LA20.118_Kết quả điều trị bướu nguyên bào gan ở trẻ em bằng phẫu thuật kết hợp với hóa trị
Đa số các khối u gan của trẻ em thuộc loại ác tính, thƣờng gặp nhất là bƣớu nguyên bào gan (BNBG) và ung thƣ tế bào gan (UTTBG) [2], [3]. Ung thƣ gan ở trẻ em có xuất độ 1-2% trong nhóm bệnh ác tính theo số liệu báo cáo của thế giới. Ở Việt Nam, bƣớu nguyên bào gan chiếm 4,2% trong tổng số các bệnh ung thƣ trẻ em, xếp thứ 5 trong 10 loại ung thƣ thƣờng gặp [2]. Đặc điểm bệnh học của BNBG thuận lợi cho phẫu thuật và hóa trị vì tổn thƣơng thƣờng một ổ và không xảy ra trên nền xơ gan. Những tiến bộ của y học cũng góp phần thêm vào việc cải thiện tiên lƣợng của bệnh nhi BNBG. Phát hiện đầu tiên cho biết BNBG nhạy với hóa chất: Vincristine, 5- Fluorouracil [83], [33], sau đó Douglass sử dụng đa hóa trị trong đó có Cisplatin, đã cải thiện đƣợc tiên lƣợng sống. Khả năng sống thêm 5 năm của BNBG giai đoạn I, II tăng 60 – 75% [76], [80]. Phối hợp phẫu thuật và hóa trị đƣợc các Hội ung bƣớu nhi của châu Âu, Nhật, Mỹ công nhận [49], [51], [83]. Phẫu
thuật phối hợp hóa trị thể hiện hai vấn đề liên quan chặt chẽ: một là cắt bỏ triệt để bƣớu, không còn sót trên vi thể [72], [40], [58]; hai là hóa trị liệu bằng những hóa chất nhạy với mô bƣớu [64], [75], [78]. Ngày nay, kết quả điều trị BNBG đƣợc chứng minh phụ thuộc vào giai đoạn, các yếu tố nguy cơ, tuổi phát hiện và điều trị kết hợp phẫu – hóa trị. Các nhóm nghiên cứu trên thế giới đã phối hợp với nhau trong nghiên cứu nhƣ CHICS (Children’s Hepatic tumor International Collaboration – Stratification) [83] bao gồm các nhóm COG (Children’s Oncology Group), POG (Pediatric
Oncology Group), SIOPEL (International Society of Pediatric Oncology Epithelial Liver Group) [26], GPOH (German Pediatric Oncology and Hematology Group) [40], [41] và JPLT (Japan Pediatric Liver Tumor) [116], [48] và sử dụng phác đồ điều trị PHITT (Pediatric Hepatic International Tumor Trial) [83].
Trong 15 năm qua, từ SIOPEL I (1990-1994) đến SIOPEL IV, kết hợp hóa trị và phẫu trị đã giúp tiên lƣợng sống thêm sau 5 năm đạt đƣợc là 75% so với kết quả phẫu trị đơn thuần là 10-20% [27].
Trƣớc tháng 1/2002, trong hoàn cảnh thực tế Việt Nam, phẫu thuật cắt bỏ BNBG hoặc chỉ sinh thiết bƣớu đã đƣợc thực hiện nhƣng vẫn chƣa có báo cáo chi tiết về kết quả phẫu thuật vì bệnh này hiếm gặp trong ung bƣớu trẻ em [3]. Điều trị BNBG chỉ đơn thuần bằng phẫu trị và không áp dụng điều trị đa mô thức.Từ năm 2002, điều trị BNBG bằng hóa chất diệt tế bào ung thƣ bắt đầu đƣợc áp dụng trong từng trƣờng hợp với Cisplatin và Doxorubicin vì phù hợp với hoàn cảnh kinh tế lúc bấy giờ và theo nghiên cứu của thế giới [55]. Do theo dõi nồng độ AFP giảm, có cải thiện kết quả đáp ứng điều trị , hóa trị BNBG đƣợc áp dụng rộng rãi. Năm 2002, bệnh viện Nhi đồng I thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu điều trị BNBG bằng phẫu thuật và phối hợp hóa trị tại khoa Ung bƣớu nhi của Bệnh viện Ung bƣớu. Bệnh nhi đƣợc mổ mở để đánh giá giai đoạn theo PRETEXT và cắt bỏ triệt để tổn thƣơng mang bƣớu [4], [5]. Hóa trị hỗ trợ thực hiện sau phẫu thuật. Tuy nhiên, kết quả điều trị BNBG ở trẻ em bằng phẫu thuật kết hợp với hóa trị vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu chi tiết.
Ở Việt Nam, nhận xét ban đầu của các thầy thuốc cho thấy kết quả điều trị BNBG vẫn còn thấp so với kết quả của các hội nghiên cứu BNBG thế giới (2013) và chƣa có số liệu báo cáo. Chính vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Kết quả điều trị bƣớu nguyên bào gan ở trẻ em bằng phẫu thuật kết hợp với hóa trị” và với câu hỏi nghiên cứu là: Tỷ lệ thành công sống đến 48 tháng ở bệnh nhi có bƣớu nguyên bào gan đƣợc điều trị bằng phẫu thuật kết hợp với hóa trị tại Bệnh viện Nhi đồng là bao nhiêu?
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
(1). Mô tả những đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bƣớu nguyên bào gan trẻ em.
(2). Đánh giá kết quả điều trị bƣớu nguyên bào gan trẻ em bằng phẫu thuật kết hợp với hóa trị theo thời gian sống thêm 48 tháng.
(3). Xác định các yếu tố liên quan đến kết quả điều trị bƣớu nguyên bào gan trẻ em bằng phẫu thuật kết hợp với hóa trị