LA17.055_Giáo dục môi trường dựa vào trải nghiệm trong dạy học môn Khoa học ở tiểu học
Hội nghị quốc tế về MT lần I tại Thụy Điển (năm 1972) đã cảnh báo thế giới về một hiện trạng nghiêm trọng, khó xử. Một mặt, cần tăng tối đa nhịp độ phát triển kinh tế để đáp ứng những nhu cầu cơ bản của loài ngƣời đang ngày càng đông lên. Mặt khác, chạy đua vũ trang của các nƣớc giàu và đẩy nhanh “công nghiệp hóa, hiện đại hoá” ở các nƣớc nghèo để phát triển đã gây ra những tác
động xấu chƣa từng có đối với MT, đặc biệt đối với hệ sinh thái – hệ nuôi dƣỡng sự sống trên Trái Đất. Năm 1980 trở lại đây, nhân loại đã chứng kiến sự bùng phát các thảm họa MT: hạn hán, bão lụt, ô nhiễm không khí và mƣa axit, các sự cố hạt nhân và rò rỉ hóa chất độc hại, sự suy thoái thảm hại quỹ đất trồng trọt, lan tràn hóa chất bảo vệ thực vật và ô nhiễm các nguồn nƣớc, thủng tầng ôzôn, hiện tƣợng ấm lên toàn cầu do hiệu ứng nhà kính, đan xen với các cuộc chiến tranh sắc tộc và tranh giành không gian sử dụng MT,… Kết quả là môi trƣờng sống của chúng ta đang lâm vào tình trạng khủng hoảng với quy mô toàn cầu.
Trƣớc thực trạng đó, trên thế giới, nhiều cuộc hội thảo đã đƣợc tổ chức, nhiều đạo luật, quyết định đƣợc ban hành nhằm cứu vãn, ngăn chặn nguy cơ suy thoái, khủng hoảng MT. Các nƣớc đã thực hiện hàng loạt các biện pháp, trong đó GDMT đƣợc coi là biện pháp có hiệu quả nhất. GDMT có thể đƣợc thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau. Trong đó, GDMT cho HS ở các trƣờng phổ thông chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, vì trƣờng phổ thông là nơi đào tạo thế hệ trẻ, những ngƣời chủ tƣơng lai của đất nƣớc [24]. Thực tiễn hoạt động MT ở các nƣớc đã chỉ ra rằng: “Sẽ không có đạo luật hoặc một mức thuế nào có thể bắt buộc đƣợc các công dân phải tôn trọng MT, vì sự tôn trọng tự nguyện chỉ có thể đƣợc truyền thụ qua giáo dục” [53].
Ở Việt Nam, GDMT vì mục tiêu phát triển bền vững là một trong những nhiệm vụ giáo dục quan trọng đƣợc Đảng và Nhà nƣớc đặc biệt quan tâm. Luật BVMT ra đời từ năm 1993, đƣợc Quốc hội sửa đổi, bổ sung ngày 29/11/2005 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2006 đã coi GDMT là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Điều 5 của Luật nêu rõ: Nhà nƣớc “Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cộng đồng dân cƣ, hộ gia đình, cá nhân tham gia hoạt động BVMT; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, vận động, kết hợp áp dụng các biện pháp hành chính, kinh tế và các biện pháp khác để xây dựng ý thức tự giác, kỷ cƣơng trong hoạt động BVMT” [51]. Bộ GD&ĐT cũng đã ban hành Chỉ thị số 02/2005/CT-BGDĐT ngày 31/1/2005 của Bộ trƣởng Bộ GD&ĐT về việc tăng cƣờng công tác giáo dục BVMT. Nội dung Chỉ thị có nêu: “Đối với giáo dục phổ thông: Trang bị cho HS kiến thức, kỹ năng về MT và BVMT bằng những hình thức phù hợp trong các môn học”. Chỉ thị 29-CT/TW ngày 21/1/2009 của Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng cũng là về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về “BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc”. Các văn bản này là cơ sở, điều kiện pháp lý quan trọng cho việc tổ chức triển khai các hoạt động GDMT trong các trƣờng phổ thông.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, GDMT cho HS là điều hết sức quan trọng, đặc biệt là ở cấp tiểu học. Vì cấp tiểu học là cấp học nền móng, là cơ sở, là cấp học phổ cập của hệ thống giáo dục quốc dân, hàng triệu trẻ em của cấp học này một khi đƣợc giáo dục, đƣợc trang bị đầy đủ hành trang, kiến thức, nhận thức về MT sẽ là một lực lƣợng hùng hậu trong mọi hành động tuyên truyền, cải thiện, BVMT và tài nguyên thiên nhiên của đất nƣớc. Hơn nữa, lứa tuổi tiểu học là lứa tuổi đang phát triển và định hình dần về nhân cách, vì vậy, việc hình thành những hiểu biết, những vốn kiến thức cần thiết về BVMT sẽ dễ dàng để lại dấu ấn sâu sắc, khó phai trong cuộc sống sau này của trẻ. Trẻ ở độ tuổi này thƣờng hiếu động, nếu không đƣợc giáo dục sẽ rất dễ dẫn tới những hành động phá hoại MT một cách vô ý thức hoặc có ý thức.
Ở tiểu học, GDMT không đƣợc dạy nhƣ một môn học riêng mà nội dung GDMT đã đƣợc lồng ghép, tích hợp vào nội dung các môn học. Tự nhiên và Xã hội, Khoa học là các môn học có nội dung GDMT đã đƣợc lồng ghép, tích hợp nhiều nhất. Trong đó, Khoa học là môn học bƣớc đầu giúp các em có đƣợc những khái niệm cơ bản, ban đầu về MT, MT tự nhiên, MT nhân tạo, ô nhiễm MT, BVMT, những tác động của con ngƣời đối với MT; hình thành ở các em những kỹ năng ứng xử, thái độ tôn trọng và BVMT một cách thiết thực, rèn luyện năng lực nhận biết các vấn đề MT. Học tập môn Khoa học, các em có điều kiện tham gia vào một số hoạt động BVMT phù hợp với lứa tuổi, biết thuyết phục, tuyên truyền cho ngƣời thân và bạn bè để họ cùng có ý thức, hành vi BVMT. Vì vậy, có thể nói, môn Khoa học có ý nghĩa rất to lớn trong việc GDMT cho HS tiểu học.
Trong dạy học ở tiểu học, học tập dựa vào trải nghiệm tạo cơ hội để HS đƣợc tiếp xúc trực tiếp với MT xung quanh, đƣợc trải nghiệm thực tế bằng các giác quan khác nhau, giúp phát huy cao độ vai trò chủ thể tích cực, độc lập, chủ động, sáng tạo của HS, rèn luyện các nét tính cách tích cực cho bản thân HS. GV là ngƣời đóng vai trò thiết kế, tổ chức, hƣớng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm để HS trải nghiệm và tự lực chiếm lĩnh nội dung tri thức, chủ động đạt các mục tiêu về kiến thức, kỹ năng, thái độ theo chƣơng trình. Học tập dựa vào trải nghiệm, các hoạt động tập trung vào ngƣời học và kinh nghiệm thực tế của ngƣời học, mang lại cho ngƣời học cơ hội bộc lộ các điểm mạnh, các kỹ năng của mình. Nói cách khác, học tập dựa vào trải nghiệm nhấn mạnh vào kinh nghiệm chủ quan của ngƣời học, nó yêu cầu việc trải nghiệm thực tế và phản ánh kinh nghiệm của ngƣời học. Đối với GDMT, đây là một định hƣớng giáo dục quan trọng – giáo dục trong môi trƣờng.
Trên thế giới, học tập dựa vào trải nghiệm đƣợc các nhà giáo dục nghiên cứu từ cuối thế kỉ XIX – nửa đầu thế kỉ XX. Các công trình nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu vai trò và bản chất về học tập dựa vào trải nghiệm và áp dụng học tập dựa vào trải nghiệm để giảng dạy các khóa học cho sinh viên các trƣờng đại học.Các công trình này đã khẳng định và nhấn mạnh vai trò của học tập dựa vào trải nghiệm. Qua đó, có thể nhận thấy học tập dựa vào trải nghiệm có nhiều ƣu điểm và đƣợc nhiều tác giả trên thế giới nghiên cứu. Tuy nhiên, ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về học tập dựa vào trải nghiệm nói chung, học tập dựa vào trải nghiệm trong dạy học các môn học và học tập dựa vào trải nghiệm nhằm GDMT nói riêng còn rất hạn chế. Học tập dựa vào trải nghiệm lần đầu tiên đƣợc đề cập
ở Việt Nam trong chƣơng trình Dự án Giáo dục MT tại Hà Nội năm 2006. Trong đó trình bày khái niệm về học tập dựa vào trải nghiệm, giới thiệu một số trò chơi “Học mà chơi – Chơi mà học” đƣợc xây dựng dựa trên mô hình học tập dựa vào trải nghiệm. Hiện nay, nghiên cứu học tập dựa vào trải nghiệm và áp dụng học tập dựa vào trải nghiệm trong dạy học ở các trƣờng tiểu học Việt Nam vẫn là một vấn đề khá mới mẻ. Chƣa có công trình nào nghiên cứu việc GDMT dựa vào trải nghiệm trong dạy học môn Khoa học ở tiểu học.
Từ việc nghiên cứu các vấn đề trên, chúng tôi chọn đề tài luận án có nội dung về GDMT dựa vào trải nghiệm trong dạy học môn học ở tiểu học. Đề tài luận án đƣợc biểu đạt bởi tiêu đề: Giáo dục môi trường dựa vào trải nghiệm trong dạy học môn Khoa học ở tiểu học.