Saturday, February 27, 2021
  • Home
  • About
  • Viết thuê luận văn
  • Luận Án Tiến Sĩ
Download Luận Văn
Advertisement
  • Luận Văn – Luận Án
  • Download
    • Đại Học – Cao Đẳng
      • Công Nghệ – Môi Trường
      • Công Nghệ Thông Tin
      • Khoa Học Tự Nhiên
      • Khoa Học Xã Hội
      • Kinh Tế – Quản Lý
      • Kinh Tế Thương Mại
      • Kỹ Thuật
      • Lý Luận Chính Trị
      • Nông-Lâm-Ngư
      • Y Khoa – Dược
    • Thạc Sĩ – Cao Học
      • Công Nghệ Thông Tin
      • Khoa Học Tự Nhiên
      • Khoa Học Xã Hội
      • Kiến Trúc – Xây Dựng
      • Kinh Tế
      • Kỹ Thuật
      • Luật
      • Nông – Lâm – Ngư
      • Sư Phạm
      • Y Dược – Sinh Học
    • Tiến Sĩ
    • Báo Cáo Khoa Học
    • Tiểu Luận
  • Hướng Dẫn
  • Tin chuyên ngành
No Result
View All Result
Download Luận Văn
  • Luận Văn – Luận Án
  • Download
    • Đại Học – Cao Đẳng
      • Công Nghệ – Môi Trường
      • Công Nghệ Thông Tin
      • Khoa Học Tự Nhiên
      • Khoa Học Xã Hội
      • Kinh Tế – Quản Lý
      • Kinh Tế Thương Mại
      • Kỹ Thuật
      • Lý Luận Chính Trị
      • Nông-Lâm-Ngư
      • Y Khoa – Dược
    • Thạc Sĩ – Cao Học
      • Công Nghệ Thông Tin
      • Khoa Học Tự Nhiên
      • Khoa Học Xã Hội
      • Kiến Trúc – Xây Dựng
      • Kinh Tế
      • Kỹ Thuật
      • Luật
      • Nông – Lâm – Ngư
      • Sư Phạm
      • Y Dược – Sinh Học
    • Tiến Sĩ
    • Báo Cáo Khoa Học
    • Tiểu Luận
  • Hướng Dẫn
  • Tin chuyên ngành
No Result
View All Result
Download Luận Văn
No Result
View All Result
Home Tiến Sĩ Kế toán

Hoàn thiện việc công bố thông tin báo cáo bộ phận trong hệ thống báo cáo tài chính tại các doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

admin by admin
July 6, 2019
in Kế toán, Tiến Sĩ
0
Luận án tiến sĩ kế toán
609
SHARES
3.4k
VIEWS
Share on FacebookShare on Twitter

You might also like

Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng

Phát triển kinh doanh dịch vụ viễn thông ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế Nghiên cứu trường hợp Công ty Cổ phần viễn thông Hà Nội

Quản lý tài chính các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Tài chính

LA09.064_Hoàn thiện việc công bố thông tin báo cáo bộ phận trong hệ thống báo cáo tài chính tại các doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

3. Mục tiêu nghiên cứu

Luận án nghiên cứu thực trạng công bố thông tin BCBP trên BCTC của các DNNY, nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin này và đề xuất giải pháp hoàn thiện việc công bố thông tin BCPB trên BCTC tại các DNNY.

Tham khảo thêm :

  • Quản lý tài chính các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Tài chính
  • Nghiên cứu xây dựng hệ thống thông tin kế toán phục vụ quản trị chi phí…
  • Tác động của quan hệ kinh tế Việt Nam – Trung Quốc đến quốc phòng Việt Nam
  • Quản lý tài nguyên nước dựa vào cộng đồng Nghiên cứu sự tham gia của…
  • Hoàn thiện kế toán thuế thu nhập doanh nghiệp trong các doanh nghiệp xây…
  • Trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính bằng chứng từ các công ty niêm…
  • Các nhân tố ảnh hưởng đến nhận thức về sự công bằng trong thu nhập của…
  • Quản trị chất lượng trong chuỗi cung ứng thịt gia súc, gia cầm ở Việt Nam
  • Sử dụng tài liệu lưu trữ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước…
  • Nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thủy sản ở Việt Nam

Từ mục tiêu nghiên cứu đã được xác định, Luận án sẽ làm rõ cơ sở lý thuyết về thông tin kế toán, thông tin báo cáo tài chính và công bố thông tin báo cáo tài chính, cụ thể là việc công bố thông tin báo cáo tài chính bộ phận như: căn cứ, nội dung, phương pháp lập và tác dụng của việc công bố thông tin BCBP trên BCTC.

Để đạt được mục tiêu trên, luận án trả lời các câu hỏi sau:

(1) Công bố thông tin BCBP trong BCTC có hữu ích đối với đối tượng sử dụng thông tin không?

(2) Thực trạng mức độ công bố thông tin BCBP trong BCTC của các DNNY trên TTCK Việt Nam trong thời gian qua?

(3) Nhân tố nào ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP trong BCTC của các DNNY trên TTCK Việt Nam, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố và mối tương quan giữa chúng?

(4) Cần làm gì để việc công bố thông tin BCBP của các DNNY trên TTCK Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của đối tượng sử dụng thông tin?

Mục tiêu nghiên cứu được phân tích chi tiết như sau:

(1) Thứ nhất, khảo sát việc công bố thông tin BCBP của các DNNY trên sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam để đánh giá mức độ tuân thủ qui định của VAS 28 về BCBP; và ý kiến của nhà đầu tư, kiểm toán viên, và người lập BCTC (doanh nghiệp), về tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP cũng như những khó khăn trong việc công bố thông tin BCBP trên BCTC tại các DNNY.

(2) Thứ hai, xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP thông qua các chỉ tiêu về quy mô doanh nghiệp, chủ thể kiểm toán, lĩnh vực hoạt động, khả năng sinh lời, thị trường niêm yết của doanh nghiệp, tài sản đảm bảo, mức độ tập trung vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp.

(3) Quan điểm, phương hướng, mục tiêu nâng cao việc công bố thông tin BCBP trên BCTC tại các DNNY; các giải pháp mang tính khoa học và khả thi, trên cơ sở vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế, nhằm phát triển, hoàn thiện việc công bố thông tin BCTC, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế tại Việt Nam.

Để đáp ứng được mục tiêu nghiên cứu trên, mức độ tuân thủ qui định trong VAS 28 được tác giả xác định thông qua việc công bố thông tin bộ phận theo qui định. Bên cạnh đó, tác giả cũng xây dựng giả thiết nghiên cứu dựa trên mối quan hệ của biến phụ thuộc là mức độ công bố thông tin BCBP và các biến độc lập đó là quy mô doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh, chủ thể kiểm toán, khả năng sinh lời, thị trường niêm yết, tài sản đảm bảo, mức độ tập trung vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu định tính và định lượng, tác giả đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện việc công bố thông tin BCBP trong BCTC của DNNY.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu việc công bố thông tin BCBP trong hệ thống BCTC tại các DNNY trên TTCK Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu: Về nội dung nghiên cứu, thông qua nghiên cứu việc công bố thông tin BCBP, tác giả muốn nhấn mạnh đến các vấn đề trong công bố thông tin BCBP bao gồm, lý luận cơ bản về việc công bố thông tin, công bố thông tin BCBP và thực trạng công bố thông tin BCBP tại các DNNY ở Việt Nam; đề xuất giải pháp nhằm tăng cường mức độ công bố thông tin BCBP, phát huy tính hữu ích của thông tin BCBP từ kết quả nghiên cứu ở nội dung thực trạng. Về phạm vi không gian, luận án nghiên cứu việc công bố thông tin BCBP trong hệ thống BCTC tại các DNNY trên TTCK Việt Nam được bình chọn giải Báo cáo thường niên năm 2016. Về phạm vi thời gian, tác giả thu thập số liệu là giai đoạn 2011-2015 từ các doanh nghiệp đạt giải năm 2016.

Việc lựa chọn DNNY được giải thưởng Báo cáo thường niên 2016 xuất phát từ lý do sau, phần lớn các doanh nghiệp trong số đó là doanh nghiệp lớn, có nhiều hoạt động kinh doanh, tiến hành hoạt động kinh doanh ở nhiều khu vực địa lý khác nhau; đây cũng là những doanh nghiệp có vị trí quan trọng trên thị trường, được đánh giá cao, nên khả năng tự nguyện công bố thông tin cao hơn các doanh nghiệp khác.

Tiêu chí bình chọn giải Báo cáo thường niên dựa trên tính chuẩn mực, minh bạch, chuyên nghiệp và sáng tạo dựa trên cách thức mà doanh nghiệp công khai thông tin, không căn cứ vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đề cao các doanh nghiệp làm tốt nội dung quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là quản trị doanh nghiệp hướng đến mục tiêu phát triển bền vững vì cộng đồng và xã hội.

Thông tin BCBP được công bố trên nhiều báo cáo khác nhau, trong nhiều thời điểm khác nhau, tuy nhiên trong Luận án này, tác giả chỉ tập trung vào việc công bố thông tin BCBP trên BCTC năm của các DNNY trên TTCK.

Tác giả cũng xem xét mức độ công bố thông tin BCBP qua đánh giá của nhà đầu tư, kiểm toán viên, người lập BCTC, nhằm giải thích kết quả của nghiên cứu định lượng, từ đó đề xuất định hướng hoàn thiện việc công bố thông tin BCBP để nâng cao tính hữu ích của thông tin này.

5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu gồm hai bước chính: Nghiên cứu tổng thể bằng phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu kiểm định bằng phương pháp nghiên cứu định lượng, sử dụng phần mềm STATA 12 để tập hợp số liệu khảo sát và phân tích số liệu.

(1) Nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua khảo sát các kết quả nghiên cứu được thực hiện trước đó trên thế giới và ở Việt Nam, để tìm hiểu sâu hơn về cách đo lường mức độ công bố thông tin BCBP, những nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin BCBP của các DNNY. Tiếp tục nghiên cứu định tính bằng cách thảo luận và trao đổi trực tiếp với các chuyên gia chứng khoán, tài chính, kế toán, các tổ chức đầu tư và các doanh nghiệp có hoạt động đầu tư, đại diện là nhà đầu tư, kiểm toán viên và người lập BCTC. Từ kết quả nghiên cứu định tính, tác giả muốn khẳng định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố mà tác giả đã xây dựng trong mô hình, cũng như đánh giá tính hữu ích của công bố thông tin BCBP qua các đặc điểm định tính của thông tin tài chính trên BCTC.

(2) Nghiên cứu kiểm định dựa trên phương pháp định lượng, tiến hành khảo sát mức độ công bố thông tin BCBP của các DNNY trên TTCK Việt Nam, qua nội dung công bố thông tin BCBP trong BCTC ở phần thuyết minh BCTC giai đoạn 2011-2015. Luận án cũng tiến hành đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến với mức độ công bố thông tin BCBP của các DNNY để xây dựng mô hình hồi quy phản ánh mối tương quan giữa các nhân tố ảnh hưởng và mức độ công bố thông tin BCBP của các DNNY trên TTCK Việt Nam trong năm 2015 và cả giai đoạn 2011-2015.

6. Ý nghĩa của nghiên cứu

Tầm quan trọng của việc công bố thông tin BCBP với nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam cũng như đáp ứng yêu cầu của các đối tượng sử dụng thông tin nói chung đã được khẳng định. Trong Luận án này, tác giả sẽ đưa ra một số giải pháp khả thi dành cho các cơ quan ban ngành và chính các DNNY nhằm cải thiện mức độ và chất lượng thông tin công bố trên TTCK, góp phần hoàn thiện khung pháp lý về yêu cầu công bố thông tin tài chính, chất lượng thông tin kế toán, chất lượng thông tin BCBP, tăng cường tính hữu ích của thông tin này đối với đối tượng sử dụng thông tin trên TTCK.

6.1. Ý nghĩa khoa học

Nghiên cứu làm rõ những nội dung lý luận về công bố thông tin BCBP, tính hữu ích của công bố thông tin BCBP, nội dung công bố thông tin BCBP và các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP. Hơn nữa, một số khung lý thuyết liên quan đến vấn đề công bố thông tin BCTC và thông tin BCBP cũng được đề cập, cung như cơ sở xác định tiêu chuẩn đo lường và đánh giá mức độ công bố thông tin BCBP.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

+ Kết quả nghiên cứu cho thấy, thực trạng công bố thông tin BCPB trên BCTC của các DNNY trên TTCK Việt Nam hiện nay chưa cao. Theo tìm hiểu của tác giả, luận án này là một trong số những nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam đánh giá thực trạng công bố thông tin BCBP trên BCTC của các DNNY trên TTCK thông qua phương pháp tiếp cận cả phương pháp định tính và định lượng, đặc biệt đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP dựa trên cơ sở thị trường với việc sử dụng dữ liệu thứ cấp (số liệu được trình bày trên BCTC) và cập nhật cho cả giai đoạn 2011 – 2015, vì vậy, kết quả phân tích thực trạng công bố thông tin BCBP trên BCTC của các DNNY trên TTCK trong luận án này phản ánh đúng thực tế theo thông tin các công ty công bố trên BCTC. Bên cạnh đó, kết quả phân tích các nhân tố ảnh hưởng từ phân tích định lượng được kết hợp với kết qủa thảo luận chuyên gia thêm tính chặt chẽ, chứ không phải chỉ dựa trên kết quả định lượng như các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam.

+ Dựa trên kết quả về đánh giá thực trạng công bố thông tin BCBP chất lượng BCTC trong giai đoạn 2011- 2015, chi tiết theo từng năm, kết quả về các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin BCBP trên BCTC của các DNNY trên TTCK Việt Nam, những kết quả này là cơ sở khoa học khá hữu ích cho các đối tượng quan tâm như các nhà quản trị công ty, KTV, các nhà đầu tư, cơ quan ban hành chính sách, ủy ban chứng khoán Nhà nước, các sở giao dịch chứng khoán… tham khảo để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thông tin trên BCTC các công ty niêm yết tại Việt Nam cũng như tham khảo trong việc sử dụng thông tin trên BCTC nhằm đưa ra các quyết định có liên quan một cách hiệu quả. Hơn nữa, thông qua kết quả của nghiên cứu thực chứng và thực nghiệm, đề xuất đưa ra có cơ sở thực tiễn hơn, hỗ trợ các chủ thể tham gia trên TTCK có cách thức để tăng cường mức độ công bố thông tin BCBP trên TTCK Việt Nam, đáp ứng yêu cầu sử dụng thông tin của các đối tượng.

7. Bố cục của Luận án

Ngoài phần mở đầu và tổng quan nghiên cứu, Luận án được chia làm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về việc công bố thông tin BCBP trong hệ thống BCTC tại các doanh nghiệp cổ phần niêm yết

Chương 2: Thực trạng công bố thông tin BCBP trong hệ thống BCTC tại các doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên TTCK Việt Nam

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện việc công bố thông tin BCBP trong hệ thống BCTC tại các doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên TTCK Việt Nam.

TẢI XUỐNG 。◕‿◕。

Nhận viết thuê luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ
Hotline: 092.4477.999
Website: luanvanaz.com
Email: luanvanaz@gmail.com
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng, hình, sơ đồ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN TRONG HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT 23
1.1. TỔNG QUAN VỀ BÁO CÁO BỘ PHẬN TRONG HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH 23
1.1.1. Thông tin kế toán và thông tin báo cáo tài chính 23
1.1.2. Hệ thống báo cáo tài chính 26
1.1.3. Bộ phận và báo cáo bộ phận 29
1.1.4. Doanh nghiệp cổ phần niêm yết 34
1.2. CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN 36
1.2.1. Công bố thông tin kế toán và công bố thông tin báo cáo tài chính 36
1.2.2. Công bố thông tin bộ phận 45
1.3. CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN THEO CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM-VAS28 VÀ SỰ HOÀ HỢP CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM VỚI CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ -IFRS 8 52
1.3.1. Công bố thông tin báo cáo bộ phận theo chuẩn mực kế toán Việt Nam VAS 28-Báo cáo bộ phận 52
1.3.2. Quy định của Uỷ ban Chuẩn mực kế toán quốc tế về công bố thông tin báo cáo bộ phận 53
1.3.3. Sự khác biệt về công bố thông tin bộ phận giữa chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt Nam 55
1.4. MỘT SỐ LÝ THUYẾT NỀN TẢNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN 58
1.4.1. Một số lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu công bố thông tin báo cáo bộ phận 58
1.4.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin báo cáo bộ phận 64
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 67
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN TRONG HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 68
2.1. TỔNG QUAN CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 68
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam 68
2.1.2. Ðặc điểm của các doanh nghiệp cổ phần niêm yết ảnh hưởng đến công bố thông tin trên báo cáo tài chính 71
2.1.3. Vai trò của doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam 73
2.2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN TÀI CHÍNH VÀ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN CỦA DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT 74
2.2.1. Công bố thông tin báo cáo tài chính của doanh nghiệp cổ phần niêm yết theo luật định 74
2.2.2. Công bố thông tin trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp cổ phần niêm yết theo quy định của khuôn mẫu kế toán 77
2.2.3. Các quy định liên quan đến công bố thông tin báo cáo bộ phận tại Việt Nam 80
2.3. THỰC TRẠNG CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN MỨC ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN BỘ PHẬN TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT 82
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu 82
2.3.2. Thực trạng đánh giá tính hữu ích của việc công bố thông tin bộ phận, nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin bộ phận – Kết quả nghiên cứu định tính 89
2.3.3. Thực trạng về mức độ công bố thông tin bộ phận và các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin bộ phận – Kết quả nghiên cứu định lượng 96
2.4. THẢO LUẬN TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 110
2.4.1. Đánh giá thực trạng công bố thông tin bộ phận trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp cổ phần niêm yết 110
2.4.2. Nguyên nhân của thực trạng công bố thông tin bộ phận trong báo cáo tài chính tại các doanh nghiệp cổ phần niêm yết 114
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 115
Chương 3: HOÀN THIỆN VIỆC CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN TRONG HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM 116
3.1. SỰ CẦN THIẾT HOÀN THIỆN CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 116
3.1.1. Yêu cầu của thị trường đối với việc hoàn thiện việc công bố thông tin của doanh nghiệp cổ phần niêm yết 116
3.1.2. Lợi ích của việc hoàn thiện công bố thông tin báo cáo bộ phận trong báo cáo tài chính 120
3.2. QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC HOÀN THIỆN CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT 122
3.2.1. Quan điểm hoàn thiện 123
3.2.2. Nguyên tắc hoàn thiện 125
3.3. GIẢI PHÁP VẬN DỤNG CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN BÁO CÁO BỘ PHẬN 127
3.3.1. Xác định bộ phận hoạt động và bộ phận cần báo cáo 128_Toc497474524
3.3.2. Thông tin bộ phận cần công bố 134
3.4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO MỨC ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN BỘ PHẬN TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT 143
3.4.1. Hoàn thiện các quy định pháp lý 143
3.4.2. Hoàn thiện về chuẩn mực nghề nghiệp 143
3.4.3. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Nhà nước và các cơ quan chức năng 144
3.4.4. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán 148
3.4.5. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các đối tượng sử dụng báo cáo tài chính trên thị trường chứng khoán 151
3.5. HẠN CHẾ CỦA LUẬN ÁN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO 154
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 155
KẾT LUẬN 156
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TT TỪ VIẾT TẮT TIẾNG ANH TIẾNG VIỆT
1 APEC Asia-Pacific Economic Cooperation Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
2 ASEAN Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
3 BCBP Báo cáo bộ phận
4 BCTC Báo cáo tài chính
5 BCTN Báo cáo thường niên
6 CBTT Công bố thông tin
7 Big4 KPMG, PWC, E&Y (Ernst&Young), Deloitte Bốn công ty kiểm toán hàng đầu thế giới
8 CODM Chief Operating Decision Maker Người ra quyết định hoạt động
9 DN Doanh nghiệp
10 DNNY Doanh nghiệp niêm yết
11 FASB Financial Accounting Standards Board Ủy Ban Chuẩn mực kế toán tài chính Hoa Kỳ
12 GAAP Generally Accepted Accounting Principles Những nguyên tắc được chấp nhận chung
13 HĐQT Hội đồng quản trị
14 HNX Sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội
15 HOSE Ho Chi Minh Stock Exchange Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
16 IAS International Accounting Standard Chuẩn mực kế toán quốc tế
17 IASB International Accounting Standards Board Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế
18 IASC International Accounting Standards Committee Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế
19 IFAC The International Federation of Accountants Liên đoàn kế toán quốc tế
20 IFRS International Financial Reporting Standards Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế
21 KQHĐ Kết quả hoạt động
22 KTV Kiểm toán viên
23 LoB Bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh
24 NĐT Nhà đầu tư
25 SEC U.S. Securities and Exchange Commission Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ
26 SFAS Statement of Financial Accounting Standards Chuẩn mực kế toán tài chính Hoa Kỳ
27 SPSS Statistical Package for the Social Sciences phần mềm máy tính phục vụ công tác phân tích thống kê
28 TGĐ Tổng giám đốc
29 TT Thị trường
30 TTCK Thị trường chứng khoán
31 TTTC Thông tin tài chính
32 VAA Vietnam Association of Accountants and Auditors Hội kế toán và kiểm toán Việt Nam
33 VAS Vietnam Accounting Standars Chuẩn mực kế toán Việt Nam
34 WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1: Sự khác biệt giữa VAS 28 và IFRS 8 55
Bảng 2.1: Số lượng DNNY sàn HOSE phân theo lĩnh vực hoạt động. 70
Bảng 2.2: Số lượng DNNY trên sàn HNX phân theo lĩnh vực hoạt động 71
Bảng 2.3: Đo lường các biến của mô hình 86
Bảng 2.4: Giả thuyết mối tương quan giữa các biến độc lập và mức độ công bố thông tin BCBP 86
Bảng 2.5: Tính hữu ích của thông tin, các đặc điểm định tính của thông tin, tóm tắt câu trả lời 90
Bảng 2.6: Tổng hợp đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đặc tính doanh nghiệp đến mức độ công bố thông tin BCBP của các DNNY 92
Bảng 2.7: Bảng tổng hợp kết quả thảo luận sâu với các chuyên gia 93
Bảng 2.8: Đo lường các biến của mô hình 94
Bảng 2.9: Giả thuyết mối tương quan giữa các biến độc lập và mức độ công bố thông tin BCBP 95
Bảng 2.10: Công bố thông tin bộ phận theo ngành nghề kinh doanh 97
Bảng 2.11: Lý do không công bố thông tin bộ phận 98
Bảng 2.12: Nội dung thông tin bộ phận công bố theo yêu cầu của VAS 28 (dữ liệu năm 2015) 103
Bảng 2.13: So sánh năm 2011 và 2015 về mức độ công bố thông tin bộ phận 104
Bảng 2.14: So sánh các chỉ tiêu của bộ phận năm 2011 và 2015 105
Bảng 2.15: Kết quả hồi quy theo phương pháp OLS (bình phương bé nhất) 106
Bảng 2.16: Kết quả ước lượng mô hình REM 109
Bảng 2.17: Kết quả ước lượng hồi quy cho giai đoạn 2011 – 2015 109
Bảng 3.1: Đánh giá tính hữu ích của thông tin BCBP 122
Bảng 3.2: Minh hoạ việc áp dụng tiêu chuẩn định lượng quyết định bộ phận cần báo cáo 130
Bảng 3.3: Quan niệm về bộ phận theo khu vực địa lý 135
Bảng 3.4: Trích dẫn thông tin BCBP theo IFRS trên thuyết minh BCTC 137
Bảng 3.4a: Trích dẫn thông tin BCBP năm 2009 138
Bảng 3.4b: Trích dẫn thông tin BCBP năm 2008 139
Bảng 3.4c: Trích dẫn thông tin BCBP theo khu vực địa lý 139
Bảng 3.4d: Trích dẫn thông tin BCBP về các chỉ tiêu bộ phận 140
Bảng 3.4e: Trích dẫn thông tin BCBP về tài sản bộ phận 141
Bảng 3.4f: Trích dẫn thông tin BCBP Doanh thu phân bổ từng bộ phận 141

DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1: Doanh nghiệp niêm yết công thông tin bộ phận 97
Hình 2.2: Tuân thủ VAS 28 101
Hình 2.3: Nội dung báo cáo chính yếu 102
Hình 2.4: So sánh các chỉ tiêu của bộ phận năm 2011 và 2015 105

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Trang
Sơ đồ 1.1: Thông tin doanh nghiệp công bố và các mối quan hệ liên quan 38
Sơ đồ 1.2: Phân loại thông tin BCTC 40
Sơ đồ 2.1: Giá trị vốn hoá thị trường theo thời gian 69
Sơ đồ 2.2: Số lượng DNNY theo thời gian 70
Sơ đồ 3.1: Các bước xác định bộ phận báo cáo 133

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển của thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đòi hỏi tính đồng bộ, chính vì thế, chỉ cần việc công bố thông tin các doanh nghiệp niêm yết (DNNY) không được thực hiện hoặc thực hiện nhưng không nghiêm theo Luật Chứng khoán và các quy định hiện hành sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tính minh bạch, công khai và sự phát triển bền vững của thị trường. Hiện nay, việc công bố thông tin của các DNNY trên TTCK Việt Nam được thực hiện theo Luật Chứng khoán và Thông tư số 155/2015/TT-BTC hướng dẫn công bố thông tin trên TTCK, thay thế Thông tư số 52/2012/TT-BTC ngày 05/04/2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn công bố thông tin trên TTCK. Xét về cả quy định và thực tiễn, việc công bố thông tin các DNNY còn tồn tại một số bất cập, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính minh bạch, công khai và sự phát triển bền vững của TTCK Việt Nam. Một trong những bất cập đó là, công bố thông tin Báo cáo bộ phận (BCBP) ở Việt Nam chưa được quan tâm đúng mức.
Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) ban hành đến năm 2006 có đề cập đến yêu cầu công bố BCBP (được quy định trong VAS 28), tuy nhiên việc nghiên cứu và khảo sát thực tế các DNNY có tuân thủ những nguyên tắc trong công bố thông tin BCBP hay không, có đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư cũng như nhiều đối tượng cần sử dụng thông tin khác hay không thì lại chưa được các nhà nghiên cứu thực sự quan tâm. BCBP rất cần thiết trong đánh giá rủi ro và lợi ích kinh tế của những doanh nghiệp có nhiều ngành nghề khác nhau, những doanh nghiệp có cơ sở ở nước ngoài hoặc những doanh nghiệp hoạt động ở nhiều vùng địa lý khác nhau. BCBP hỗ trợ người sử dụng báo cáo tài chính hiểu rõ tình hình hoạt động qua các năm của doanh nghiệp, đánh giá đúng về những rủi ro, lợi ích kinh tế của doanh nghiệp, từ đó sẽ có đánh giá chính xác về năng lực của doanh nghiệp.
Có rất nhiều tranh luận xung quanh lợi ích cũng như chi phí khi thực hiện công bố thông tin BCBP. Thực tế cho thấy, với sự tiếp cận mang tính quản trị, thông tin từ các BCBP là cần thiết cho các nhà đầu tư và nhiều đối tượng sử dụng thông tin khác. Căn cứ vào đây, các đối tượng sử dụng thông tin nói chung có thể thấy được tình hình hoạt động của một doanh nghiệp đa diện, sát sao như chính nhà quản trị của doanh nghiệp đó, điều này giúp các đối tượng sử dụng thông tin đưa ra được quyết định kinh tế đúng đắn.
Xuất phát từ lợi ích của việc công bố thông tin BCBP và tình hình thực tiễn TTCK Việt Nam những năm gần đây, tác giả quyết định chọn đề tài “Hoàn thiện việc công bố thông tin báo cáo bộ phận trong hệ thống báo cáo tài chính tại các doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” làm Luận án nghiên cứu, với mong muốn giải quyết những vấn đề đang tồn tại, cả về lý luận và thực tiễn, góp phần thực hiện tốt việc công bố thông tin bộ phận trên báo cáo tài chính (BCTC) của các DNNY.
2. Tổng quan nghiên cứu
Công bố thông tin BCBP trên BCTC của các DNNY là vấn đề đã được rất nhiều tác giả nghiên cứu, cả tác giả trong nước và tác giả quốc tế, công trình của họ thuộc nhiều cấp độ. Để có cái nhìn toàn cảnh về những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài của Luận án, tác giả xin chọn giới thiệu một số công trình tiêu biểu, chỉ ra khoảng trống nghiên cứu của từng đề tài.
2.1. Nghiên cứu nước ngoài liên quan đến công bố thông tin Báo cáo bộ phận trên BCTC
Trong những năm gần đây, nghiên cứu tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP, mức độ công bố thông tin BCBP, và các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP của cả DNNY và doanh nghiệp chưa niêm yết, đã được nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực kế toán thực hiện. Trong nội dung này của Luận án, tác giả sẽ trình bày những nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về tính hữu ích, mức độ công bố và nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP.
2.1.1. Tính hữu ích của việc công bố thông tin báo cáo bộ phận trong các qui định của SFAS No.131, IAS 14, và IFRS 8
Thông tin BCBP là thông tin tài chính quan trọng, phục vụ cho việc ra quyết định của nhiều đối tượng sử dụng thông tin. Nhiều tác giả trong các nghiên cứu gần đây đã khẳng định, thông tin BCBP giúp nhà đầu tư hiểu rõ kết quả hoạt động của doanh nghiệp theo từng bộ phận kinh doanh, lĩnh vực hoạt động, để họ có thể dự báo dòng tiền tương lai chính xác hơn. Đánh giá tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP trên TTCK, tác giả đã nghiên cứu một số nội dung sau:
2.1.1.1. Công bố thông tin báo cáo bộ phận tăng chất lượng thông tin BCTC
Về nội dung này, phải kể đến công trình của nhóm tác giả Street và Nicholas, nghiên cứu tập trung vào việc xem xét tác động của quy định IAS 14 đến việc công bố thông tin BCBP ở các DNNY trên TTCK Châu Âu. Thực tế là có đến 30% DNNY thực hiện việc công bố thông tin BCBP không xác định các bộ phận cần báo cáo, không phân biệt thông tin bộ phận chính yếu, thứ yếu; tuy nhiên quy định của IAS 14 đã giải quyết được thực trạng này, tác động rất lớn đến việc công bố thông tin BCBP. Cụ thể, trong nghiên cứu, nhóm tác giả kết luận rằng, việc áp dụng IAS 14 làm tăng đáng kể số lượng và chất lượng thông tin bộ phận công bố cho những người tham gia thị trường vốn và đối tượng sử dụng thông tin trên BCTC (Street và Nicholas, 2002).
Nói đến tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP, không thể không kể đến nghiên cứu về BCBP tại Jordan do Suwaidan và cộng sự thực hiện. Đây là nghiên cứu đầu tiên về các thông lệ trong việc công bố thông tin giữa các DNNY của Jordan; nhóm tác giả cho rằng những nghiên cứu như này rất hữu dụng, giúp cho tất cả những người sử dụng BCTC đánh giá được tầm quan trọng của thông tin BCBP trong việc ra quyết định. Suwaidan và cộng sự đã nghiên cứu thông tin BCBP được công bố theo IAS 14 của 67 DNNY trong ngành công nghiệp của Jordan trên sàn giao dịch chứng khoán của Jordan (ASE), từ các báo cáo thường niên được công bố năm 2002. Bằng việc sử dụng các phép thử hồi quy, họ đã kiểm tra mối quan hệ giữa mức độ công bố thông tin BCBP và một số các đặc tính của doanh nghiệp như: quy mô doanh nghiệp, tỷ lệ nợ, tỷ lệ tài sản hiện có. Họ công bố một bảng các chỉ số kiểm tra dựa trên những yêu cầu của IAS 14 bao gồm 11 yếu tố của bộ phận chính yếu (doanh thu từ bên ngoài, doanh thu nội bộ, lợi nhuận, tài sản, cơ sở giá nội bộ, nợ phải trả, chi phí tài chính, chi phí khấu hao, các khoản chi phí không bằng tiền khác, lợi nhuận từ liên doanh/liên kết và đối chiếu, điều chỉnh với các tài khoản hợp nhất); ba yếu tố của các bộ phận thứ yếu (doanh thu từ bên ngoài, tài sản và các chi phí tài chính); và hai yếu tố cho những nội dung khác (loại hình sản phẩm/dịch vụ của các doanh nghiệp và yếu tố địa lý, (Suwaidan và cộng sự, 2007).
Mức độ công bố thông tin và nội dung thông tin công bố rất quan trọng, phục vụ cho các đối tượng sử dụng thông tin trong quá trình ra quyết định. Nhiều học giả cho rằng, việc công bố thông tin hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu của đối tượng sử dụng thông tin bởi nhà quản trị đã can thiệp, hạn chế cung cấp thông tin ra ngoài, trong trường hợp thông tin đó không có lợi cho mục tiêu của họ (Akhatruddin, 2005). Kết quả là, mức độ công bố thông tin thực tế không đáp ứng được nhu cầu thực tế của đối tượng sử dụng thông tin, mâu thuẫn này xuất phát từ lý thuyết đại diện (The Agency theory). Tuy nhiên, các học giả Cooke, Hossain và Karim đã khẳng định rằng, mức độ công bố thông tin BCBP trên BCTC càng chi tiết sẽ càng làm tăng giá trị thị trường của doanh nghiệp và tăng khả năng thanh khoản trên TTCK [Cooke, (1989); Hossain, (2000); Karim, (1996)].
2.1.1.2. Công bố thông tin BCBP giúp dự đoán kết quả trong tương lai
Về những chuẩn mực mà sự ra đời và phát triển của nó có ảnh hưởng đến quy định trong công bố BCBP, phải kể đến SFAS No.131, ban hành năm 1997 tại Mỹ, tiền thân của IFRS 8 (2008) – thay thế IAS 14. Rất nhiều công trình nghiên cứu đã kết luận, SFAS No.131 ảnh hưởng rất lớn đến BCBP ở Mỹ. Các tác giả Hermann, Thomas, Berger và Hann tiến hành khảo sát, kết quả là hơn một nửa DNNY trong mẫu nghiên cứu đã công bố BCBP, tăng so với thời kỳ còn sử dụng chuẩn mực cũ [Hermann và Thomas (2000), Berger và Hann (2003)].
Ở Mỹ có nhiều nghiên cứu bàn về mức độ công bố thông tin BCBP và tính hữu ích của việc thông tin tuân thủ theo quy định của chuẩn mực kế toán SFAS 131. Trong nghiên cứu của Behn et al, dữ liệu được thu thập từ 172 doanh nghiệp, tác giả đã tiến hành kiểm chứng, xem xét liệu việc công bố thông tin BCBP theo quy định của SFAS 131 có thực sự giúp cho đối tượng sử dụng thông tin hiểu được rủi ro và lợi nhuận trong khoản đầu tư của họ ở doanh nghiệp không. Kết quả cho thấy, trên 50% doanh nghiệp trong khảo sát đã cung cấp thông tin BCBP theo quy định của SFAS 131; và công bố thông tin BCBP theo khu vực địa lý đã giúp cho đối tượng sử dụng thông tin dự báo được thu nhập tương lai của một doanh nghiệp (Behn et al, 2002). Không những vậy, nghiên cứu của Ettredge et al đã khẳng định được, việc công bố thông tin BCBP có thể giúp cho việc dự báo kết quả kinh doanh trong tương lai của một doanh nghiệp. Trên cơ sở xem xét quan điểm của đối tượng sử dụng thông tin, cụ thể là nhà đầu tư, kết quả cho thấy, đối tượng sử dụng thông tin quan tâm đến kết quả từng bộ phận của doanh nghiệp hơn là kết quả chung của doanh nghiệp (Ettredge et al, 2005).
Các công ty đa quốc gia được kỳ vọng sẽ công khai thông tin BCBP nhiều hơn trong BCTC vì những công ty này hoạt động trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau, ở nhiều vị trí địa lý khác nhau; bên cạnh đó, BCTC của họ do nhiều cơ quan lập pháp quy định, quản lý. Không những vậy, tiền tệ của các quốc gia khác nhau hay rủi ro về tỷ giá ngoại tệ có thể làm giảm khả năng dự đoán lợi nhuận tương lai của các công ty đa quốc gia, đặc biệt là với các công ty đa quốc gia ở những thị trường đang phát triển, do tỷ giá ngoại tệ ở những thị trường này có nhiều rủi ro hơn (dao động nhiều hơn so với thị trường ở các nước phát triển). Martin và Poli cho rằng: “Những rủi ro tại thị trường ở các nước đang phát triển và sự yếu kém trong kiểm soát rủi ro có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận của các công ty đa quốc gia đang hoạt động trong thị trường này”, (Martin và Poli, 2004).
Bên cạnh đó, Martin và Poli cũng đã nghiên cứu, liệu công bố thông tin BCBP theo khu vực địa lý có hữu ích cho người sử dụng BCTC từ các công ty đa quốc gia của Mỹ đang hoạt động trong thị trường ở các nước đang phát triển hay không. Giả thuyết này được kiểm nghiệm bằng cách ước lượng hệ số phản ứng thu nhập (ERC) cho lợi nhuận của các công ty đang hoạt động trong thị trường ở các nước đang phát triển so với những công ty chỉ hoạt động tại các thị trường ở các nước phát triển (Martin và Poli, 2004). Số liệu công bố thông tin BCBP theo khu vực địa lý được thu thập từ 111 doanh nghiệp. Vì lợi nhuận thu được từ thị trường ở các nước đang phát triển có rủi ro hơn là lợi nhuận thu được từ thị trường ở các nước phát triển, các tác giả này đã giả thuyết rằng, các doanh nghiệp tại thị trường ở các nước đang phát triển có hệ số ERC thấp hơn (cụ thể là thu nhập thấp hơn) các doanh nghiệp tại thị trường ở các nước phát triển. Tại những khu vực được nghiên cứu, họ thấy rằng, hệ số ERC của các doanh nghiệp tại thị trường ở các nước đang phát triển (3.65) thấp hơn đáng kể so với các doanh nghiệp chỉ hoạt động tại thị trường ở các nước phát triển. Nói cách khác, lợi nhuận các công ty đa quốc gia thu được từ các thị trường ở các nước đang phát triển ít hơn từ các thị trường ở các nước phát triển; điều này có nghĩa là lợi nhuận thu được từ các khu vực địa lý khác nhau có thể khác nhau. Do đó, thông tin BCBP theo khu vực địa lý được công bố là hữu ích cho các cổ đông vì nó cho phép họ so sánh lợi nhuận của các doanh nghiệp, (Martin và Poli, 2004).
Ảnh hưởng từ SFAS No.131 cũng cho thấy, số lượng các doanh nghiệp công bố thông tin BCBP theo khu vực địa lý tăng lên, đây là cơ sở để các đối tượng sử dụng thông tin dự báo doanh thu, kết quả theo vị trí kinh doanh của doanh nghiệp. Các tác giả đều khẳng định, cách thức công bố thông tin dựa vào quan điểm quản trị “management approach” của SFAS No.131 đã được chứng minh là thành công hơn so với cách thức trước đây, trên cơ sở rủi ro và lợi ích từng bộ phận “risks and rewards-approach”.
Xem xét đặc điểm định tính của thông tin trên BCTC, các tác giả Maines, McDaniel và Harris ủng hộ SFAS No.131, họ cho rằng, thông tin BCBP sẽ đáng tin cậy hơn khi thông tin bộ phận được công bố từ các nhà quản trị doanh nghiệp và thông tin bộ phận được công bố cho các đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài là thống nhất với thông tin phục vụ mục tiêu quản trị của nhà quản trị. Cách tiếp cận quản trị theo SFAS No.131 làm tăng độ tin cậy của nhà đầu tư đối với thông tin BCBP đã công bố từ nguồn thông tin nội bộ của nhà quản trị doanh nghiệp, (Maines, McDaniel và Harris, 1997).
IFRS 8, kết hợp qui định của cả IFRS và SFAS, có nội dung tương tự SFAS No.131. Tuy không có nhiều nghiên cứu đánh giá IFRS 8 như SFAS No.131 nhưng trong nghiên cứu chứng minh thành công của IFRS 8, tác giả Crawford và cộng sự đã khẳng định tính hữu ích vượt trội của IFRS 8 so với IAS 14, (Crawford và các cộng sự, 2012).
Bên cạnh các nghiên cứu điển hình về mức độ công bố thông tin BCBP theo quy định trong chuẩn mực kế toán và đánh giá tính hữu ích của thông tin này, cũng có nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của mức độ công bố thông tin và bất lợi trong cạnh tranh với doanh nghiệp. Điển hình là nghiên cứu của nhóm tác giả Tsakumis với dữ liệu được thu thập từ 115 doanh nghiệp, nhóm tác giả đã sử dụng mô hình phân tích hồi quy đa nhân tố để chứng minh các giả thiết liên quan giữa mức độ công bố thông tin BCBP với các doanh nghiệp hoạt động ở nước ngoài, có doanh thu từ nước ngoài. Kết quả cho thấy, những doanh nghiệp hoạt động ở nước ngoài ít công bố đầy đủ thông tin BCBP theo quy định, vì lo sợ thông tin này ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh của mình trên thị trường, (Tsakumis et al, 2006).
SSAP 25, ban hành tại Anh, năm 1990, là chuẩn mực kế toán đầu tiên quy định việc lập và công bố thông tin BCBP ở Anh. Đã có nhiều nghiên cứu về quy định trong các chuẩn mực có làm tăng mức độ công bố thông tin BCBP tại các DNNY không, kết quả nghiên cứu của Edwards và Smith cho thấy, mức độ tuân thủ quy định trong các chuẩn mực thấp. Nghiên cứu này cũng chỉ ra nguyên nhân các doanh nghiệp chưa công bố thông tin BCBP sau khi khảo sát 103 DNNY và tiến hành một số cuộc phỏng vấn. Lý do các doanh nghiệp chưa công bố thông tin BCBP là do bất lợi cạnh tranh, đặc biệt là công bố thông tin BCBP theo khu vực địa lý, (Edwards và Smith, 1996).
Những bất lợi cạnh tranh trong phân tích về công bố thông tin BCBP ở trên có thể là từ áp lực chính trị, áp lực của khách hàng hoặc áp lực từ phía đối thủ cạnh tranh. Trước đó, đã có một số nghiên cứu về mức độ của bất lợi cạnh tranh và mối quan hệ của bất lợi cạnh tranh với việc công bố thông tin BCBP tại thị trường ở những nước đang phát triển như Malaysia và Jordan. Ví dụ, Talha và cộng sự đã sử dụng phương pháp hồi quy tuyến tính với số liệu thu thập từ 116 DNNY công khai thông tin BCBP tại Malaysia, giai đoạn 2000-2001. Họ không tìm thấy mối quan hệ giữa mức độ cạnh tranh mà doanh nghiệp phải đối mặt với mức độ công bố thông tin BCBP. Talha và cộng sự đã sử dụng phép hồi quy tương tự với cùng quy mô và các biến như trong nghiên cứu của họ nhưng thêm một số biến độc lập (lựa chọn hoạt động kinh doanh hoặc khu vực địa lý) làm tiêu chuẩn của bộ phận chính yếu, họ nhận thấy mức độ bất lợi cạnh tranh ở các doanh nghiệp công khai thông tin bộ phận theo khu vực địa lý như bộ phận chính yếu cao hơn. Ngoài ra, các tác giả cũng nhận thấy các doanh nghiệp lớn hơn ở Malaysia chịu nhiều bất lợi so sánh hơn các doanh nghiệp nhỏ, quy mô doanh nghiệp trong thị trường ở các nước đang phát triển cũng là một yếu tố ảnh hưởng, (Talha và cộng sự, 2007).
2.1.2. Mức độ công bố thông tin BCBP, nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP
2.1.2.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài về việc công bố thông tin BCBP
Nghiên cứu về mức độ công bố thông tin BCBP và đánh giá nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP đã được nhiều tác giả trên thế giới thực hiện, trên cơ sở số liệu ở từng nước như Nigeria, Kuwait, Italia, Ấn độ, Tây Ban Nha,… Các nghiên cứu đều sử dụng phương pháp thống kê mô tả và mô hình phân tích hồi quy đa biến, nhằm đánh giá mức độ tuân thủ chuẩn mực kế toán về công bố thông tin BCBP và phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đến mức độ công bố thông tin BCBP tại các DNNY ở từng quốc gia. Có tác giả phân tích một nhân tố, có tác giả phân tích nhiều nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP, nhưng tựu chung, đều cho chúng ta thấy được một số kết quả của việc tuân thủ chuẩn mực kế toán liên quan đến công bố thông tin BCBP và các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin ở những vị trí địa lý khác nhau.
Một số công trình nghiên cứu cụ thể: “Corporate Governance and Disclosure on Segment Reporting: Evidence from Nigeria” (2013) của nhóm tác giả Kabir Ibrahim và Hartini Jaafar. Hội đồng chuẩn mực kế toán Nigeria (NASB) công bố lộ trình hội tụ IFRS (lộ trình hướng tới hội tụ kế toán quốc tế theo IFRS) vào tháng 9/2010, yêu cầu các DNNY tại Nigeria phải thực hiện báo cáo theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế IFRS từ ngày 01/01/2012. Nghiên cứu điều tra về sự liên kết giữa cấu trúc quản lý doanh nghiệp với mức độ tuân thủ theo IFRS 8. Mẫu nghiên cứu gồm 69 DNNY tại Nigeria với mô hình nghiên cứu được thiết lập như sau:
VDISCL = β0 + β1 BINDP + β2 SIZE + β3 BMEET + β4 SPRTN + β5 ACINDP + β6 ACSIZE + β7 ACMEET + β8 FSIZE + β7 INTYPEt + εi
Những phát hiện trong nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng trong quản trị doanh nghiệp và việc công bố thông tin trên BCTC của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu hỗ trợ cho lập luận rằng, cơ chế hội đồng quản trị và ban kiểm soát giúp thúc đẩy mức độ công bố thông tin tại Nigeria. Nghiên cứu cũng đã cung cấp cái nhìn rõ hơn về mối quan hệ giữa cơ chế quản trị doanh nghiệp và mức độ công bố thông tin BCBP theo quy định của IFRS trong bối cảnh nền kinh tế Nigeria đang khủng hoảng tài chính trầm trọng, (Kabir Ibrahim and Hartini Jaafar, 2013).
Công trình nghiên cứu “What Explains Variation In Segment Reporting?-Evidence From Kuwait” của nhóm tác giả Mishari M. Alfaraih và Faisal S. Alanezi đã đánh giá mức độ công bố thông tin BCBP của các DNNY trên thị TTCK Kuwait và các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố BCBP tại đây. Mức độ công bố thông tin dựa trên các yêu cầu bắt buộc trong IAS 14. Công trình nghiên cứu đã khảo sát 123 DNNY tại Kuwait năm 2008 với mô hình nghiên cứu:
Y = β0 + β1 (company size) + β2 (audit quality) + β3 (company age) + β4 (ownership diffusion) + β5 (profitability) + β6 (leverage) + β7 (growth) + β8-11 (industry 1-4) + εi
Kết quả của nghiên cứu này cho thấy, 56% doanh nghiệp tuân thủ quy định về BCBP, trong đó, những doanh nghiệp có quy mô lớn, hoạt động lâu năm, đòn bẩy tài chính cao, khả năng sinh lợi lớn và có hoạt động kiểm toán được thực hiện bởi các công ty kiểm toán thuộc nhóm Big 4 (nhóm gồm bốn công ty kiểm toán quốc tế hàng đầu trên thế giới hiện nay), có mức độ công bố thông tin bộ phận cao hơn các doanh nghiệp khác.
Nghiên cứu của nhóm tác giả Manuela Lucchese và Ferdinando Di Carlo ở Ý đề cập đến ảnh hưởng của việc thay đổi nội dung từ IAS 14 sang IFRS 8 – “An Analysis Of Segment Disclosure under IFRS 8 and IAS 14R: Evidence from Italian Listed Companies”. Nghiên cứu thực hiện khảo sát về ảnh hưởng của việc áp dụng IFRS 8 trong năm đầu tiên (2008) và hai năm tiếp theo (2009, 2010) thông qua thu thập dữ liệu của 69 DNNY tại Italia với mô hình nghiên cứu:
VoluntSDSi = β0 + β1TAt + β2ROIt + β3LEVt + β4OWNt + β5GROWTHt + β6BETAt+ β7FINt + εi
Kết quả của nghiên cứu này cho thấy, 75% DNNY tại Italia không thay đổi cách thức công bố thông tin bộ phận khi áp dụng chuẩn mực mới. Khi chuyển đổi từ IAS 14R sang IFRS 8, chỉ có 16% doanh nghiệp tăng mức độ công bố thông tin BCBP, thậm chí có 9% doanh nghiệp giảm lượng thông tin công bố. Điểm tích cực đáng nói nhất của IFRS 8 là phương pháp quản trị nhưng phương pháp này lại chỉ mới thể hiện được trên lý thuyết. Về mối liên hệ giữa mức độ công bố BCBP và các nhân tố ảnh hưởng thuộc đặc tính của doanh nghiệp, kết quả từ nghiên cứu cho thấy, quy mô doanh nghiệp và khả năng sinh lời là hai yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc công bố BCBP (Manuela Lucchese và Ferdinando Di Carlo, 2001).
Về đánh giá mức độ công bố thông tin BCBP tuân thủ theo chuẩn mực kế toán, không thể bỏ qua nghiên cứu của nhóm tác giả Raju Hyderabad và Kalyanshetti Pradeepkumar – “An Appraisal of Segment Reporting Practices of Indian IT Industry”. Nghiên cứu đã đánh giá thực trạng lập và công bố thông tin BCBP của 45 DNNY trong lĩnh vực công nghệ thông tin tuân thủ chuẩn mực kế toán Ấn Độ số 17 về BCBP. Nghiên cứu đã phát hiện được, có một khoảng cách lớn giữa mô tả trong chuẩn mực và thực tế. Kết quả thống kê cho thấy, đa số các doanh nghiệp công bố BCBP chính yếu theo lĩnh vực kinh doanh và chỉ công bố giới hạn thông tin mà chuẩn mực bắt buộc, các DNNY trong lĩnh vực này vẫn chưa tuân thủ toàn bộ các yêu cầu về công bố thông tin của chuẩn mực. Chỉ có 11% doanh nghiệp trong 29 mẫu nghiên cứu công bố toàn bộ các thông tin theo đúng quy định. Thông tin bộ phận tự nguyện công bố lẽ ra là các thông tin đem lại giá trị cao cho cổ đông, có lợi trong duy trì quan hệ với nhà đầu tư, nhà cung cấp, ngân hàng, nâng cao hình ảnh doanh nghiệp trước công chúng và làm tăng cơ sở đánh giá của thị trường, nhưng lại được công bố rất sơ sài, không trông chờ những thông tin này được công bố trong BCBP. Nghiên cứu này đã kết luận, các doanh nghiệp chỉ áp dụng chuẩn mực về hình thức. IFRS 8 được áp dụng tại Ấn Độ từ tháng 4 năm 2011 đã cải thiện chất lượng thông tin BCBP, đồng thời làm thay đổi quan điểm của nhà quản trị trong việc chia sẻ thông tin với nhà đầu tư. Đây sẽ là cách giúp nhà đầu tư đánh giá doanh nghiệp và các bộ phận hiệu quả hơn, từ đó đưa ra quyết định nắm giữ các khoản đầu tư tối ưu nhất, (Raju Hyderabad và Kalyanshetti Pradeepkumar, 2011).
Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP, nhóm tác giả Pedro Nuno Pardal và Ana Isabel Morais đã có kết luận trong nghiên cứu “Segment Reporting Under IFRS8 – Evidence From Spanish Listed Firms”. Thông qua việc thu thập báo cáo thường niên năm 2009 của 150 DNNY tại Tây Ban Nha, nghiên cứu đã xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến việc công bố thông tin BCBP và tiến hành khảo sát mức độ tuân thủ việc công bố BCBP theo IFRS 8 của các DNNY này với mô hình nghiên cứu:
DCSi = β 0 + β1SIZEi + β2LISTi + β3AUDITi + β4ROAi + β5LEVi + β6IBEXi + ei
Kết quả nghiên cứu cho thấy, 79% DNNY tại Tây Ban Nha tuân thủ việc công bố BCBP theo từng lĩnh vực kinh doanh. Chỉ có 7,6% doanh nghiệp không công bố BCBP do chỉ có duy nhất một bộ phận. Nghiên cứu kết luận rằng, quy mô doanh nghiệp càng lớn, càng công bố nhiều thông tin BCBP hơn; khả năng sinh lợi càng cao, mức độ công bố thông tin BCBP càng thấp. (Nuno Pardal và Ana Isabel Morais, 2010).
Một nghiên cứu điển hình ở Malaysia, tương đồng về điều kiện phát triển và văn hoá với Việt Nam, của nhóm tác giả Samuel Jebaraj Benjamin, Saravanan Muthaiyah, M. Srikamaladevi Marathamuthu, Uthiyakumar Murugaiah – “A Study of Segment Reporting Practices: A Malaysian Perspective”. Nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê mô tả để khảo sát một số doanh nghiệp lớn ở 5 lĩnh vực kinh doanh năm 2007 và 2008 tại Malaysia gồm: viễn thông, nước giải khát, truyền thông in ấn, điện tử truyền thông và tiện ích xã hội. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ các doanh nghiệp không trình bày BCBP khá cao, các doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao cũng chính là các doanh nghiệp không trình bày BCBP. Nghiên cứu cũng đã đề cập một số giải pháp khắc phục tình trạng không chấp hành trình bày BCBP tại quốc gia này, (Samuel Jebaraj Benjamin, Saravanan Muthaiyah, M. Srikamaladevi Marathamuthu, Uthiyakumar Murugaiah, 2010).
Trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu khoa học đề cập đến tính hữu ích của việc công khai thông tin trên BCTC nói chung và công bố thông tin bộ phận nói riêng. Các học giả đã sử dụng mô hình kinh tế định lượng để đánh giá các nhân tố chủ yếu (liên quan đến đặc tính của doanh nghiệp, thị trường) ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin, hay thông tin BCBP của DNNY trên TTCK. Luận án này sẽ tập trung kiểm chứng ảnh hưởng của các nhân tố (liên quan đến đặc tính của doanh nghiệp như ngành nghề kinh doanh, khả năng sinh lời, qui mô doanh nghiệp,…) ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP, bằng việc sử dụng phương pháp phỏng vấn để đánh giá tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP trên quan điểm của 3 đối tượng là, nhà đầu tư, người lập BCTC và kiểm toán viên. Từ đó đề xuất một số giải pháp tăng cường mức độ công bố thông tin BCBP theo thông lệ quốc tế về công bố thông tin BCBP, đảm bảo tính hữu ích của thông tin đối với các đối tượng sử dụng thông tin.
2.1.2.2. Đánh giá chung về những nghiên cứu đã thực hiện ở nước ngoài về công bố thông tin báo cáo bộ phận
Các nghiên cứu đánh giá tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP thông qua việc đánh giá việc công bố thông tin BCBP làm tăng chất lượng thông tin công bố trên BCTC, mối quan hệ của việc công bố thông tin BCBP với lợi nhuận cũng như dự báo các kết quả trong tương lai. Mức độ tuân thủ chuẩn mực kế toán và các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP có những đặc điểm như sau:
– Hầu hết các nghiên cứu đều đánh giá mức độ tuân thủ chuẩn mực công bố thông tin BCBP trong phạm vi quốc gia, các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin. Một số nghiên cứu tập trung đề cập đến mức độ công bố thông tin BCBP, đánh giá những nhân tố ảnh hưởng theo đặc điểm, điều kiện từng quốc gia.
– Phương pháp nghiên cứu chủ yếu sử dụng trong các nghiên cứu đã thực hiện là phương pháp nghiên cứu định lượng, có dùng kết quả của những nghiên cứu trước đó, với cỡ mẫu được mở rộng.
– Nhiều nghiên cứu có kết quả tương đồng về đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP, đều chứng minh có ảnh hưởng qua lại giữa các nhân tố như, quy mô doanh nghiệp, khả năng sinh lời, doanh nghiệp kiểm toán BCTC, quan hệ sở hữu,… với mức độ công bố thông tin BCBP. Dù đánh giá những ảnh hưởng này thuận chiều hay ngược chiều các nhân tố ảnh hưởng thì kết quả trong các nghiên cứu đều khác nhau. Cụ thể, trong các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP, ngoài một số nhân tố được hầu hết các nghiên cứu đồng tình thì đa phần được các nhóm tác giả sau khi thực nghiệm có kết quả khác nhau. Ví dụ, với nhân tố quy mô doanh nghiệp và khả năng sinh lời, nghiên cứu của nhóm tác giả Mishari M. Alfaraih và Faisal S. Alanezi đã kết luận, có mối quan hệ cùng chiều giữa qui mô doanh nghiệp và khả năng sinh lời với mức độ công bố thông tin BCBP. Trong khi đó, kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả Samuel Jebaraj Benjamin, Saravanan Muthaiyah, M. Srikamaladevi Marathamuthu, Uthiyakumar Murugaiah kết luận ngược lại, các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu có mức sinh lời càng cao thì mức độ công bố thông tin BCBP càng thấp.
– Liên quan đến đánh giá tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP, đa phần các nghiên cứu đã chứng minh bằng phương pháp thực chứng để kết luận việc công bố thông tin BCBP có ý nghĩa đối với các đối tượng sử dụng thông tin, chủ yếu là nhà đầu tư trên TTCK. Tuy nhiên, các nghiên cứu này đều chưa sử dụng đặc điểm định tính của thông tin trên BCTC để xem xét tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP.
Qua những phân tích trên, có thể thấy, cần thận trọng khi xem xét các kết quả nghiên cứu, không được chỉ dựa vào các kết quả nghiên cứu để khẳng định kết quả nào đúng, kết quả nào sai, kết quả nào phù hợp, mà cần xem xét toàn diện để có cách nhìn đúng đắn, đầy đủ ở mỗi kết quả nghiên cứu, nhằm vận dụng hợp lý trong từng môi trường, từng nền kinh tế và từng doanh nghiệp tại Việt Nam. Sự khác nhau ở một số kết quả nghiên cứu có thể bắt nguồn từ những nguyên nhân sau, khác về lựa chọn mẫu nghiên cứu khi thực nghiệm (nghiên cứu ở các quốc gia khác nhau có thể phải đối mặt với thực trạng khác biệt về văn hoá, kinh tế, chính trị, tập quán dẫn đến kết quả khác nhau), khác về thời điểm nghiên cứu (thời điểm được chọn để lấy mẫu nghiên cứu khác nhau dẫn đến khác về kiến thức, tầm nhìn, trình độ, kỹ thuật và công cụ phân tích,…) và khác về trình độ phát triển kinh tế của các nước ở từng giai đoạn.
Tóm lại, trên cơ sở xem xét các nghiên cứu về tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP đã được tiến hành trên thế giới, có rất nhiều tranh luận về lợi ích cũng như chi phí (bất lợi cạnh tranh) khi thực hiện công bố thông tin BCBP. Các nghiên cứu đề cập trong Luận án đã có phương pháp tiếp cận, sử dụng công cụ đo lường khác nhau để nhận định về tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP. Tuy nhiên, những nghiên cứu này chủ yếu dựa vào kết quả định lượng nhằm lượng hoá ảnh hưởng của việc công bố thông tin BCBP với thông tin hữu ích cho nhà đầu tư (như ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận, đến quyết định của nhà đầu tư,…). Sự phát triển của các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới bắt nguồn từ các chiến lược đa dạng hóa lĩnh vực kinh doanh và quốc tế hóa đã dẫn đến sự gia tăng tính phức tạp của các hoạt động kinh doanh, đồng thời tác động mạnh mẽ đến việc công khai thông tin tài chính cho các nhà đầu tư và các đối tượng sử dụng thông tin. Nói chung, các nghiên cứu đều đi theo hướng thảo luận về nội dung của các chuẩn mực mới so với chuẩn mực cũ và đưa ra bằng chứng thực nghiệm về các yếu tố và ảnh hưởng của chúng đến việc công bố BCBP, từ đó đánh giá tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP.
Tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP trong BCTC được xem xét trong các nghiên cứu dựa trên những mô hình định lượng, kết quả là, việc công bố thông tin BCBP làm tăng chất lượng thông tin trên BCTC, ảnh hưởng đến việc ra quyết định của nhà đầu tư. Các nghiên cứu cũng được chứng minh được, có mối liên hệ giữa mức độ công bố thông tin BCBP với lợi nhuận, đặc biệt là công bố thông tin BCBP theo khu vực địa lý. Hơn nữa, qui định mới trong IFRS 8 được đánh giá là linh hoạt ở yêu cầu về BCBP, công bố thông tin BCBP, tạo điều kiện cho quá trình lập và trình bày thông tin BCBP của doanh nghiệp. Từ kết quả nghiên cứu đã có, Luận án xin được tập trung vào đánh giá tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP trong BCTC của các DNNY dựa trên kết quả khảo sát từ nhiều đối tượng khác nhau (nhà đầu tư, kiểm toán viên và người lập BCTC). Quan điểm của các đối tượng này về tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP được xem xét trên đặc tính chất lượng thông tin BCTC đối với đối tượng sử dụng thông tin cũng như định hướng cho quá trình tuân thủ thông lệ quốc tế về lập và công bố thông tin BCBP theo IFRS 8.
2.2. Tổng quan nghiên cứu ở Việt Nam
Tại Việt Nam, để hiểu rõ mục tiêu của đề tài, tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP với đối tượng sử dụng thông tin, cũng như đánh giá mức độ tuân thủ quy định và nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP, từ đó có những đề xuất nhằm tăng cường mức độ công bố thông tin BCBP trong BCTC cũng như cải thiện chất lượng thông tin công bố của các DNNY trên TTCK. Ngoài việc trình bày những nghiên cứu ở nước ngoài, Luận án sẽ trình bày cụ thể các nghiên cứu liên quan đến việc công bố thông tin BCBP tại Việt Nam.
2.2.1. Các nghiên cứu đánh giá tính hữu ích của việc công bố thông tin tài chính (TTTC), mức độ công bố thông tin (CBTT) và nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT BCTC nói chung
Liên quan đến tính hữu ích của thông tin công bố trên BCTC của các doanh nghiệp Việt Nam, phải kể đến nghiên cứu của tác giả Nguyễn Phúc Sinh. Tác giả đã phân tích tính hữu ích của thông tin trên BCTC, đưa ra quan điểm và đề xuất các giải pháp để nâng cao tính hữu ích của thông tin công bố trong BCTC ở các DNNY ở Việt Nam (Nguyễn Phúc Sinh, 2008).
Một số tác giả đã có nghiên cứu đánh giá mức độ CBTT cũng như xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT tài chính tại các DNNY. Cụ thể, nhóm tác giả Phạm Ngọc Toàn và Hoàng Thị Thu Hoài đã sử dụng phương pháp chỉ số CBTT để đo lường mức độ CBTT. Bên cạnh đó, nhóm tác giả đã đánh giá các nhân tố (liên quan đến đặc điểm công ty) ảnh hưởng đến mức độ CBTT. Qua phân tích hồi quy, kết quả cho thấy mức độ CBTT trong BCTC của các DNNY chưa cao. Các nhân tố tác động đến thành phần hội đồng quản trị (HĐQT) gồm, tỷ lệ sở hữu vốn HĐQT, đòn bẩy tài chính, tỷ lệ sở hữu nước ngoài ảnh hưởng đến mức độ CBTT, các nhân tố còn lại không ảnh hưởng (Phạm Ngọc Toàn và Hoàng Thị Thu Hoài, 2015). Thời gian gần đây, một nghiên cứu liên quan đến vấn đề này đã được thực hiện, đó là Luận án Tiến sỹ của Lê Thị Mỹ Hạnh, nội dung của Luận án này đánh giá thực trạng minh bạch thông tin BCTC và các nhân tố ảnh hưởng đến minh bạch thông tin BCTC của các DNNY trên TTCK Việt Nam. Kết quả của Luận án cho thấy, tính minh bạch thông tin BCTC chưa cao, chỉ đạt mức trung bình. Về các nhân tố ảnh hưởng, tác giả đã xét đến 8 nhân tố có ảnh hưởng đến mức độ minh bạch thông tin BCTC gồm, quy mô doanh nghiệp, lợi nhuận, đòn bẩy tài chính, hiệu quả sử dụng tài sản, công ty kiểm toán, cơ cấu HĐQT, quy mô HĐQT và sự kiêm nhiệm giữa chủ tịch HĐQT và tổng giám đốc (TGĐ) (Lê Thị Mỹ Hạnh, 2015).
Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCTC của DNNY, phải kể đến nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Công Phương và Nguyễn Thị Thanh Phương, kết quả của nghiên cứu cho thấy, mức độ công bố thông tin không cao bằng việc đo lường mức độ CBTT của 99 DNNY trên TTCK Hồ Chí Minh (HCM). Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng, nhóm tác giả kết luận, có 5 nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT đó là, quy mô doanh nghiệp, tỷ lệ sở hữu của cổ đông nước ngoài, công ty kiểm toán, mức độ sinh lời và thời gian niêm yết. Các nhân tố không ảnh hưởng đến mức độ CBTT đó là, tỷ lệ sở hữu nhà nước, đòn bẩy tài chính, quản trị công ty, số công ty con, lĩnh vực hoạt động, khả năng thanh toán, thị trường niêm yết và tính phức tạp của hoạt động kinh doanh (Nguyễn Công Phương và Nguyễn Thị Thanh Phương, 2014).
Liên quan đến mục tiêu nghiên cứu của Luận án, không thể không kể đến nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Thị Phương Hồng và Mai Thị Hoàng Minh, khảo sát về quan điểm của người lập và người sử dụng các khía cạnh của BCTC. Nghiên cứu này đã trình bày khá chi tiết quan điểm của các đối tượng trên về tần suất, mục đích sử dụng BCTC, tính kịp thời của BCTC, tầm quan trọng của nguồn công bố thông tin và của từng BCBP trong BCTC của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay (Nguyễn Thị Phương Hồng và Mai Thị Hoàng Minh, 2014).
2.2.2. Các nghiên cứu liên quan đến công bố thông tin BCBP
Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 28 – Báo cáo bộ phận (VAS 28) ra đời năm 2005, trên cơ sở tuân thủ IAS 14 (VAS 28 chưa có những cập nhật theo IFRS 8), việc áp dụng VAS 28 trong thực tiễn còn nhiều bất cập. Thông tin về các bộ phận nếu được công bố hợp lí sẽ hữu ích với nhiều đối tượng sử dụng BCTC doanh nghiệp. Tác giả Phạm Thị Thủy đã nghiên cứu, đánh giá mức độ tuân thủ VAS 28 và tính hữu ích của công bố thông tin BCBP của 30 doanh nghiệp làm mẫu (30 doanh nghiệp có giá trị vốn hóa và tính thanh khoản cao nhất trên TTCK Việt Nam). Tuy nhiên, nghiên cứu mới dừng ở kết quả khảo sát tổng quan áp dụng VAS28, chưa có nội dung đánh giá cụ thể xem mức độ tuân thủ ở từng nội dung trong qui định (Phạm Thị Thủy, 2012).
Trong nghiên cứu “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện trình bày và công bố báo cáo bộ phận của các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TP. HCM”. Bằng khảo sát BCTC của 308 doanh nghiệp có BCTC niêm yết năm 2012, nghiên cứu đã xác định các nhân tố ảnh hưởng đến công bố BCBP theo VAS 28, đồng thời nghiên cứu cũng mô tả chi tiết lý do các doanh nghiệp không công bố thông tin bộ phận. Kết quả kiểm định cho thấy, có sự tương quan thuận chiều giữa quy mô doanh nghiệp, chất lượng công ty kiểm toán và đòn bẩy tài chính với mức độ công bố thông tin BCBP; sự tương quan ngược chiều giữa tỷ lệ quyền sở hữu của cổ đông nhỏ, chất lượng công ty kiểm toán và đòn bẩy tài chính với mức độ công bố thông tin BCBP. Đồng thời, có sự tương quan ngược chiều giữa tỷ suất sinh lời và đòn bẩy tài chính, từ đó, tác giả đã chỉ ra nguyên nhân những tồn tại trong việc thực thi VAS 28 cũng như những hạn chế cần được cải tiến trong khuôn khổ pháp lý ở Việt Nam, nhằm nâng cao chất lượng và số lượng thông tin bộ phận được công bố (Trần Thị Thúy An, 2013).
Hơn nữa, cũng nghiên cứu về công bố thông tin bộ phận: “Hoàn thiện báo cáo bộ phận trong kế toán Việt Nam theo hướng phù hợp với thông lệ kế toán quốc tế”. Tác giả đã chọn mẫu là 118 DNNY trên sàn giao dịch chứng khoán TP. HCM có BCTC niêm yết năm 2010. Kết quả cho thấy, có mối liên hệ giữa khả năng sinh lời với việc công bố thông tin BCBP. Những công ty có khả năng sinh lời thấp sẵn sàng công bố nhiều thông tin BCBP hơn. Bằng phương pháp thống kê mô tả và kiểm định các giả thiết đưa ra, nghiên cứu đã đưa ra nhiều bất cập, hạn chế còn tồn tại. Các doanh nghiệp lập BCBP đa phần chỉ nhằm mục đích đối phó. Việc công bố thông tin BCBP chưa thật sự nhằm mục đích đánh giá đúng tình hình thực tế của doanh nghiệp, ngoài ra, tác giả cũng đề xuất giải pháp để nâng cao chất lượng công bố thông tin bộ phận của các doanh nghiệp Việt Nam (Nguyễn Thị Phương Thúy, 2010).
2.2.3. Đánh giá chung các nghiên cứu đã thực hiện trong nước về CBTT BCTC, công bố thông tin BCBP
Từ khi TTCK Việt Nam thành lập, sau một quá trình hoạt động có thể thấy, thị trường bị chi phối bởi tâm lý ra quyết định đầu tư theo tâm lý đám đông chiếm tỷ lệ khá cao, trước tình hình này, vấn đề minh bạch thông tin trên TTCK được đặt ra khá nhiều. Sau nhiều thất bại trong đầu tư theo tâm lý đám đông, không dựa trên nguồn dữ liệu thông tin BCTC và sự không công bằng trong tiếp nhận thông tin giữa các nhà đầu tư, dẫn đến nhu cầu cấp thiết đặt ra cho các DNNY về tính minh bạch trong thông tin BCTC nói chung và cung cấp thông tin BCBP đầy đủ nói riêng. Từ đây, các nhà nghiên cứu, chuyên gia bắt đầu có những nghiên cứu về tính hữu ích thông tin BCTC, thông tin BCBP của các DNNY trong quá trình đầu tư chứng khoán; yêu cầu về tính minh bạch thông tin BCTC, thông tin BCBP cũng được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Ngoài một số kết quả đạt được như đã phân tích trong từng nghiên cứu ở trên, những nghiên cứu này còn đạt được những kết quả sau:
(1) Đưa ra bức tranh tổng quát về tình hình công bố thông tin BCBP của các DNNY, cũng như những đánh giá tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP trên các phương diện khác nhau.
(2) Đưa ra các đánh giá về mức độ công bố thông tin BCBP, mức độ tuân thủ chuẩn mực kế toán VAS 28 – BCBP hiện nay của các DNNY, cũng như đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP.
(3) Đề ra một số giải pháp hoàn thiện việc công bố thông tin BCBP của các DNNY.
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu vẫn tồn tại một số hạn chế:
(1) Phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận của các nghiên cứu được thực hiện chủ yếu nhằm làm rõ việc tuân thủ VAS 28 – BCBP tại các DNNY, đánh giá mức độ tuân thủ quy định chuẩn mực. Chưa có nghiên cứu nào ở Việt Nam đánh giá tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP, cũng như xem xét những khó khăn khi tuân thủ khuôn mẫu trong quá trình công bố thông tin BCBP trong BCTC.
(2) Các nghiên cứu trước khi xem xét quy định về chuẩn mực kế toán, chưa gắn kết với yêu cầu hội tụ kế toán quốc tế cũng như chuẩn mực kế toán quốc tế, chưa gắn kết và làm rõ đặc thù của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hội nhập. Cụ thể, sự hài hoà theo chuẩn mực kế toán quốc tế IFRS 8 – BCBP chưa được nghiên cứu rõ ràng.
2.3. Kết luận
Qua việc tổng hợp kết quả nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam về công bố thông tin BCTC nói chung, công bố thông tin BCBP nói riêng có thể thấy, có nghiên cứu đánh giá mức độ công bố thông tin BCBP và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin. Tuy nhiên, hầu hết nghiên cứu đều chỉ xem xét mức độ tuân thủ chung chung, chưa cụ thể từng nội dung để có giải pháp cụ thể cho vấn đề tăng cường mức độ công bố thông tin BCBP nói riêng hay chất lượng thông tin BCTC công bố nói chung. Các nghiên cứu trên thế giới ít thực hiện bước nghiên cứu tổng thể bằng phương pháp định tính để khám phá các nhân tố mới, mà chủ yếu thừa nhận và vận dụng đầy đủ các nhân tố đã thực hiện ở các mô hình trước với cỡ mẫu ngày càng rộng hơn. Trong khi đó, các nghiên cứu trong nước chủ yếu tập trung vào nghiên cứu mức độ tuân thủ chuẩn mực kế toán VAS 28 – BCBP, và xem xét các nhân tố ảnh hưởng (thuộc đặc tính doanh nghiệp) với mức độ với mức độ công bố thông tin BCBP. Phương pháp nghiên cứu tập trung sử dụng các mô hình phân tích, chưa có nghiên cứu nào có sự khẳng định từ phân tích định tính để kết quả logic hơn. Ngoài ra, việc đánh giá công bố thông tin BCBP của các DNNY trên TTCK Việt Nam dưới góc độ của nhà đầu tư và đối tượng sử dụng thông tin cũng là nội dung chưa từng được xem xét trong các nghiên cứu trước đây. Đây chính là khe hổng trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn về việc công bố thông tin BCBP của các DNNY trên TTCK Việt Nam. Từ việc xác định khe hổng trong nghiên cứu, qua Luận án này, tác giả mong muốn đem lại cái nhìn đầy đủ hơn về thực trạng lập và công bố thông tin BCBP dựa trên các yếu tố bắt buộc về công bố của VAS 28 tại thời điểm nghiên cứu, mức độ công bố thông tin BCBP tại DNNY trên TTCK Việt Nam năm 2015 cũng như trong giai đoạn 2011-2015. Việc tuân thủ quy định VAS 28 của các DNNY sau 12 năm áp dụng tại Việt Nam được nghiên cứu trên cơ sở mẫu nghiên cứu là 50 doanh nghiệp được giải báo cáo thường niên 2016, là những DN có tính thanh khoản cao nhất trên TTCK để xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP trong một khoảng thời gian 2011-2015. Luận án không những đánh giá được mức độ công bố thông tin BCBP và các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP, mà còn có những con số cụ thể về việc tuân thủ từng nội dung theo quy định trong VAS 28 (các nghiên cứu trước đây chưa đi vào đánh giá chi tiết). Bên cạnh đó, Luận án cũng phân tích dựa trên kết luận của các chuyên gia để thấy được xu hướng thay đổi qui định công bố thông tin BCBP tại Việt Nam khi hài hòa tuân thủ thông lệ quốc tế, từ đó có giải pháp xây dựng quy định ở Việt Nam. Trên cơ sở phân tích tính hữu ích của thông tin BCBP, tác giả đưa ra những đề xuất thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện công khai thông tin BCBP trên BCTC.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Luận án nghiên cứu thực trạng công bố thông tin BCBP trên BCTC của các DNNY, nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin này và đề xuất giải pháp hoàn thiện việc công bố thông tin BCPB trên BCTC tại các DNNY.
Từ mục tiêu nghiên cứu đã được xác định, Luận án sẽ làm rõ cơ sở lý thuyết về thông tin kế toán, thông tin báo cáo tài chính và công bố thông tin báo cáo tài chính, cụ thể là việc công bố thông tin báo cáo tài chính bộ phận như: căn cứ, nội dung, phương pháp lập và tác dụng của việc công bố thông tin BCBP trên BCTC.
Để đạt được mục tiêu trên, luận án trả lời các câu hỏi sau:
(1) Công bố thông tin BCBP trong BCTC có hữu ích đối với đối tượng sử dụng thông tin không?
(2) Thực trạng mức độ công bố thông tin BCBP trong BCTC của các DNNY trên TTCK Việt Nam trong thời gian qua?
(3) Nhân tố nào ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP trong BCTC của các DNNY trên TTCK Việt Nam, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố và mối tương quan giữa chúng?
(4) Cần làm gì để việc công bố thông tin BCBP của các DNNY trên TTCK Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của đối tượng sử dụng thông tin?
Mục tiêu nghiên cứu được phân tích chi tiết như sau:
(1) Thứ nhất, khảo sát việc công bố thông tin BCBP của các DNNY trên sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam để đánh giá mức độ tuân thủ qui định của VAS 28 về BCBP; và ý kiến của nhà đầu tư, kiểm toán viên, và người lập BCTC (doanh nghiệp), về tính hữu ích của việc công bố thông tin BCBP cũng như những khó khăn trong việc công bố thông tin BCBP trên BCTC tại các DNNY.
(2) Thứ hai, xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP thông qua các chỉ tiêu về quy mô doanh nghiệp, chủ thể kiểm toán, lĩnh vực hoạt động, khả năng sinh lời, thị trường niêm yết của doanh nghiệp, tài sản đảm bảo, mức độ tập trung vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp.
(3) Quan điểm, phương hướng, mục tiêu nâng cao việc công bố thông tin BCBP trên BCTC tại các DNNY; các giải pháp mang tính khoa học và khả thi, trên cơ sở vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế, nhằm phát triển, hoàn thiện việc công bố thông tin BCTC, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế tại Việt Nam.
Để đáp ứng được mục tiêu nghiên cứu trên, mức độ tuân thủ qui định trong VAS 28 được tác giả xác định thông qua việc công bố thông tin bộ phận theo qui định. Bên cạnh đó, tác giả cũng xây dựng giả thiết nghiên cứu dựa trên mối quan hệ của biến phụ thuộc là mức độ công bố thông tin BCBP và các biến độc lập đó là quy mô doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh, chủ thể kiểm toán, khả năng sinh lời, thị trường niêm yết, tài sản đảm bảo, mức độ tập trung vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu định tính và định lượng, tác giả đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện việc công bố thông tin BCBP trong BCTC của DNNY.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu việc công bố thông tin BCBP trong hệ thống BCTC tại các DNNY trên TTCK Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Về nội dung nghiên cứu, thông qua nghiên cứu việc công bố thông tin BCBP, tác giả muốn nhấn mạnh đến các vấn đề trong công bố thông tin BCBP bao gồm, lý luận cơ bản về việc công bố thông tin, công bố thông tin BCBP và thực trạng công bố thông tin BCBP tại các DNNY ở Việt Nam; đề xuất giải pháp nhằm tăng cường mức độ công bố thông tin BCBP, phát huy tính hữu ích của thông tin BCBP từ kết quả nghiên cứu ở nội dung thực trạng. Về phạm vi không gian, luận án nghiên cứu việc công bố thông tin BCBP trong hệ thống BCTC tại các DNNY trên TTCK Việt Nam được bình chọn giải Báo cáo thường niên năm 2016. Về phạm vi thời gian, tác giả thu thập số liệu là giai đoạn 2011-2015 từ các doanh nghiệp đạt giải năm 2016.
Việc lựa chọn DNNY được giải thưởng Báo cáo thường niên 2016 xuất phát từ lý do sau, phần lớn các doanh nghiệp trong số đó là doanh nghiệp lớn, có nhiều hoạt động kinh doanh, tiến hành hoạt động kinh doanh ở nhiều khu vực địa lý khác nhau; đây cũng là những doanh nghiệp có vị trí quan trọng trên thị trường, được đánh giá cao, nên khả năng tự nguyện công bố thông tin cao hơn các doanh nghiệp khác.
Tiêu chí bình chọn giải Báo cáo thường niên dựa trên tính chuẩn mực, minh bạch, chuyên nghiệp và sáng tạo dựa trên cách thức mà doanh nghiệp công khai thông tin, không căn cứ vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đề cao các doanh nghiệp làm tốt nội dung quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là quản trị doanh nghiệp hướng đến mục tiêu phát triển bền vững vì cộng đồng và xã hội.
Thông tin BCBP được công bố trên nhiều báo cáo khác nhau, trong nhiều thời điểm khác nhau, tuy nhiên trong Luận án này, tác giả chỉ tập trung vào việc công bố thông tin BCBP trên BCTC năm của các DNNY trên TTCK.
Tác giả cũng xem xét mức độ công bố thông tin BCBP qua đánh giá của nhà đầu tư, kiểm toán viên, người lập BCTC, nhằm giải thích kết quả của nghiên cứu định lượng, từ đó đề xuất định hướng hoàn thiện việc công bố thông tin BCBP để nâng cao tính hữu ích của thông tin này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu gồm hai bước chính: Nghiên cứu tổng thể bằng phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu kiểm định bằng phương pháp nghiên cứu định lượng, sử dụng phần mềm STATA 12 để tập hợp số liệu khảo sát và phân tích số liệu.
(1) Nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua khảo sát các kết quả nghiên cứu được thực hiện trước đó trên thế giới và ở Việt Nam, để tìm hiểu sâu hơn về cách đo lường mức độ công bố thông tin BCBP, những nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin BCBP của các DNNY. Tiếp tục nghiên cứu định tính bằng cách thảo luận và trao đổi trực tiếp với các chuyên gia chứng khoán, tài chính, kế toán, các tổ chức đầu tư và các doanh nghiệp có hoạt động đầu tư, đại diện là nhà đầu tư, kiểm toán viên và người lập BCTC. Từ kết quả nghiên cứu định tính, tác giả muốn khẳng định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố mà tác giả đã xây dựng trong mô hình, cũng như đánh giá tính hữu ích của công bố thông tin BCBP qua các đặc điểm định tính của thông tin tài chính trên BCTC.
(2) Nghiên cứu kiểm định dựa trên phương pháp định lượng, tiến hành khảo sát mức độ công bố thông tin BCBP của các DNNY trên TTCK Việt Nam, qua nội dung công bố thông tin BCBP trong BCTC ở phần thuyết minh BCTC giai đoạn 2011-2015. Luận án cũng tiến hành đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến với mức độ công bố thông tin BCBP của các DNNY để xây dựng mô hình hồi quy phản ánh mối tương quan giữa các nhân tố ảnh hưởng và mức độ công bố thông tin BCBP của các DNNY trên TTCK Việt Nam trong năm 2015 và cả giai đoạn 2011-2015.
6. Ý nghĩa của nghiên cứu
Tầm quan trọng của việc công bố thông tin BCBP với nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam cũng như đáp ứng yêu cầu của các đối tượng sử dụng thông tin nói chung đã được khẳng định. Trong Luận án này, tác giả sẽ đưa ra một số giải pháp khả thi dành cho các cơ quan ban ngành và chính các DNNY nhằm cải thiện mức độ và chất lượng thông tin công bố trên TTCK, góp phần hoàn thiện khung pháp lý về yêu cầu công bố thông tin tài chính, chất lượng thông tin kế toán, chất lượng thông tin BCBP, tăng cường tính hữu ích của thông tin này đối với đối tượng sử dụng thông tin trên TTCK.
6.1. Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu làm rõ những nội dung lý luận về công bố thông tin BCBP, tính hữu ích của công bố thông tin BCBP, nội dung công bố thông tin BCBP và các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP. Hơn nữa, một số khung lý thuyết liên quan đến vấn đề công bố thông tin BCTC và thông tin BCBP cũng được đề cập, cung như cơ sở xác định tiêu chuẩn đo lường và đánh giá mức độ công bố thông tin BCBP.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
+ Kết quả nghiên cứu cho thấy, thực trạng công bố thông tin BCPB trên BCTC của các DNNY trên TTCK Việt Nam hiện nay chưa cao. Theo tìm hiểu của tác giả, luận án này là một trong số những nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam đánh giá thực trạng công bố thông tin BCBP trên BCTC của các DNNY trên TTCK thông qua phương pháp tiếp cận cả phương pháp định tính và định lượng, đặc biệt đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin BCBP dựa trên cơ sở thị trường với việc sử dụng dữ liệu thứ cấp (số liệu được trình bày trên BCTC) và cập nhật cho cả giai đoạn 2011 – 2015, vì vậy, kết quả phân tích thực trạng công bố thông tin BCBP trên BCTC của các DNNY trên TTCK trong luận án này phản ánh đúng thực tế theo thông tin các công ty công bố trên BCTC. Bên cạnh đó, kết quả phân tích các nhân tố ảnh hưởng từ phân tích định lượng được kết hợp với kết qủa thảo luận chuyên gia thêm tính chặt chẽ, chứ không phải chỉ dựa trên kết quả định lượng như các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam.
+ Dựa trên kết quả về đánh giá thực trạng công bố thông tin BCBP chất lượng BCTC trong giai đoạn 2011- 2015, chi tiết theo từng năm, kết quả về các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin BCBP trên BCTC của các DNNY trên TTCK Việt Nam, những kết quả này là cơ sở khoa học khá hữu ích cho các đối tượng quan tâm như các nhà quản trị công ty, KTV, các nhà đầu tư, cơ quan ban hành chính sách, ủy ban chứng khoán Nhà nước, các sở giao dịch chứng khoán… tham khảo để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thông tin trên BCTC các công ty niêm yết tại Việt Nam cũng như tham khảo trong việc sử dụng thông tin trên BCTC nhằm đưa ra các quyết định có liên quan một cách hiệu quả. Hơn nữa, thông qua kết quả của nghiên cứu thực chứng và thực nghiệm, đề xuất đưa ra có cơ sở thực tiễn hơn, hỗ trợ các chủ thể tham gia trên TTCK có cách thức để tăng cường mức độ công bố thông tin BCBP trên TTCK Việt Nam, đáp ứng yêu cầu sử dụng thông tin của các đối tượng.
7. Bố cục của Luận án
Ngoài phần mở đầu và tổng quan nghiên cứu, Luận án được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về việc công bố thông tin BCBP trong hệ thống BCTC tại các doanh nghiệp cổ phần niêm yết
Chương 2: Thực trạng công bố thông tin BCBP trong hệ thống BCTC tại các doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên TTCK Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện việc công bố thông tin BCBP trong hệ thống BCTC tại các doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên TTCK Việt Nam.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC CÔNG BỐ THÔNG TIN
BÁO CÁO BỘ PHẬN TRONG HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN NIÊM YẾT
1.1. TỔNG QUAN VỀ BÁO CÁO BỘ PHẬN TRONG HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1.1. Thông tin kế toán và thông tin báo cáo tài chính
Kế toán là nghệ thuật thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về toàn bộ tài sản và sự vận động tài sản (hay toàn bộ thông tin về tài sản và các hoạt động kinh tế tài
chính) trong DN nhằm cung cấp những thông tin hữu ích cho việc ra các quyết
định kinh tế xã hội và đánh giá hiệu quả của các hoạt động trong DN. Theo Jan R Wiliams và cộng sự, thông tin kế toán (TTKT) là phương tiện mà chúng ta sử dụng để đo lường và truyền đạt thông tin về các hoạt động kinh tế. Cho dù chúng ta điều hành DN, đầu tư vốn hay tính toán số tiền lãi từ đầu tư… chúng ta đều tiếp cận
với các khái niệm kế toán và TTKT, (Jan R Wiliams, Susan F.Haka, Mark S.Bettner, Joseph V.Carcello, 2008). Hay nói cách khác, TTKT là những thông tin
có được do hệ thống kế toán cung cấp. Sản phẩm cuối cùng của TTKT là những
quyết định kinh tế hiệu quả từ việc sử dụng những TTKT đó của các nhóm đối
tượng khác nhau như cổ đông, ban giám đốc, chủ nợ, chính phủ, liên đoàn lao
động hoặc những đối tượng khác có quyền lợi đối với DN. Các nhóm đối tượng
sử dụng TTKT với các nhu cầu thông tin khác nhau đã làm nảy sinh tính đa dạng
và phức tạp đối với nhu cầu thông tin cần cung cấp. Thông tin kế toán là những thông tin được trình bày trong các BCTC của DN, giữ vai trò kết nối một công ty với rất nhiều đối tượng sử dụng thông tin khác nhau bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, nó đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc cung cấp những thông tin hữu ích, có thể giúp cho người sử dụng thông tin ra quyết định một cách hợp lý, thỏa mãn mục tiêu của họ.
Lập, lưu hành báo cáo kế toán là giai đoạn cung cấp thông tin và truyền thông tin đến người ra quyết định. Các nhà quản trị, người sở hữu và người thuộc nội bộ doanh nghiệp, người ngoài doanh nghiệp đều là những người có thể dùng thông tin kế toán. Hệ thống kế toán phải cung cấp thông tin cho các nhà quản trị doanh nghiệp cũng như những người ngoài doanh nghiệp quan tâm đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Mỗi người sử dụng sẽ yêu cầu loại thông tin khác nhau, tùy thuộc vào loại quyết định người đó cần đưa ra. Để sử dụng có kết quả các thông tin kế toán, người sử dụng phải hiểu được các số liệu kế toán và biết kết hợp các số liệu đó, biết ý nghĩa của chúng.
Thông tin kế toán là thuộc nhóm thông tin về hoạt động của doanh nghiệp, phản ánh hiệu quả của quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Thông tin kế toán cung cấp cho các đối tượng sử dụng thông tin cả trong và ngoài doanh nghiệp. Do vậy, sự phân loại cơ bản đối với thông tin kế toán bao gồm thông tin kế toán tài chính và thông tin kế toán quản trị.
Thông tin kế toán tài chính hay thông tin BCTC ngoài cung cấp các thông tin về tình hình tài chính cho ban lãnh đạo doanh nghiệp, còn cung cấp cho các đối tượng bên ngoài như nhà đầu tư, cơ quan thuế, chủ nợ,… Về đặc điểm, thông tin kế toán tài chính là loại thông tin thực tế về các hoạt động kinh tế đã diễn ra, có độ tin cậy cao (các bằng chứng tin cậy, khách quan, là chứng từ đã chứng minh được điều này), là thông tin có giá trị về mặt pháp lý (được các cơ quan chức năng sử dụng để quản lý). Về tình hình tài chính, thông tin kế toán phản ánh tình hình tài sản; tình hình nợ phải trả; tình hình vốn chủ sở hữu; doanh thu, thu nhập khác, chi phí, lãi và lỗ. Về kết quả hoạt động, thông tin kế toán cho thấy doanh nghiệp có vận hành tốt hay không, lĩnh vực nào mang lại thành công, lĩnh vực nào không mang lại thành công cho doanh nghiệp, điểm mạnh và điểm yếu về tình hình tài chính của doanh nghiệp, cần phải thay đổi gì để cải thiện tình hình của doanh nghiệp để gia tăng giá trị doanh nghiệp.
Thông tin BCTC có vai trò là thông tin về sự kiện kinh tế phát sinh từ các hoạt động của doanh nghiệp, được trình bày tốt nhất qua mô hình thông tin, trên các báo cáo tài chính. Thông tin BCTC là những thông tin giải thích quá trình lập BCTC và thông tin khác của doanh nghiệp đã được kiểm toán. Kiểm toán viên là người xem xét độc lập, chứng nhận những báo cáo này, xem chúng có được trình bày trung thực, đúng với tình hình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp hay không và có phù hợp với nguyên tắc kế toán đã được thừa nhận hay không.
Thông tin kế toán quản trị là thông tin quản lý, không phải thông tin tài chính đơn thuần. Thông tin kế toán quản trị hướng đến cung cấp thông tin cho nhà quản trị, ban lãnh đạo doanh nghiệp nhằm đưa ra các quyết định kinh doanh trong doanh nghiệp.
Đề cập đến vai trò của thông tin kế toán, có thể khẳng định thông tin kế toán được tạo ra nhằm hỗ trợ cho nhiều đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin khác nhau. Thông tin kế toán đáng tin cậy nên các đối tượng sử dụng thông tin có thể đặt niềm tin vào đó để đưa ra quyết định. Để đánh giá độ tin cậy này, người sử dụng thông tin dựa trên hai đặc trưng quan trọng của thông tin là, tính trung thực và có thể kiểm tra, tính trung thực của thông tin kế toán có quan hệ tương tác với đặc trưng “có thể kiểm tra”, tác động đến tính hữu ích của thông tin. Việc công bố thông tin kế toán về lâu dài sẽ giúp cho TTCK hoạt động minh bạch hơn, phục vụ tốt hơn cho yêu cầu của tất cả các cổ đông trong doanh nghiệp, cũng như các đối tượng sự dụng thông tin khác trên thị trường.
Đối với nhà quản trị doanh nghiệp, họ sử dụng thông tin kế toán để xác định mục tiêu kinh doanh, đưa ra quyết định, đánh giá thực hiện mục tiêu và điều chỉnh để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn. Vai trò của kế toán trong cung cấp thông tin cho các nhà quản trị là liên kết các quá trình quản lý với nhau và liên kết doanh nghiệp với môi trường bên ngoài.
Đối với chủ sở hữu, họ quan tâm đến lợi tức sinh ra từ vốn kinh doanh, vì đây là căn cứ để họ đưa ra các quyết định cần thiết bao gồm cả quyết định phân chia cổ tức. Đồng thời, qua việc xem xét thông tin trên báo cáo kế toán, họ có thể đánh giá năng lực, trách nhiệm của các bộ phận quản lý trong doanh nghiệp là tốt hay xấu.
Đối với nhà đầu tư (NĐT), thông tin kế toán là sơ sở để ra các quyết định đầu tư, mục tiêu chính của nhà đầu tư là luôn muốn đầu tư vào doanh nghiệp có tỷ lệ hoàn vốn cao nhất trong thời gian ngắn nhất. Do vậy, trước khi đầu tư, họ cần thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp, qua đó nghiên cứu, phân tích, đánh giá rồi đi đến quyết định; lúc này, thông tin kế toán được xem như là một loại thông tin cơ bản cung cấp cho NĐT trên TTCK. Thông qua phân tích thông tin kế toán, NĐT sẽ tìm hiểu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như thế nào, rủi ro tài trợ của doanh nghiệp ra sao, thu nhập mong muốn là bao nhiêu, vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp, để ra các quyết định cuối cùng là có đầu tư hay không đầu tư vào doanh nghiệp.
Đối với các đối tượng cho vay và chủ nợ, các ngân hàng, tổ chức tài chính cũng như nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ, trước khi cho vay hoặc cung cấp đều có nhu cầu thông tin về khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Nghĩa là, doanh nghiệp có đủ khả năng chi trả hay không, thông tin có được để trả lời các câu hỏi của đối tượng này dựa vào thông tin kế toán do doanh nghiệp cung cấp.
Đối với cơ quan thuế, các cơ quan thuế địa phương và trung ương dựa vào tài liệu kế toán để tính thuế, đặc biệt là thuế thu nhập. Các cơ quan thuế thường lấy số liệu lợi tức được thể hiện trên báo cáo kế toán trừ đi các khoản miễn giảm thuế theo luật định để xác định lợi tức chịu thuế.
Đối với cơ quan nhà nước, số liệu kế toán của doanh nghiệp là cơ sở để tổng hợp cho ngành, địa phương; trên cơ sở đó phân tích, đánh giá nhằm định ra các chính sách kinh tế thích hợp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và điều hành kinh tế vĩ mô.
1.1.2. Hệ thống báo cáo tài chính
1.1.2.1. Khái niệm báo cáo tài chính
Khái niệm BCTC được nhìn nhận theo hai quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, BCTC là sản phẩm của kế toán tài chính, là đầu ra của hệ thống thông tin kế toán, phản ánh theo một cấu trúc chặt chẽ tình hình tài chính, kết quả tài chính của doanh nghiệp. BCTC cung cấp các thông tin về tình hình tài chính, kết quả hoạt động và các luồng tiền của doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu của số đông những người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế, nó cũng cho thấy kết quả quản lý của ban giám đốc đối với các nguồn lực được giao phó cho họ (IASB, 2012). Để đáp ứng mục tiêu này, BCTC trình bày thông tin về: tài sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu, thu nhập và chi phí, bao gồm cả lãi và lỗ, khoản góp vốn của chủ sở hữu và phân phối cho chủ sở hữu, các dòng tiền. Thông thường, một hệ thống BCTC bao gồm: báo cáo tình hình tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh; báo cáo vốn chủ sở hữu; báo cáo lưu chuyển tiền và thuyết minh BCTC. Theo chuẩn mực kế toán VAS 21-Trình bày báo cáo tài chính và quy định công bố thông tin trên TTCK Việt Nam trong thông tư 155/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính, BCTC của DNNY bao gồm: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Bản thuyết minh báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật về kế toán. Trường hợp DNNY là doanh nghiệp mẹ của một tổ chức khác thì BCTC bao gồm BCTC của doanh nghiệp mẹ và BCTC hợp nhất. Khi đề cập đến lợi ích của nhiều đối tượng sử dụng thông tin thì BCTC là nguồn cung cấp thông tin tài chính hữu ích cho việc ra quyết định kinh tế v.v… Vì vậy, khó có thể đưa ra một định nghĩa duy nhất về BCTC. Vì vậy, định nghĩa về BCTC cũng không phải là duy nhất và bất biến.
Quan điểm thứ hai cho rằng, mặc dù thông tin BCTC truyền thống trình bày trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán, nhưng chỉ mang tính chất quá khứ nên không đáp ứng nhu cầu thông tin cần thiết hiện nay của người sử dụng. Ngày nay, những thay đổi trong môi trường kinh doanh quốc tế theo xu hướng hội nhập, yêu cầu cần xem xét lại về bản chất cũng như nội dung của các BCTC của doanh nghiệp. Thông tin BCTC không chỉ gắn liền thông tin tài chính, mà nó còn bao gồm những thông tin phi tài chính (Ali shah.S.Z, 2009). Theo Ferdy Van Beest (2013) các nhà nghiên cứu trước đây khi đo lường chất lượng thông tin thường sử dụng định lượng và tập trung vào những khía cạnh cụ thể của thông tin BCTC như: chất lượng lợi nhuận, mô hình giá trị phù hợp…thông tin BCTC được hiểu theo nghĩa rộng hơn, khái niệm đa chiều hơn. Các chiều khác nhau của thông tin BCTC được đánh giá hướng đến sự hữu ích của thông tin, do đó nó phải dựa trên cơ sở thông tin tài chính và phi tài chính cũng như các công bố bắt buộc và tự nguyện như trong BCTC thường niên của doanh nghiệp. Thông tin BCTC đảm bảo chức năng thiết yếu cho thị trường vốn hiệu quả, vì vậy doanh nghiệp ngoài việc công bố BCTC truyền thống theo quy định luật pháp cần phải bổ sung những báo cáo mang tính chất tự nguyện về những phân tích đánh giá, các dự báo của nhà quản lý.
1.1.2.2. Mục đích và tác dụng của báo cáo tài chính
BCTC là sản phẩm của kế toán tài chính, một mặt nó phản ánh khách quan các giao dịch và sự kiện kinh tế đã xảy ra nhưng đồng thời cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của môi trường kinh tế, chính trị, xã hội và luật pháp. Chính vì vậy, ở những thời đại khác nhau, trong những môi trường cụ thể khác nhau, kế toán cũng được sử dụng cho những mục đích khác nhau và BCTC cũng có những mục đích khác nhau. Lịch sử kế toán thế giới đã chứng minh rằng, kế toán được sử dụng cho những mục đích khác nhau không phải do người cung cấp thông tin quyết định mà chính là người sử dụng thông tin quyết định. Do vậy, mục tiêu và nội dung thông tin trình bày trên báo cáo tài chính chịu sự chi phối của những người sử dụng thông tin. Như đã trình bày ở trên, đối tượng của thông tin BCTC không chỉ nhà quản lý doanh nghiệp, cơ quan quản lý chức năng của Nhà nước mà bao gồm cả bên thứ ba như: nhà đầu tư, người cho vay, khách hàng,…, vì vậy thông tin BCTC cung cấp phải giải quyết hài hòa được lợi ích của các đối tượng sử dụng thông tin này, không nên chỉ chú trọng một đối tượng cụ thể nào, bởi khi chú trọng đối tượng sử dụng thông tin này thì sẽ làm ảnh hưởng đến lợi ích của đối tượng sử dụng thông tin khác.
Theo chuẩn mực kế toán quốc tế trong IAS01- Trình bày BCTC thì:
BCTC phản ánh theo một cấu trúc chặt chẽ về tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Mục đích của BCTC là cung cấp những thông tin về tình hình tài chính, tình hình kinh doanh, các luồng tiền của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu hữu ích cho số đông người sử dụng trong việc ra các quyết định kinh tế.
Như vậy, chuẩn mực kế toán quốc tế cũng cho rằng, mục đích của BCTC là cung cấp thông tin hữu ích cho số đông người sử dụng thông tin, đáp ứng nhu cầu chung của đa số người sử dụng, không cung cấp thông tin cho riêng đối tượng nào và cũng không cung cấp toàn bộ thông tin mà người sử dụng yêu cầu để phục vụ cho việc ra các quyết định về quản lý kinh tế vì BCTC chủ yếu cung cấp những thông tin về nghiệp vụ và sự kiện kinh tế đã xảy ra, đã hoàn thành trong quá khứ.
Trong nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay, việc giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa các đối tượng sử dụng thông tin kế toán còn nhiều lúng túng, cần hoàn thiện hơn nữa những quy định của Nhà nước về thuế và kế toán, đảm bảo thông tin trình bày trên BCTC hữu ích cho các đối tượng sử dụng thông tin.
Từ việc phân tích mục đích của BCTC và các đối tượng sử dụng thông tin BCTC cho thấy, trong nền kinh tế thị trường, BCTC có tác dụng rất lớn với công tác quản lý kinh tế tại doanh nghiệp cũng như cung cấp thông tin hữu ích cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp.
Đối với các nhà quản lý doanh nghiệp, BCTC cung cấp thông tin nhằm đánh giá tổng quát tình hình tài chính, tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh, tình hình lưu chuyển tiền của doanh nghiệp, trên cơ sở đó đề ra những chính sách về đầu tư, sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn hiệu quả.
Đối với các đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài doanh nghiệp, BCTC là cầu nối kinh tế giữa họ với doanh nghiệp. BCTC cung cấp thông tin về tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh, tình hình lưu chuyển tiền giúp họ phân tích, đánh giá và ra được các quyết định kinh tế phù hợp mục tiêu mà họ đang theo đuổi với doanh nghiệp như quyết định đầu tư của nhà đầu tư, quyết định cho vay của các bên cho vay, quyết định cung cấp hàng của nhà cung cấp,…
Đối với các cơ quan quản lý chức năng của Nhà nước, BCTC cung cấp thông tin nhằm giúp họ có thể đánh giá được việc doanh nghiệp thực hiện các chính sách, chế độ về quản lý kinh tế tài chính như thế nào, từ đó giúp họ đề ra được các chính sách, biện pháp quản lý kinh tế tốt hơn, giúp họ tổng hợp các thông tin phục vụ cho việc xác định chỉ tiêu thống kê trong toàn bộ nền kinh tế.
1.1.3. Bộ phận và báo cáo bộ phận
1.1.3.1. Bộ phận và phân loại bộ phận trong doanh nghiệp
Bộ phận là một phần, một mặt hoạt động, một đơn vị hay một phòng ban thuộc cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, của đơn vị cùng hoạt động vì mục tiêu của tổ chức.
Việc chia tách bộ phận sẽ chia doanh nghiệp ra làm nhiều phần nhỏ hoặc nhiều bộ phận và thực hiện BCTC cho mỗi bộ phận. Một doanh nghiệp có thể chia bộ phận bằng nhiều cách khác nhau, có thể chia theo cấu trúc hoạt động hoặc chia theo phương pháp tiếp cận theo phương thức quản lý. Căn cứ theo phương thức quản lý để phân chia thành bộ phận chính yếu và bộ phận thứ yếu hoặc ngược lại với cách chia theo cấu trúc hoạt động, doanh nghiệp có thể chia tách dựa trên lĩnh vực kinh doanh, ngành nghề (thường được gọi là Bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh – LoB) hoặc chia theo khu vực địa lý (có thể chia theo địa điểm hoạt động hoặc vị trí của khách hàng).
Ngoài ra, căn cứ vào quyết định quản trị của nhà quản trị doanh nghiệp để chia các bộ phận không nhất thiết chỉ là bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh hay khu vực địa lý; hay phân chia bộ phận thành bộ phận chính yếu và bộ phận thứ yếu. Trên quan điểm của nhà quản trị, bộ phận cần báo cáo là các hoạt động kinh tế có thể tạo ra doanh thu hoặc phát sinh chi phí, có các thông tin tài chính riêng biệt cho chúng và kết quả hoạt động của chúng thường xuyên được các nhà quản lí xem xét để ra quyết định điều hành hoạt động.
Không chỉ có nhiều phương pháp phân chia bộ phận mà số lượng các bộ phận trong doanh nghiệp được báo cáo cũng khác nhau, số lượng và nội dung thông tin kế toán từng bộ phận công bố cũng khác nhau.
* Bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh
Là một bộ phận có thể phân biệt được của một doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất hoặc cung cấp sản phẩm, dịch vụ riêng lẻ, một nhóm các sản phẩm hoặc các dịch vụ có liên quan mà bộ phận này có rủi ro và lợi ích kinh tế khác với các bộ phận kinh doanh khác. Các nhân tố cần xem xét để xác định sản phẩm và dịch vụ có liên quan hay không gồm:
– Tính chất của hàng hóa và dịch vụ;
– Tính chất của quy trình sản xuất;
– Kiểu hoặc nhóm khách hàng sử dụng các sản phẩm hoặc dịch vụ;
– Phương pháp được sử dụng để phân phối sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ;
– Điều kiện của môi trường pháp lý như: hoạt động ngân hàng, bảo hiểm hoặc dịch vụ công cộng.
Xác định các bộ phận theo lĩnh vực kinh doanh cần dựa trên định nghĩa về “hoạt động kinh doanh” – Là các hoạt động tạo ra doanh thu chủ yếu của doanh nghiệp và các hoạt động khác không phải là hoạt động đầu tư hoặc hoạt động tài chính.
* Bộ phận theo khu vực địa lý
Là một bộ phận có thể phân biệt được của một doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất hoặc cung cấp sản phẩm, dịch vụ trong phạm vi một môi trường kinh tế cụ thể mà bộ phận này có rủi ro và lợi ích kinh tế khác với các bộ phận kinh doanh trong các môi trường kinh tế khác. Các nhân tố cần xem xét để xác định bộ phận theo khu vực địa lý gồm:
– Tính tương đồng của các điều kiện kinh tế và chính trị;
– Mối quan hệ của những hoạt động trong các khu vực địa lý khác nhau;
– Tính tương đồng của hoạt động kinh doanh;
– Rủi ro đặc biệt có liên quan đến hoạt động trong một khu vực địa lý cụ thể;
– Các quy định về kiểm soát ngoại hối;
– Các rủi ro về tiền tệ.
Cơ sở xác định các bộ phận theo khu vực địa lý dựa trên:
– Vị trí của tài sản là địa điểm sản xuất hoặc hình thành dịch vụ của doanh nghiệp; hoặc
– Vị trí của khách hàng là địa điểm của thị trường và khách hàng của doanh nghiệp.
* Bộ phận hoạt động
Bộ phận hoạt động không chỉ bó hẹp ở việc xác định theo các tiêu chí về khu vực hay lĩnh vực kinh doanh, mà được mở rộng ra là một thành phần của thực thể kinh tế, (IFRS 8):
– Liên quan đến hoạt động kinh doanh mà từ đó tạo ra doanh thu và chi phí gánh chịu (bao gồm cả doanh thu và chi phí liên quan đến các giao dịch với các bộ phận khác trong cùng một doanh nghiệp).
– Kết quả hoạt động thường xuyên được xem xét bởi người quản lý việc ra quyết định (được xem là một chức năng hơn là một chức vụ của cá nhân riêng lẻ) để ra quyết định về nguồn lực phân bổ tới các bộ phận và đo lường đánh giá thành quả thực hiện của bộ phận.
– Thông tin tài chính riêng của bộ phận luôn có sẵn.
Trên cơ sở phân loại bộ phận này, ngoại lệ cho bộ phận hoạt động liên quan đến hoạt động kinh doanh, kể cả khi nó chưa tạo được doanh thu, ví dụ như hoạt động khởi nghiệp, khởi động “start-up” có thể là bộ phận hoạt động trước khi tạo ra doanh thu. Và ngược lại không phải bộ phận nào tạo ra doanh thu/ hoặc tạo ra chi phí cũng được xem là bộ phận hoạt động, chẳng hạn như một đơn vị nghiên cứu và phát triển làm phát sinh chi phí nhưng không tạo ra doanh thu thì nó không phải là bộ phận hoạt động. Tương tự như vậy, trụ sở công ty có thể không tạo ra doanh thu hoặc có thể tạo ra doanh thu mà chỉ là phần phụ đối với hoạt động của doanh nghiệp và do đó sẽ không được coi là một bộ phận hoạt động. Căn cứ chia các bộ phận thành bộ phận hoạt động hướng tới việc quản trị công ty nhiều hơn phù hợp với việc ra quyết định phân bổ nguồn lực và đánh giá của nhà quản trị. Nói một cách khác, góc nhìn của việc chia thành bộ phận hoạt động là góc nhìn từ phía nhà quản lý doanh nghiệp, còn căn cứ phân loại theo lĩnh vực kinh doanh và khu vực địa lý được xem xét ở góc độ chưa được linh hoạt cho nhà quản trị khi phân loại bộ phận.
1.1.3.2. Sự hình thành báo cáo bộ phận
Đối tượng sử dụng thông tin BCTC thường quan tâm nhiều tới kết quả chi tiết theo mục đích sử dụng thông tin của họ hơn là thông tin về tổng thể doanh nghiệp, ví dụ, chế độ bảo hiểm đối với người lao động, mức lương và điều kiện làm việc sẽ phụ thuộc vào một vài bộ phận cụ thể nơi họ làm việc được quan tâm nhiều hơn so với hoạt động của toàn doanh nghiệp. Tương tự như vậy, chính quyền sở tại sẽ chú ý đến hoạt động của doanh nghiệp trong nước, khách hàng, nhà cung cấp và người cho vay sẽ chú ý đến chi nhánh mà các đối tượng này hợp tác. Tất cả các đối tượng sử dụng BCTC kể trên đều mong muốn có được cả thông tin tài chính tổng quát và thông tin chi tiết theo mục đích sử dụng. Đối tượng sử dụng thông tin có thể sẽ cần toàn bộ thông tin về doanh nghiệp, tuy nhiên, họ cũng cần một số thông tin ở mức độ chi tiết như, thông tin ở từng nhà máy sản xuất. Các cổ đông, nhà đầu tư quan tâm đến kết quả của doanh nghiệp, vì thế họ chú ý không chỉ hoạt động, tiềm năng sinh lời của doanh nghiệp một cách tổng thể, mà còn quan tâm đến hoạt động của từng bộ phận cụ thể, bởi một doanh nghiệp được cấu thành từ nhiều bộ phận, và để hiểu đầy đủ về hoạt động và tiềm năng kinh tế của doanh nghiệp đó, cần phải xem xét hoạt động và tiềm năng của từng bộ phận, điều này đặc biệt quan trọng nếu doanh nghiệp đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh và hoạt động trên nhiều lĩnh vực, khu vực địa lý.
Như vậy, ngoài thông tin tổng quan thì doanh nghiệp cũng cần phải công bố các thông tin bổ sung chi tiết, cụ thể theo mục đích của người sử dụng thông tin để giải thích cho các thông tin tổng quan trên BCTC.
Sự phát triển của các tập đoàn kinh tế đi kèm với đa dang hóa trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh đa quốc gia làm cho mức độ phức tạp của hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp ngày càng tăng, tác động mạnh đến sự thay đổi của thông tin tài chính cung cấp cho chuyên gia phân tích, nhà đầu tư và nhiều người sử dụng BCTC khác. Các BCTC tổng hợp, do kết hợp nhiều hoạt động mang cả rủi ro và lợi ích kinh tế nên người đọc báo cáo không thể thấy được tình trạng của từng hoạt động nếu không trình bày thông tin dưới hình thức riêng rẽ theo từng bộ phận khác nhau. Trong nửa cuối của thế kỷ 20, do việc phân tích thông tin của nhà đầu tư gặp nhiều khó khăn hơn nên một số nhóm đối tượng sử dụng thông tin BCTC bao gồm, chuyên gia phân tích tài chính, nhà điều chỉnh thị trường đã yêu cầu trình bày thêm phần thuyết minh thông tin liên quan đến kết quả và rủi ro liên quan từng bộ phận trong đơn vị, đó là thông tin BCBP, đặc biệt là yêu cầu phát triển các chuẩn mực kế toán để đáp ứng nhu cầu này.
Quy định về trình bày BCBP lần đầu tiên được ban hành tại Mỹ, vào năm 1969, trong bối cảnh Uỷ ban Chứng khoán Hoa Kỳ yêu cầu phải trình bày các thông tin hoạt động kinh doanh trên các giấy tờ đăng ký niêm yết của doanh nghiệp. Một năm sau Uỷ ban này mở rộng việc trình bày các thông tin này ra cả biểu mẫu báo cáo, Form 10-K, dành cho các DNNY trên sàn chứng khoán. Đến năm 1974 tất cả các doanh nghiệp nộp báo cáo cho SEC đều phải trình bày những thông tin này trên báo cáo thường niên của doanh nghiệp đó.
Chuẩn mực kế toán Mỹ SFAS 14 “Báo cáo tài chính cho bộ phận kinh doanh” được Uỷ ban chuẩn mực kế toán Mỹ ban hành lần đầu năm 1976 đã mở rộng các yêu cầu công bố các thông tin bộ phận. Sau đó, các cơ quan ban hành chuẩn mực của Canada và Mỹ cùng với Uỷ ban Chuẩn mực kế toán Quốc tế (IASC) hợp tác thực hiện một dự án để soát xét lại các chuẩn mực về BCBP và kết quả là, các chuẩn mực mới được ban hành, bao gồm: Chuẩn mực kế toán Canada mục 1700, Chuẩn mực kế toán Mỹ số 131 (FASB, 1997). SFAS 131 đánh dấu sự thay đổi đáng kể so với chuẩn mực trước đó, đặc biệt là thay đổi cách tiếp cận trong việc xác định bộ phận cần công bố.
Chậm hơn so với sự ra đời của Chuẩn mực kế toán Hoa Kỳ, năm 1981 Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) mới ban hành Chuẩn mực kế toán quốc tế về BCBP- IAS 14. Chuẩn mực này có nội dung gần với Chuẩn mực kế toán của Hoa kỳ SFAS 14, do đó các vấn đề tồn tại với SFAS 14 cũng là vấn đề tồn tại với IAS 14. Sau đó, vào các năm 1997 và 2003, IAS 14 được sửa đổi, làm thay đổi phương thức xác định bộ phận công bố và các yêu yêu cầu công bố mặc dù những quy định cần sửa đổi của IAS 14 vẫn chưa được hoàn thiện như SFAS 131.
Năm 2006, chuẩn mực kế toán mới IFRS 8 được chính thức ban hành, có nội dung gần với SFAS 131, đây là kết quả của dự án hội tụ các chuẩn mực kế toán quốc tế với sự hợp tác của Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IASB) và Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán Mỹ (FASB).
1.1.3.3. Báo cáo bộ phận
Những nguyên tắc kế toán được thừa nhận chung (GAAP) đã định nghĩa “Báo cáo bộ phận là báo cáo của các bộ phận hoạt động của một công ty trong công bố kèm theo báo cáo tài chính của nó”. BCBP cung cấp thông tin cho nhà đầu tư và chủ nợ có liên quan về kết quả tài chính của các bộ phận hoạt động, giúp họ có căn cứ cho việc ra quyết định đầu tư hoặc cho vay. Đồng thời, việc xác định các thông tin cần báo cáo giúp người ra quyết định hoạt động sử dụng những thông tin này để đánh giá kết quả hoạt động và phân bổ nguồn lực.
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam VAS 28, “Báo cáo bộ phận là báo cáo thể hiện sự chia nhỏ hoạt động của doanh nghiệp thành những thành phần hay bộ phận và trình bày các thông tin tài chính của các bộ phận đó”.
Người sử dụng BCTC cho rằng, họ cần thông tin BCTC hợp nhất, hỗ trợ cho việc ra quyết định, tuy nhiên BCTC hợp nhất vẫn chưa cung cấp được mọi thông tin họ cần, và báo cáo thường niên của doanh nghiệp thường nhiều thông tin hơn BCTC hợp nhất. Ví dụ, thông tin được phân tích và trình bày theo ngành lĩnh vực kinh doanh và khu vực địa lý, hoặc theo bất cứ cơ sở nào mà doanh nghiệp cho là hữu ích với đối tượng sử dụng thông tin. Thông thường các thông tin bộ phận này sẽ được trình bày trong phần thuyết minh BCTC và được biết đến với tên gọi là “Báo cáo bộ phận”.
Dựa vào cấu trúc hoạt động của doanh nghiệp để chia thành BCBP theo khu vực địa lý và BCBP theo lĩnh vực kinh doanh. Trong đó;

LA09.064_Hoàn thiện việc công bố thông tin báo cáo bộ phận trong hệ thống báo cáo tài chính tại các doanh nghiệp cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

4.6 / 5 ( 5 votes )
Tags: báo cáo tài chínhchứng khoándoanh nghiệp cổ phần niêm yết
Previous Post

Vận dụng Thẻ điểm cân bằng để đánh giá hiệu quả hoạt động trong các doanh nghiệp May Việt Nam

Next Post

Kế toán quản trị chi phí môi trường trong các doanh nghiệp sản xuất thép tại Việt Nam

admin

admin

✍✍✍ Với kinh nghiệm hơn 10 năm, Luận Văn A-Z nhận hỗ trợ viết thuê luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ một cách UY TÍN và CHUYÊN NGHIỆP. ✍✍✍ Liên hệ: 092.4477.999 - Mail : luanvanaz@gmail.com

Related Posts

thị trường mua bán nợ xấu
Kinh Tế

Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng

by admin
February 24, 2020
Luận án tiến sĩ Kinh tế phát triển
Kinh tế phát triển

Phát triển kinh doanh dịch vụ viễn thông ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế Nghiên cứu trường hợp Công ty Cổ phần viễn thông Hà Nội

by admin
February 21, 2020
Luận án tiến sĩ tài chính ngân hàng
Tài Chính Ngân Hàng

Quản lý tài chính các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Tài chính

by admin
February 21, 2020
Luận án tiến sĩ tài chính ngân hàng
Tài Chính Ngân Hàng

Tái cấu trúc tài chính các doanh nghiệp vận tải biển niêm yết ở Việt Nam

by admin
February 9, 2020
Luận án tiến sĩ Kinh tế phát triển
Kinh tế phát triển

Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tỉnh Phú Thọ

by admin
February 9, 2020
Next Post
Luận án tiến sĩ kế toán

Kế toán quản trị chi phí môi trường trong các doanh nghiệp sản xuất thép tại Việt Nam

Leave a Reply Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Recommended

Luận án tiến sĩ quản lý kinh tế

Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

October 26, 2019
Luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh

Giải pháp hoàn thiện hoạt động chuỗi cung ứng tại công ty TNHH Mitsuba M-tech Việt Nam

March 26, 2018
Luận văn thạc sĩ kinh tế

Hoạch định chiến lược kinh doanh ngân hàng từ nay đến năm 2015

September 20, 2016
Luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh

Hoàn thiện công tác đào tạo và phát triển đội ngũ giảng viên của trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh

February 6, 2017

Don't miss it

thị trường mua bán nợ xấu
Kinh Tế

Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng

February 24, 2020
Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tài chính - Ngân hàng

Các lý thuyết về rủi ro và lợi nhuận

February 23, 2020
Luận án tiến sĩ Kinh tế phát triển
Kinh tế phát triển

Phát triển kinh doanh dịch vụ viễn thông ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế Nghiên cứu trường hợp Công ty Cổ phần viễn thông Hà Nội

February 21, 2020
Luận án tiến sĩ tài chính ngân hàng
Tài Chính Ngân Hàng

Quản lý tài chính các trường đại học công lập trực thuộc Bộ Tài chính

February 21, 2020
Luận án tiến sĩ tài chính ngân hàng
Tài Chính Ngân Hàng

Tái cấu trúc tài chính các doanh nghiệp vận tải biển niêm yết ở Việt Nam

February 9, 2020
Luận án tiến sĩ Kinh tế phát triển
Kinh tế phát triển

Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tỉnh Phú Thọ

February 9, 2020
Luận án tiến sĩ quản lý kinh tế
Quản lý kinh tế

Các yếu tố tác động đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

February 9, 2020
Luận án tiến sĩ quản lý kinh tế
Quản lý kinh tế

Tăng cường tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

February 9, 2020
Luận án tiến sĩ quản trị nhân lực
Quản trị kinh doanh

Nâng cao năng lực quản lý chuỗi cung ứng trong công tác khám, chữa bệnh tại các Bệnh viện Quân y trên địa bàn Hà Nội (108, 105, 354)

February 9, 2020
Luận án tiến sĩ tài chính ngân hàng
Tài Chính Ngân Hàng

Thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế biển đảo phía Nam Việt Nam

February 9, 2020
Download Luận Văn

iLuận văn chia sẻ luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ hoàn toàn miễn phí. Nhận hỗ trợ viết luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. LH: 092.4477.999


Xem thêm

No Result
View All Result

Recent News

thị trường mua bán nợ xấu

Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng

February 24, 2020
Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài

Các lý thuyết về rủi ro và lợi nhuận

February 23, 2020

© 2021 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.

No Result
View All Result
  • Landing Page
  • Buy JNews
  • Support Forum
  • Pre-sale Question
  • Contact Us

© 2021 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.