là xác định đầy đủ, chính xác các dấu hiệu của tội phạm và người phạm tội, cho
25
nên thủ tục xác minh tin báo về tội phạm trong giai đoạn khởi tố vụ án khác với thủ tục các hoạt động điều tra trong giai đoạn điều tra; tuy cùng là xét xử, nhưng do bản chất pháp lý khác nhau, cho nên thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật (giám đốc thẩm, tái thẩm) khác với thủ tục xét xử phúc thẩm, và lại càng khác thủ tục xét xử sơ thẩm.
Thứ tư, mỗi giai đoạn được kết thúc bằng văn bản tố tụng khác nhau. Giai đoạn khởi tố vụ án được kết thúc bằng quyết định khởi tố vụ án; giai đoạn điều tra vụ án được kết thúc bằng văn bản kết luận điều tra đề nghị truy tố; giai đoạn truy tố được kết thúc bằng bản cáo trạng; các giai đoạn xét xử kết thúc bằng bản án, quyết định…
Tuy nhiên, các quyết định tố tụng trên thể hiện kết quả hoạt động tố tụng của cả quá trình tố tụng hoàn chỉnh. Nếu vụ án được chấm dứt giữa chừng vì những lí do luật định thì mỗi giai đoạn có thể được kết thúc bằng một quyết định tố tụng khác: Ở giai đoạn khởi tố vụ án có thể là quyết định không khởi tố vụ án; ở giai đoạn quyết định truy tố có thể là quyết định đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát; ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm có thể là quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Thẩm phán v.v…
Nội dung cũng như hình thức các văn bản tố tụng trên có sự khác nhau tùy theo bản chất, nhiệm vụ tố tụng của từng giai đoạn cũng như kết quả hoạt động tố tụng đạt được trong từng giai đoạn tố tụng.
Thứ năm, mỗi giai đoạn tố tụng, các quan hệ tố tụng có những đặc điểm riêng của mình tùy theo chức năng tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, địa vị tố tụng của người tiến hành tố tụng cũng như người tham gia tố tụng. Ví dụ: Mặc dù Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong đó có hoạt động điều tra và hoạt động xét xử, nhưng mối quan hệ của Viện kiểm sát với cơ quan điều tra (chủ thể tiến hành tố tụng chính) trong giai đoạn điều tra khác với quan hệ với Tòa án (chủ thể tiến hành tố tụng chính) trong giai đoạn xét xử. Nếu như trong giai đoạn điều tra vụ án, Viện kiểm sát là cơ