LA02.269_FDI và ô nhiễm môi trường: Vai trò của chính sách công ở các quốc gia đang phát triển
Nội dung ngắn gọn những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận, những luận điểm mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của luận án;
Mục tiêu nghiên cứu chính của luận án là Để đánh giá được vai trò của chính sách công trong mối quan hệ FDI và ô nhiễm môi trường ở các nước đang phát triển. Trong đó, đề tài sẽ thực hiện bốn mục tiêu nghiên cứu cụ thể như sau: (1) Đánh giá thực nghiệm tác động của các nhân tố đến mức độ ô nhiễm môi trường tại các quốc gia đang phát triển; (2) Đánh giá thực nghiệm tác động của FDI đến mức độ ô nhiễm môi trường tại các quốc gia đang phát triển ; (3) Đánh giá thực nghiệm vai trò của thể chế trong mối quan hệ giữa FDI và ô nhiễm môi trường; (4) Đánh giá thực nghiệm vai trò của chính sách công trong mối quan hệ giữa FDI và ô nhiễm môi trường.
Lược khảo nghiên cứu cho thấy, tương ứng với bối cảnh thực tế, vấn đề còn nhiều tranh luận trong chủ đề này là các nhân tố tác động đến mức độ ô nhiễm môi trường. Nhiều nghiên cứu ủng hộ giả thuyết về đường cong Kuznets (Environmental Kuznets curve – EKC) và mô hình STIRPAT. Giả thuyết về đường cong Kuznets –EKC luận giải về mối quan hệ giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trưởng. Trong khi đó, mô hình STIRPAT lý giải hệ sinh thái chịu tác động của các nhân tố chính dân số, công nghệ và sự sung túc. Kết quả kiểm định cho thấy tác động có ý nghĩa của các yếu tố như mức thu nhập, mức độ tiêu thụ năng lượng, tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa đến mức độ ô nhiễm môi trường tại các quốc gia đang phát triển.
Tiếp đó, luận án tập trung phân tích tác động của của yếu tố vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đến mức độ ô nhiễm môi trường. Trong khi phần lớn các nghiên cứu chỉ ra tác động tích cực của yếu tố vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đến tăng trưởng kinh tế, tác động của FDI đến ô nhiễm môi trường vẫn chưa rõ ràng và chưa đạt được sự đồng nhất. Lược khảo nghiên cứu cho thấy, sự khác biệt về tác động của FDI đến mức độ ô nhiễm môi trường hay mối quan hệ giữa hai mục tiêu tăng trưởng và môi trường phụ thuộc rất nhiều vai trò chính phủ ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu này chủ yếu tập trung phân tích ở góc độ thể chế và kết quả kiểm định cũng chưa rõ ràng và thống nhất. Các nghiên cứu phân tích vai trò của chính phủ ở góc độ chính sách công trong mối quan hệ giữa FDI và ô nhiễm môi trường vẫn còn khiêm tốn và tập trung ở trường hợp các quốc gia phát triển.
Theo đó, bên cạnh khía cạnh thể chế, nội dung luận án tập trung phân tích vai trò của chính phủ ở góc độ chính sách công trong mối quan hệ giữa FDI và ô nhiễm môi trường. Kết quả kiểm định cho thấy, thể chế và chính sách công đều có tác động có ý nghĩa đến lượng phái thải CO2 cũng như mối quan hệ giữa FDI và ô nhiễm môi trường tại các quốc gia đang phát triển. Một mặt, nâng cao chất lượng thể chế, gia tăng thuế và chi tiêu công tạo ra tích cực, giúp cải thiện môi trường. Mặt khác, thể chế và thuế còn tạo ra ảnh hưởng, hiệu chỉnh giảm tác động tiêu cực của FDI đến môi trường tại các quốc gia đang phát triển.
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT vii
DANH MỤC CÁC BẢNG viii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ ix
TÓM TẮT 1
CHƯƠNG 1 – TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 3
1.1. Bối cảnh đề tài nghiên cứu 3
1.2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu 8
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
1.4. Phương pháp nghiên cứu 9
1.4.1. Quy trình nghiên cứu 9
1.4.2 Mô hình thực nghiệm 10
1.4.3. Dữ liệu nghiên cứu 10
1.4.4 Phương pháp nghiên cứu 11
1.5. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu 11
1.6. Kết cấu luận án 12
CHƯƠNG 2 – CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU 14
Giới thiệu 14
2.1. Cơ sở lý thuyết về các nhân tố tác động đến môi trường 17
2.1.1. Cơ sở lý thuyết về các nhân tố tác động đến môi trường 17
2.1.1.1. Giả thuyết về đường cong Kuznets môi trường (Environment Kuznets Curve – EKC) 17
2.1.1.2.Mô hình STIRPAT 20
2.1.2. Cơ sở lý thuyết về tác động FDI đến ô nhiễm môi trường 23
2.1.2.1. Giả thuyết “cải thiện ô nhiễm” 24
2.1.2.2. Giả thuyết về ‘‘thiên đường ô nhiễm’’ 26
2.2. Cơ sở lý thuyết về vai trò của của chính phủ đối với mối quan hệ giữa FDI và ô nhiễm môi trường 27
2.2.1. Vai trò của thể chế trong mối quan hệ giữa FDI và ô nhiễm môi trường 28
2.2.1.1 Thể chế và ô nhiễm môi trường 28
2.2.1.2 Thể chế, FDI và ô nhiễm môi trường 31
2.2.2. Vai trò của chính sách công trong mối quan hệ giữa FDI và ô nhiễm môi trường 33
2.2.2.1 Chính sách công và ô nhiễm môi trường 33
2.2.2.2 Chính sách công, FDI và ô nhiễm môi trường 35
2.3. Các nghiên cứu thực nghiệm 37
2.3.1. Các nghiên cứu thực nghiệm về sự đánh đổi giữa thu nhập và môi trường (giả thuyết về đường cong môi trường Kuznets -EKC) 37
2.3.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của FDI lên chất lượng môi trường 38
2.3.3. Các nghiên cứu thực nghiệm về vai trò của thể chế đối trong mối quan hệ giữa FDI và chất lượng môi trường 42
2.3.3.1 Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của thể chế đến chất lượng môi trường 42
2.3.3.2 Các nghiên cứu thực nghiệm về vai trò của thể chế trong mối quan hệ giữa FDI và chất lượng môi trường 45
2.3.4. Các nghiên cứu thực nghiệm về vai trò của chính sách công đối trong mối quan hệ giữa FDI và chất lượng môi trường 49
2.3.5. Khoảng trống nghiên cứu 51
Kết luận chương 2 54
CHƯƠNG 3 – QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 56
Giới thiệu 56
3.1 Mô hình thực nghiệm 57
3.2 Phương pháp ước lượng GMM Arellano-Bond hệ thống hai bước (S-GMM) 65
3.3. Mô tả dữ liệu và lựa chọn các biến 67
3.3.1 Nguồn dữ liệu nghiên cứu 67
3.3.2 Mô tả dữ liệu 68
Kết luận chương 3 75
CHƯƠNG 4 – KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 76
Giới thiệu 76
4.1. Đánh giá tác động của các nhân tố đến mức độ ô nhiễm môi trường 77
4.1.1. Đánh giá tác động của các nhân tố đến mức độ ô nhiễm môi trường 77
4.1.2. Kiểm định giả thuyết về đường cong môi trường Kuznets-EKC 80
4.2. Kiểm định tác động của FDI đến ô nhiễm môi trường tại các quốc gia đang phát triển 82
4.3. Kiểm định vai trò của thể chế trong mối quan hệ giữa FDI và ô nhiễm môi trường tại các quốc gia đang phát triển 84
4.3.1. Vai trò của thể chế đối với môi trường 84
4.3.2. Vai trò của thể chế trong mối quan hệ giữa FDI và ô nhiễm môi trường 86
4.4. Kiểm định vai trò của chính sách công trong mối quan hệ giữa FDI và ô nhiễm môi trường tại các quốc gia đang phát triển 88
4.4.1. Vai trò của chính sách công đối với môi trường 88
4.4.2. Vai trò của chính sách công trong mối quan hệ giữa FDI và ô nhiễm môi trường 90
Kết luận Chương 4 93
CHƯƠNG 5 – KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH 95
5.1. Kết luận và đóng góp của đề tài nghiên cứu 95
5.1.1 Kết luận 95
5.1.2 Các đóng góp về lý thuyết 98
5.2 Hàm ý chính sách 99
5.2.1 Chính sách đối với các quốc gia đang phát triển 99
5.2.2 Hàm ý chính sách đối với Việt Nam 100
5.3 Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tương lai 103
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO 106
PHỤ LỤC 119
Phụ lục 1 : Các khái niệm, tính cấp thiết và cách thức đo lường về ÔNMT 119
Các khái niệm về môi trường 119
Phụ lục 2 : Các khái niệm, tính cấp thiết và cách thức phân loại về dòng vốn FDI 122
Phụ lục 3 : Phân loại dòng vốn FDI 126
Phụ lục 4 : Thực trạng thu hút dòng vốn FDI 129
Phụ lục 5 : Danh sách 86 quốc gia đang phát triển phân tích 130
Phụ lục 6: Danh sách 2 nhóm quốc gia thu nhập trung bình thấp và thu nhập trung bình cao 131
Phụ lục 7: Kết quả kiểm định các nhân tố tác động đến mức độ ÔNMT 132
Phụ lục 8: Kết quả kiểm định tác động của FDI đến ÔNMT tại các quốc gia đang phát triển 136
Phụ lục 9: Kết quả kiểm định vai trò của thể chế trong mối quan hệ giữa FDI và ÔNMT tại các quốc gia đang phát triển 137
Phụ lục 10: Kết quả kiểm định vai trò của chính sách công trong mối quan hệ giữa FDI và ÔNMT tại các quốc gia đang phát triển 145DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮTKý hiệu Tiếng Anh Tiếng Việt
CO2 Carbon dioxide
FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
GMM General Method of Moments
GEI General Environmental Institutions Thể chế môi trường chung
IPCC Intergovernmental Panel on Climate Change Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu
MENA Middle East and North Africa Trung Đông và Bắc Phi
MIP Minority Investor Protection Thể chế bảo vệ nhà đầu tư thiểu số
NIE New Institutional Economics Kinh tế học thể chế mới
ÔNMT Environmental Pollution Ô nhiễm môi trường
PPP Public-Private Partnerships Hợp tác công tư
WB World Bank Ngân hàng Thế giới
WDI World Development Indicators Chỉ báo phát triển thế giới
WGI Worldwide Governance Indicators Chỉ báo quản trị toàn cầu
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1 Kết quả lược khảo tác động FDI lên môi trường 39
Bảng 2.2 Kết quả lược khảo tác động của thể chế lên môi trường 43
Bảng 2.3 Kết quả lược khảo mối quan hệ giữa thể chế, FDI và môi trường 47
Bảng 2.4 Bảng tổng hợp các giả thuyết nghiên cứu của luận án 52
Bảng 2.5 Bảng tổng hợp các giả thuyết nghiên cứu của luận án 97
Bảng 3. 1 Thống kê mô tả các biến 71
Bảng 3. 2 Thống kê mô tả các biến thể chế (quản trị công) 72
Bảng 3. 3 Các biến và đo lường 73
Bảng 4.1 Tác động của các nhân tố đến lượng khí thải CO2 tại các nước đang phát triển. 77
Bảng 4.2 Tác động của thu nhập đến lượng khí thải CO2 tại các quốc gia đang phát triển (kiểm định giả thuyết EKC). 80
Bảng 4.3 Kết quả ước lượng ngưỡng tác động của thu nhập đến mức độ ÔNMT tại các quốc gia đang phát triển 81
Bảng 4.4 Tác động của FDI đến lượng khí thải CO2 tại các quốc gia đang phát triển. 82
Bảng 4.5 Tác động của các khía cạnh thể chế đến lượng khí thải CO2 tại các quốc gia đang phát triển. 84
Bảng 4.6 Vai trò của thể chế, FDI đến lượng khí thải CO2 tại các quốc gia đang phát triển. 87
Bảng 4.7 Vai trò của chính sách công đối với lượng khí thải CO2 tại các quốc gia đang phát triển. 89
Bảng 4.8 Vai trò của chính sách công, FDI đến lượng khí thải CO2 tại các quốc gia đang phát triển. 91
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Sơ đồ 1.1 Các bước của quy trình nghiên cứu 9
Đồ thị 3. 1. Phát thải CO2 tại các nước đang phát triển giai đoạn 2002-2014 68
Đồ thị 3.2. FDI tại các nước đang phát triển (chia theo nhóm thu nhập) giai đoạn 2002-2014 69
Đồ thị 3. 3. Thể chế (6 chỉ tiêu) các quốc gia phát triển giai đoạn 2002-2014 70
Đồ thị 3. 4. Số thu thuế tại các nước đang phát triển giai đoạn 2002-2014 71
TÓM TẮT
FDI VÀ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG: VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH CÔNG
Ở CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT TRIỂN
Động cơ nghiên cứu của luận án xuất phát từ tình hình thực tiễn và khoảng trống nghiên cứu. Số liệu thực tế cho thấy, nhiều quốc gia đang phát triển theo đuổi chính sách thu hút FDI vì mục tiêu tăng trưởng mà bỏ qua các hiểm họa về môi trường. Ở một phương diện khác, khái lược các nghiên cứu trước chỉ ra, chính sách công cũng đóng vai trò có ý nghĩa trong mối quan hệ giữa FDI và mức độ ô nhiễm môi trường. Theo đó, mục tiêu của luận án nhằm đánh giá thực nghiệm vai trò của thể chế và chính sách công trong mối quan hệ giữa FDI và mức độ ô nhiễm môi trường tại các quốc gia đang phát triển. Kết quả nghiên cứu hàm ý, FDI có tác động dương đến mức độ ô nhiễm môi trường tại các quốc gia đang phát triển. Trong đó, thể chế và chính sách công đều đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ giữa FDI và mức độ ô nhiễm môi trường trường hợp nghiên cứu này. Từ kết quả này, tác giả rút ra hàm ý chính sách là các quốc gia đang phát triển cần xem xét cẩn trọng trong việc tiếp nhận dòng vốn FDI và quản lý doanh nghiệp FDI hiệu quả hơn nhằm hạn chế tối đa tác động tiêu cực của nhân tố này đến môi trường.
Từ khóa: FDI, ô nhiễm môi trường, chính sách công
ABSTRACT
FDI AND ENVIRONMENTAL POLLUTION: THE ROLE OF PUBLIC POLICY IN DEVELOPING COUNTRIES
The research motivation of the thesis comes from practical context and research gap. Actual firgue shows that many developing countries pursue FDI attraction policies for the economic growth, while ignoring environmental hazards. Meanwhile, the research survey shows that both institutions and public policy play important roles in the relationship between FDI and environmental pollution. Accordingly, the objective of the thesis is to empirically evaluate the role of institutions and public policies in the relationship between FDI and the level of environmental pollution in developing countries. Research results show that FDI has a positive impact on the level of environmental pollution in developing countries. In particular, institutions and public policies both play important roles in the relationship between FDI and the level of environmental pollution in this case. From this result, the author draws on the policy implication that governments need to consider carefully in receiving FDI inflows and managing FDI enterprises more effectively in order to minimize negative impacts. of this factor to the environment.
Keywords: FDI, pollution, public policy
CHƯƠNG 1 – TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Bối cảnh đề tài nghiên cứu
Ô nhiễm môi trường (ÔNMT) ngày một trở thành mối quan ngại lớn tại nhiều quốc gia và là đề tài được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, các biến số tác động đến mức độ ÔNMT vẫn chưa rõ ràng và còn nhiều tranh luận. Theo đó, lý do luận án tập trung vào đề tài nghiên cứu này xuất phát từ cả hai góc độ: (1) bối cảnh thực tiễn và (2) bối cảnh lý thuyết, từ đó, nhận thấy khoảng trống nghiên cứu.
Bối cảnh thực tiễn chỉ ra, vấn đề ÔNMT hiện hay là rất đáng báo động (Abid & cộng sự, 2016; DEFRA, 2010; Hill, 2010; Victor, 2017). Chất lượng môi trường ngày càng xấu đi do lượng khí thải của các hoạt động sản xuất và tiêu dùng ngày càng gia tăng. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, sức khỏe con người mà còn là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng nóng lên toàn cầu, đe dọa nghiêm trọng đến sự sinh tồn của con người (Hill, 2010). Do biến đổi khí hậu, những thảm họa thiên nhiên như các siêu bão, hạn hán hay cháy rừng xảy ra liên tục với mức độ ngày càng mạnh mẽ hơn, tổn thất ngày càng nhiều hơn và trên phạm vi rộng hơn (DEFRA, 2010).
Tuy nhiên, các giải pháp nhằm cải thiện ÔNMT hiện nay chưa đạt được hiệu quả như mong đợi và cần được nghiên cứu (Hill, 2010; Kuiper & Van den Brink, 2012; Welford, 2016). Để đối phó với vấn đề này, nhiều hội nghị về biến đổi khí hậu của Liên Hiệp Quốc đã được tổ chức, qua đó, thúc đẩy chính phủ các nước cùng chung tay giải quyết các vấn đề về ÔNMT. Nhiều thỏa thuận đã được ký kết như: Nghị định thư Kyoto 1997 về cắt giảm khí thải; Thỏa thuận Paris 2016 về chống biến đổi khí hậu…Tuy nhiên, các nỗ lực này là chưa đủ để cải thiện tình hình môi trường hiện nay (Kuiper & Van den Brink, 2012).
Đáng chú ý, mặc dù vấn đề môi trường hiện nay là rất báo động, thực tế cho thấy nhiều quốc gia đang phát triển lại chú trọng mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà bỏ qua sự nguy hại đến môi trường (Cole & cộng sự, 2006; Lan & cộng sự, 2012; Solarin & cộng sự, 2017; Ulanowicz, 2012; Welford, 1995, 2016; C. Zhang & Zhou, 2016). Nhằm thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư, các quốc gia này áp dụng các chính sách và thực thi các quy định liên quan đến việc bảo vệ môi trường thiên nhiên còn thiếu chặt chẽ và nhiều hạn chế (Cole & cộng sự, 2006; Lan & cộng sự, 2012; Solarin & cộng sự, 2017). Điều này dẫn đến các vấn đề môi trường ngày càng trầm trọng hơn. Theo nghiên cứu thường niên về môi trường do các trường Đại học của Mỹ thực hiện và công bố tại Diễn đàn kinh tế thế giởi ở Davos, trong số 10 quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ hiện tượng trái đất ấm lên thì đã có 9 quốc gia là các quốc gia kém và đang phát triển nằm ven biển ở các châu lục như Philippines, Nigeria, Việt Nam, Haiti, Bangladesh, Papua New Guinea, Malawi, Fiji, Sudan. Cụ thể, đô thị lớn nhất Việt Nam là Thành phố Hồ Chí Minh có nồng độ chất ô nhiễm trong không khí khu vực ven đường giao thông (chủ yếu là khí CO2) theo thống kê gấp 1,44 lần so với mức khuyến cáo Tổ chức Y tế Thế giới. Nếu vấn đề này không được giải quyết, điều tồi tệ hơn cả có thể xảy ra là một số quốc gia có thể bị xóa sổ bởi mực nước biển dâng cao. Vì vậy, việc khám phá về các biến tác động đến môi trường, từ đó, tìm ra các cách giải quyết hiệu quả là rất cần thiết và cấp bách (Welford, 2016).
Trong khi đó, về bối cảnh lý thuyết, vai trò cũng như chiều hướng tác động của các nhân tố đối với mức độ ÔNMT vẫn còn nhiều điểm cần được làm rõ (Hill, 2010; Victor, 2017). Tổng quan nghiên cứu cho thấy, các nghiên cứu trước đã chỉ ra vai trò của các nhân tố khác nhau (tăng trưởng kinh tế, đô thị hóa, FDI, thể chế,…) đến mức độ ÔNMT (Cole & cộng sự, 2006; Damania & cộng sự, 2003; Hill, 2010; Ibrahim & Law, 2016; Victor, 2017; D. T. Wang & Chen, 2014; D. T. Wang & cộng sự, 2013). Tuy nhiên, chiều hướng, mức độ tác động cũng như kênh truyền dẫn của các nhân tố này vẫn chưa sáng tỏ và đạt được sự thống nhất, cả về lý thuyết lẫn minh chứng bằng thực nghiệm.
Lược khảo nghiên cứu cho thấy, tương ứng với bối cảnh thực tế, vấn đề còn nhiều tranh luận trong chủ đề này là liệu có sự đánh đổi giữa mục tiêu bảo vệ môi trường và tăng trưởng kinh tế hay không. Mặc dù nhiều nghiên cứu ủng hộ giả thuyết về đường cong Kuznets (Environmental Kuznets curve – EKC), giả thuyết mô tả mối quan hệ phi tuyến giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường (Dinda, 2004; Grossman & Krueger, 1995; Roca & cộng sự, 2001; Ulanowicz, 2012; Welford, 2016), vấn đề này vẫn còn nhiều vấn đề cần được làm rõ. Theo Dinda (2004) luận giải, giả thuyết EKC mô tả mối quan hệ giữa tăng trưởng và ÔNMT là một đường cong phi tuyến có dạng hình chữ U ngược (inverted-U-shaped relationship). Hình dạng của đường cong phi tuyến này được giải thích một cách khái quát như sau: khi nền kinh tế còn ở mức độ thấp, tăng trưởng kinh tế tạo ra tác động tiêu cực, dẫn đến môi trường bị ô nhiễm nhiều hơn do các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, khi tăng trưởng kinh tế đạt đến một giá trị ngưỡng, tăng trưởng sẽ tạo ra ngoại tác tích cực, giúp giảm đi ÔNMT bởi công nghệ tiên tiến ngày càng thân thiện hơn với môi trường. Dù vậy, các bằng chứng thực nghiệm về giả thuyết EKC vẫn chưa rõ ràng và chưa thật sự thuyết phục. Với trường hợp các quốc gia phát triển, theo Ekins (1997) và Roca & cộng sự (2001), mặc dù có những bằng chứng nhất định về mức độ ÔNMT giảm ở các quốc gia này song chưa có bằng chứng thực nghiệm nào đáp ứng giả thuyết EKC một cách rõ ràng. Ở các quốc gia đang phát triển, các nghiên cứu thực nghiệm lại tìm thấy các kết quả không đồng nhất với luận giải của giả thuyết EKC (Lan & cộng sự, 2012; Roca & cộng sự, 2001; C. Zhang & Zhou, 2016). Một số quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế vượt bậc, song các vấn đề môi trường lại ngày càng trầm trọng hơn (Cole & cộng sự, 2006; Lan & cộng sự, 2012; D. T. Wang & Chen, 2014; C. Zhang & Zhou, 2016). Tương tự, mô hình STIRPAT luận giải ba yếu tố chính tác động đến mức độ ÔNMT là dân số, sự sung túc và công nghệ. Dựa trên nền tảng này, các nghiên cứu thực nghiệm khám phá các nhân tố tác động đến mức độ ÔNMT, song bằng chứng kiểm định vẫn còn nhiều khoảng trống (McGee & cộng sự, 2015; M. Wang & cộng sự, 2011; York & cộng sự, 2003).
Tương tự, với yếu tố vốn đầu tư trực tiếp (ĐTTT) nước ngoài (FDI), trong khi phần lớn các nghiên cứu chỉ ra tác động tích cực của yếu tố này đến tăng trưởng kinh tế, tác động của FDI đến ÔNMT vẫn chưa rõ ràng và chưa đạt được sự đồng nhất (Cole & cộng sự, 2006; Cole & cộng sự, 2017; Grossman & Krueger, 1995). Theo Giả thuyết “cải thiện ô nhiễm” (pollution halo hypothesis) luận giải, FDI sẽ giúp cải thiện các vấn đề môi trường (Antweiler & cộng sự, 2001; G. Eskeland & Harrison, 2003; Zarsky, 1999). Trong khi đó, giả thuyết “thiên đường ô nhiễm “(pollution haven hypothesis) nhận định, các quốc gia đang phát triển, nơi thu hút nhiều dòng vốn đầu tư FDI, sẽ dần trở thành “thiên đường ô nhiễm” so với các nước phát triển bởi quá trình công nghiệp hóa (Aliyu & cộng sự, 2005; Arrow & cộng sự, 1995; Wheeler, 2001).
Lược khảo nghiên cứu chỉ ra, sự chưa thống nhất về tác động của FDI đến mức độ ÔNMT hay mối quan hệ giữa hai mục tiêu tăng trưởng và môi trường phụ thuộc rất nhiều vai trò chính phủ ở mỗi quốc gia (Cole & cộng sự, 2006; Damania & cộng sự, 2003; Gani & Scrimgeour, 2014; López & Palacios, 2014; Selden & Song, 1994; D. T. Wang & Chen, 2014; D. T. Wang & cộng sự, 2013). Một số nghiên cứu chỉ ra, mức độ ÔNMT sẽ ngày càng trầm trọng hơn trừ khi các chính sách bảo vệ môi trường được tuân thủ nghiêm ngặt (Cole & cộng sự, 2006; Selden & Song, 1994). Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu này chủ yếu tập trung phân tích ở góc độ quản trị công và bằng chứng thực nghiệm cũng chưa rõ ràng và thống nhất (Abid & cộng sự, 2016; Damania & cộng sự, 2003; Gani & Scrimgeour, 2014; D. T. Wang & Chen, 2014; D. T. Wang & cộng sự, 2013). Damania & cộng sự (2003) chỉ ra tham nhũng làm suy yếu nghiêm trọng việc thực thi các chính sách môi trường. Các công chức, vì trục lợi cá nhân, thường “bỏ qua” các quy định về giảm thiểu ÔNMT. Phân tích chi tiết hơn các yếu tố thể chế, Abid & cộng sự (2016) chỉ ra tác động không đồng nhất của các biến số thể chế đối với mức độ ÔNMT. Cụ thể, mức độ ổn định chính trị, hiệu quả chính phủ, mức độ dân chủ và kiểm soát tham nhũng có tác động làm giảm lượng ÔNMT. Ngược lại, chất lượng các quy định và mức độ tuân thủ luật pháp có tác động làm tăng lượng khí thải CO2. Trong khi đó, các nghiên cứu tập trung vào vai trò của chính phủ ở khía cạnh chính sách công trong mối liên hệ giữa FDI và ÔNMT vẫn còn khiêm tốn và tập trung ở trường hợp các nền kinh tế phát triển (Halkos & Paizanos, 2016; Lopez & cộng sự, 2011; López & Palacios, 2014).
Theo đó, bên cạnh khía cạnh thể chế, nội dung luận án tập trung phân tích vai trò của chính phủ ở góc độ chính sách công (chính sách tài khóa) trong mối quan hệ giữa FDI và ÔNMT. Một cách khái quát, khung phân tích của luận án được mô tả bằng sơ đồ dưới đây:
Hình 1.1 Khung phân tích mối liên hệ giữa chính sách công, FDI và ô nhiễm môi trường
Nguồn: tác giả tổng hợp từ lược khảo tài liệu
Từ những nhận định trên, có thể thấy rằng, việc nghiên cứu vai trò của chính phủ ở khía cạnh chính sách công trong mối quan hệ giữa FDI và ÔNMT tại các nền kinh tế đang phát triển hiện nay là rất cần thiết và cấp bách cả về bối cảnh thực tiễn lẫn khoảng trống nghiên cứu. Theo đó, tác giả lựa chọn và thực hiện đề tài luận án “ FDI và ô nhiễm môi trường: Vai trò của chính sách công ở các quốc gia đang phát triển”. Nghiên cứu này được thực hiện với kỳ vọng nêu bật được vai trò của chính phủ ở cả góc độ chính sách công trong mối quan hệ giữa FDI và ô nhiễm môi trường; đây cũng là mục tiêu chính của nghiên cứu, nhằm lấp đầy các khe hở nghiên cứu đã tìm được.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Để đánh giá được vai trò của của chính phủ (thể chế và chính sách công) trong mối quan hệ FDI – Ô nhiễm môi trường ở các nước đang phát triển trong giai đoạn 2002 – 2014, đề tài sẽ thực hiện bốn mục tiêu phân tích cụ thể như sau:
(1) Đánh giá thực nghiệm tác động của các nhân tố đến mức độ ô nhiễm môi trường tại các quốc gia đang phát triển.
(2) Đánh giá thực nghiệm tác động của FDI đến mức độ ô nhiễm môi trường tại các quốc gia đang phát triển.
(3) Đánh giá thực nghiệm vai trò của thể chế trong mối quan hệ giữa FDI và ô nhiễm môi trường.
(4) Đánh giá thực nghiệm vai trò của chính sách công trong mối quan hệ giữa FDI và ô nhiễm môi trường.
Để đạt bốn mục tiêu nghiên cứu trên, luận án tập trung trả lời bốn câu hỏi nghiên cứu:
(1) Các nhân tố nào tác động đến mức độ ô nhiễm môi trường tại các quốc gia đang phát triển?
(2) Tác động của FDI đến mức độ ô nhiễm môi trường tại các quốc gia đang phát triển là như thế nào?
(3) Vai trò của thể chế trong mối quan hệ giữa FDI và ô nhiễm môi trường tại các quốc gia đang phát triển là như thế nào?
(4) Vai trò của chính sách công trong mối quan hệ giữa FDI và ô nhiễm môi trường tại các quốc gia đang phát triển là như thế nào ?
Trong đó, câu hỏi (1) trả lời cho mục tiêu thứ nhất của luận án; mục tiêu thứ hai được trả lời bằng câu hỏi (2), và các câu hỏi (3), (4) lần lược trả lời cho mục tiêu thứ ba và thứ tư của luận án.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các đối tượng trong mối liên hệ giữa thể chế, thuế, chi tiêu công, FDI và ÔNMT (phát thải CO2) cùng các biến kiểm soát được thể hiện ở mô hình như: thu nhập bình quân trên đầu người, độ mở cửa giao thương, đầu tư trong nước, sử dụng năng lượng…
Về phạm vi nghiên cứu, đề tài tập trung nghiên cứu về tác động của FDI lên phát thải CO2 và có xem xét vai trò của thể chế và chính sách công ở các nước đang phát triển trong giai đoạn 2002 – 2014.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Quy trình nghiên cứu
Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu đề ra, các bước nghiên cứu được thực hiện như sau :
Sơ đồ 1.1 Các bước của quy trình nghiên cứu
(1) Xem xét tài liệu và xác định vấn đề nghiên cứu: Xem xét các tài liệu học thuật để tìm khoảng trống nghiên cứu, từ đó đề xuất vấn đề cần nghiên cứu.
(2) Thiết kế mô hình và phương pháp: Trên cơ sở khung lý thuyết và các tài liệu học thuật đã nghiên cứu, đề xuất mô hình và phương pháp thực nghiệm. Đề xuất các biến, thu thập dữ liệu được thực hiện trong bước này.
(3) Kiểm định mô hình thực nghiệm: phân tích và xử lý dữ liệu bằng Stata, nhận xét, đánh giá các kết quả .
(4) Thảo luận kết quả và đề xuất chính sách : Nhận xét và thảo luận kết quả; đề xuất chính sách.
1.4.2 Mô hình thực nghiệm
Cụ thể, để hoàn thành được bốn mục tiêu nghiên cứu của luận án, tác giả phải tiến hành phân tích và thực hiện ước lượng bốn mô hình thực nghiệm dưới đây:
(1) Ước lượng thực nghiệm tác động của các nhân tố đến mức độ ô nhiễm môi trường tại các quốc gia đang phát triển.
(2) Ước lượng thực nghiệm tác động của dòng vốn FDI đến ô nhiễm môi trường tại các quốc gia đang phát triển.
(3) Ước lượng thực nghiệm vai trò của thể chế trong mối quan hệ giữa FDI và ô nhiễm môi trường tại các quốc gia đang phát triển.
(4) Ước lượng thực nghiệm vai trò của chính sách công trong mối quan hệ giữa FDI và ô nhiễm môi trường tại các quốc gia đang phát triển.
1.4.3. Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu nghiên cứu của đề tài là các dữ liệu ở dạng thứ cấp được tổng hợp từ nguồn dữ liệu của ngân hàng thế giới World Bank. Cụ thể, tác giả thu thập các biến chủ yếu từ bộ chỉ số phát triển toàn cầu (World Development Indicators- WDI ). Các chỉ số về thể chế được thu thập từ bộ chỉ số quản trị công toàn cầu (Worldwide Governance Indicators-WGI) . Nghiên cứu đã trích xuất ra dữ liệu 86 quốc gia đang phát triển trên thế giới, từ năm 2002 đến năm 2014.
1.4.4 Phương pháp nghiên cứu
Tận dụng các ưu thế trong việc xử lý các vấn đề về kinh tế lượng như tương quan chuỗi, phương sai không cố định và nhất là hiện tượng nội sinh, phương pháp kiểm định chính mà đề tài sử dụng là phương pháp ước lượng GMM hai bước (Arellano & Bond, 1991; Holtz-Eakin & cộng sự, 1988) được đề xuất bởi Roodman (2006).
1.5. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Ý nghĩa khoa học
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu, song các nhân tố tác động đến ÔNMT còn nhiều khoảng cần được làm rõ, cụ thể là: bằng chứng thực nghiệm về giả thuyết EKC vẫn chưa rõ ràng và chủ yếu được thực hiện với trường hợp các quốc gia phát triển; các nghiên cứu thường đánh giá tác động của các yếu tố một cách riêng phần như tác động FDI lên ÔNMT hoặc kiểm định mối quan hệ giữa chất lượng thể chế và ÔNMT. Qua đó, vai trò của chính phủ ở góc độ chính sách công trong mối liên hệ giữa FDI và ÔNMT vẫn chưa nhiều nghiên cứu quan tâm phân tích.
Theo đó, đề tài nghiên cứu này đã tiếp cận theo hướng tương đối khác biệt so với các nghiên cứu trước đó, cụ thể: thứ nhất, nghiên cứu kiểm định tác động của các nhân tố, đặc biệt là tác động của FDI, đến mức độ ô nhiễm tại các quốc gia đang phát triển. Trong đó, luận án sử dụng phương pháp ước lượng phù hợp cho việc xử lý hiện tượng nội sinh và tương quan chuỗi (GMM hệ thống hai bước) và dữ liệu cập nhật mới giai đọan từ 2002-2014. Thứ hai, người viết đánh giá vai trò của chính phủ trong mối quan hệ giữa FDI và ÔNMT ở cả hai khía cạnh: thể chế và chính sách công.
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả ước lượng của đề tài nghiên cứu sẽ đóng góp thiết thực về các chính sách, thể chế và thuế mà chính phủ ở các nước đang phát triển nên xem xét để hoàn thiện và bổ sung các chính sách thu hút dòng vốn FDI để dòng vốn này vừa đóng góp tích cực cho các hoạt động kinh tế vừa đảm bảo sự phát triển bền vững gắn với môi trường ở các nước đang phát triển. Từ đó, nghiên cứu rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất một số khuyến nghị chính sách cho các quốc gia đang phát triển trong việc phát triển kinh tế kết hợp với bảo vệ môi trường.
1.6. Kết cấu luận án
Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu, nội dung luận án được trình bày thành 6 chương, cụ thể các chương được thiết kế như sau:
Chương 1: Tổng quan đề tài nghiên cứu
Chương 1 sẽ giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên cứu, như: lý do lựa chọn đề tài, xác định các câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu; quy trình và phương pháp nghiên cứu, đồng thời, cũng nói lên ý nghĩa của đề tài nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết nghiên cứu
Chương này xây dựng khung lý thuyết cho đề tài, tác giả trình bày tập trung vào: Một số khái niệm cơ bản; các lý thuyết về FDI và ÔNMT cũng như khung cơ sở về vai trò chính phủ ở cả hai góc độ thể chế cũng như chính sách công trong mối liên hệ giữa thể FDI và môi trường. Sau đó, tác giả hệ thống lại các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan; đồng thời xác định khoảng trống nghiên cứu.
Chương 3: Quy trình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương này sẽ xây dựng các mô hình thực nghiệm và đề xuất phương pháp kiểm định, bao gồm: mô hình kiểm định tác động của các nhân tố đến ÔNMT, tác động FDI đến ÔNMT; vai trò của thể chế trong mối quan hệ giữa FDI và ÔNMT và vai trò của chính sách công trong mối quan hệ giữa FDI và ÔNMT. Tại chương này, tác giả cũng trình bày việc đo lường biến và nguồn khai thác dữ liệu và các thống kê dữ liệu.
Chương 4: Kết quả và thảo luận
Từ mô hình thực nghiệm và dữ liệu thu thập của các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 2002 – 2014, các kỹ thuật phân tích được thực hiện. Kết quả được phân tích, đánh giá và thảo luận dựa trên cở sở lý thuyết được trình bày ở chương 2 cũng như đối chiếu với thực tiễn và các nghiên cứu học thuật trước có liên quan.
Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách
Chương này đưa ra một số các hàm ý thiết thực về các chính sách mà chính phủ ở các nước đang phát triển nên xem xét để hoàn thiện và bổ sung các chính sách thu hút dòng vốn FDI để dòng vốn này vừa đóng góp tích cực cho các hoạt động kinh tế vừa đảm bảo sự phát triển bền vững gắn với môi trường ở các nước đang phát triển.
CHƯƠNG 2 – CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Giới thiệu
Chương hai của luận án trình bày khung lý luận chính về các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ ÔNMT, trong đó, người viết tập trung vào nhân tố dòng vốn trực tiếp nước ngoài FDI. Để làm rõ hơn mối quan hệ giữa FDI và ÔNMT, luận án nhấn mạnh vai trò của chính phủ ở cả hai góc độ, thể chế và chính sáchcông. Qua đó, nội dung của chương cũng là điểm tựa cho các ước lượng thực nghiệm và khuyến nghị chính sách được thực hiện ở các chương sau.
Đầu tiên, lược khảo nghiên cứu cho thấy các nhân tố tác động đến mức độ ÔNMT được giải thích dựa trên nhiều cơ sở lý thuyết khác nhau, trong đó, nổi bật là giả thuyết về đường cong Kuznets –EKC và mô hình STIRPAT.
Giả thuyết về đường cong Kuznets –EKC luận giải về mối quan hệ giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trưởng. Phần lớn các nghiên cứu chỉ ra tác động tích cực của yếu tố FDI đến tăng trưởng kinh tế, trong khi tác động của yếu tố này đến ÔNMT vẫn chưa rõ ràng và chưa đạt được sự nhất trí. Theo đó, câu hỏi liệu có sự đánh đổi giữa mục tiêu tăng trưởng và bảo vệ môi trường là vấn đề được nhiều học giả quan tâm, nghiên cứu. Nhiều nghiên cứu trước ủng hộ giả thuyết về đường cong Kuznets –EKC, song thực trạng và các bằng chứng kiểm định thực nghiệm về giả thuyết này vẫn chưa rõ ràng và còn nhiều tranh luận (Cole & cộng sự, 2006; Lan & cộng sự, 2012; Solarin & cộng sự, 2017).
Trong khi đó, mô hình STIRPAT lý giải hệ sinh thái chịu tác động của các nhân tố chính dân số, công nghệ và sự sung túc (Dietz & Rosa, 1994; Dietz & Rosa, 1997; York & cộng sự, 2003). Theo thời gian, mô hình STIRPAT đã được phát triển thông qua việc tinh chỉnh và cách thức đo lường các thành phần của mô hình.
Thứ hai, tác động của FDI đến ÔNMT được lý giải theo nhiều cách khác biệt (Cole & cộng sự, 2006; Cole & cộng sự, 2017; Grossman & Krueger, 1995). Lược khảo cho thấy, mặc dù mối quan hệ giữa ĐTTT nước ngoài và môi trường đã được nghiên cứu trong những năm gần đây, song mối quan hệ này vẫn chưa rõ ràng và còn nhiều điểm cần được giải quyết (Antweiler & cộng sự, 2001; Bakhsh & cộng sự, 2017; Cole & Elliott, 2003; Cole & cộng sự, 2006; Frankel & Rose, 2005; Hill, 2010). Trong một số trường hợp, FDI có thể tạo ra tác động tích cực đến môi trường, tuy nhiên, FDI cũng có thể gây ra tác động tiêu cực đến môi trường trong một số trường hợp khác (Baek & Koo, 2008; D. T. Wang & Chen, 2014; Xing & Kolstad, 2002). Theo D. T. Wang & cộng sự (2013), tác động của FDI đến chất lượng môi trường vẫn còn nhiều tranh luận với hai giả thuyết trái chiều. Giả thuyết “cải thiện ô nhiễm” (pollution halo hypothesis) luận giải, FDI sẽ giúp cải thiện các vấn đề môi trường (Antweiler & cộng sự, 2001; G. Eskeland & Harrison, 2003; Zarsky, 1999). Các tập đoàn nước ngoài thực thi quản lý tốt hơn và sử dụng các công nghệ tiên tiến làm cho giảm thiểu ÔNMT ở các nước được đầu tư (Zarsky, 1999). Điều này ngụ ý rằng xu hướng thiệt hại về môi trường do ĐTTT nước ngoài không được xác nhận. Trong khi đó, giả thuyết “thiên đường ô nhiễm “(pollution haven hypothesis) nhận định, các quốc gia đang phát triển, nơi thu hút nhiều dòng vốn đầu tư FDI, sẽ dần trở thành “thiên đường ô nhiễm” so với các nước phát triển bởi quá trình công nghiệp hóa. Để thu hút đầu tư nước ngoài, các chính phủ các nước đang phát triển có xu hướng làm suy thoái môi trường thông qua các quy định lỏng lẻo hoặc thực thi kém. Với những điều kiện này, các công ty di chuyển hoạt động đến các nước đang phát triển để tận dụng lợi thế của chi phí sản xuất thấp hơn, dẫn đến ô nhiễm và suy thoái quá mức trong tiêu chuẩn môi trường của các nước được vốn ĐTTT (Aliyu & cộng sự, 2005; Arrow & cộng sự, 1995; Wheeler, 2001).
Thứ ba, lược khảo các công trình khoa học trước chỉ ra, chính phủ nước nhận vốn ĐTTT đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ giữa FDI và ÔNMT, tuy nhiên, phần lớn các công trình nghiên cứu thường chú trọng phân tích vai trò chính phủ ở góc độ thể chế (Cole & cộng sự, 2006; Damania & cộng sự, 2003; Gani & Scrimgeour, 2014; López & Palacios, 2014; Selden & Song, 1994; D. T. Wang & Chen, 2014; D. T. Wang & cộng sự, 2013). Tiếp cận ở góc độ thể chế, trường phái kinh tế thể chế mới chú trọng phân tích vai trò quan trọng của thể chế, xem thể chế như là “nhân tố sâu”, đối với các mục tiêu xã hội như giảm nghèo, tăng trưởng hay cải thiện ÔNMT. Xem xét trong lĩnh vực nghiên cứu về các vấn đề môi trường địa phương và quốc tế, các học giả thường thực hiện các nghiên cứu theo cách tiếp cận mới gọi là kinh tế sinh thái thể chế với các nghiên cứu điển hình của Bromley (1992), Schlager & Ostrom (1992), Dietz & cộng sự (2003), Ostrom (2005), Paavola & Adger (2005) và Paavola (2007). Trọng tâm của cách tiếp cận kinh tế sinh thái thể chế này là xem xét vấn đề môi trường gắn liền với các khuôn khổ quản trị quốc gia. Cách tiếp cận này hướng đến việc thiết lập các nguyên tắc nền tảng cho các giải pháp hiệu quả giúp cải thiện vấn đề môi trường như đạt được hành động tập thể tự nguyện và sử dụng tài nguyên môi trường bền vững (Paavola, 2007).
Các nghiên cứu vai trò của chính phủ đối với môi trường ở góc độ chính sách công còn khá khiêm tốn và mối quan hệ này còn chưa rõ ràng và nhiều tranh luận (Halkos & Paizanos, 2016; Lopez & cộng sự, 2011; López & Palacios, 2014). Như Halkos & Paizanos (2016) luận giải, mặc dù việc nâng cao chất lượng môi trường không phải là mục tiêu chính của các chính sách tài khóa, tuy nhiên, các chính sách này lại tác động có ý nghĩa đến hiệu quả của các quy định môi trường và mức độ ô nhiễm. Tuy nhiên, kênh truyền dẫn tác động của các chính sách tài khóa đến mục tiêu bảo vệ môi trường chưa rõ ràng và còn nhiều điểm cần được làm rõ (Halkos & Paizanos, 2016; Lopez & cộng sự, 2011).
Theo đó, để trình bày chi tiết các nội dung trên, cấu trúc chương hai bao gồm ba phần nội dung chính như sau: phần 1 trình bày về lý thuyết các nhân tố tác động đến mức độ ÔNMT, trong đó, luận án chú trọng luận giải tác động của FDI. Phần 2 trình bày cơ sở lý thuyết phân tích vai trò của thể chế và chính sách công trong mối quan hệ giữa FDI và mức độ ÔNMT và phần 3 là khái lược các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan.
2.1. Cơ sở lý thuyết về các nhân tố tác động đến môi trường
2.1.1. Cơ sở lý thuyết về các nhân tố tác động đến môi trường
Các nghiên cứu khám khá các nhân tố tác động đến ÔNMT thường dựa trên các nền tảng lý thuyết khác nhau, trong đó phổ biến là lý thuyết về đương cong Kuznet và mô hình STIRPAT.
2.1.1.1. Giả thuyết về đường cong Kuznets môi trường (Environment Kuznets Curve – EKC)
Lược khảo nghiên cứu cho thấy, tăng trưởng kinh tế hay thu nhập là một trong những nhân tố tác động có ý nghĩa đến mức độ ÔNMT. Trong đó, nhiều nghiên cứu trước ủng hộ giả thuyết về đường cong Kuznets (Environment Kuznets Curve – EKC). Vào những năm 1950, Simon Kuznets giới thiệu giả thuyết về đường cong Kuznets, tuy nhiên, mối quan hệ giữa tăng trưởng và ÔNMT chưa được luận giải một cách rõ ràng. Từ cơ sở này, các nghiên cứu của Grossman & Krueger (1991, 1995), ngân hàng Thế giới WorldBank (1992), Panayotou (1993) cùng các nghiên cứu khác đã phát triển giả thuyết này, luận giải mối quan hệ giữa hai mục tiêu phát triển này có dạng đường cong phi tuyến chữ U ngược (inverted U shape).
Một cách khái quát, theo giả thuyết đường cong môi trường Kuznets (EKC), mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và mức độ ô nhiễm môi trường được luận giải theo quy luật đường cong phi tuyến dạng U ngược như sau: ÔNMT sẽ tăng cùng chiều với tăng trưởng kinh tế trong các giai đoạn đầu của phát triển. Tuy nhiên, khi nền kinh tế đạt đến mức ngưỡng chuyển đổi (turning point), mức độ ÔNMT bắt đầu giảm dần khi nền kinh tế càng phát triển. Theo giả thuyết EKC, trong giai đoạn đầu của tăng trưởng kinh tế, do các hoạt động kinh tế còn hạn chế, nguồn tài nguyên thiên nhiên vẫn còn dồi dào và chất thải phát sinh còn ít. Theo thời gian, quá trình phát triển kinh tế và quá trình công nghiệp hóa đã dẫn ra sự cạn kiệt đáng kể tài nguyên thiên nhiên và chất thải ngày càng tích tụ. Trong giai đoạn này, tồn tại một mối quan hệ cùng chiều giữa thu nhập hoặc tăng trưởng kinh tế (bình quân đầu người) và suy thoái môi trường (bình quân đầu người). Tuy nhiên, nền kinh tế phát triển đến một trình độ tiên tiến nhất định, sự tăng trưởng kinh tế, dịch vụ, công nghệ cải tiến thân thiện với môi trường hơn, hạn chế sử dụng cơ sở vật chất của nền kinh tế hơn sẽ làm giảm suy thoái môi trường (Beckerman, 1992; Kaika & Zervas, 2013; Panayotou, 1993). Như Beckerman (1992) nhận định, mặc dù tăng trưởng kinh tế thường dẫn đến suy thoái môi trường trong giai đoạn đầu của quá trình, cuối cùng, cách tốt nhất và có lẽ là cách duy nhất để đạt được một môi trường tốt ở hầu hết các quốc gia khi trở nên giàu có. Tương tự, theo Kaika & Zervas (2013) luận giải về giả thuyết EKC, quá trình tăng trưởng kinh tế đến một giai đoạn sẽ hạn chế sự suy thoái môi trường được tạo ra trong giai đoạn đầu phát triển.
Tuy nhiên, giả thuyết này vẫn còn vấp phải một số ý kiến phản biện và quan ngại. Theo giả thuyết đường cong EKC, sự tăng ô nhiễm là điều không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của phát triển kinh tế. Thực sự sẽ là rất đáng quan ngại nếu các chính phủ cho rằng ÔNMT không là vấn đề nghiêm trọng (bởi cho rằng các tổn hại môi trường sẽ tự động phục hồi khi nền kinh tế phát triển). Sự phục hồi của môi trường có xảy ra hay không, điểm ngưỡng chuyển đổi ở đâu còn phụ thuộc nhiều yếu tố và còn nhiều tranh luận. Chẳng hạn, tranh luận về giả thuyết đường cong EKC, nghiên cứu của Arrow & cộng sự (1996) với lý thuyết tới hạn xem xét khả năng vi phạm ngưỡng môi trường trước khi nền kinh tế đạt tới điểm chuyển đổi EKC. Nghiên cứu luận giải rằng nếu các chính phủ chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế để cải thiện môi trường, điều này có thể gây phản tác dụng. Việc sử dụng quá mức giới hạn các tài nguyên không chỉ ảnh hưởng đến môi trường mà còn làm giảm khả năng và năng suất của các tài nguyên tái tạo trong tương lai: “Tăng trưởng kinh tế không phải là thuốc chữa bách bệnh cho chất lượng môi trường; thực sự nó không phải là vấn đề chính” (Halkos & Paizanos, 2016). Nghiên cứu của D. I. Stern (2004) xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và ÔNMT trong bối cảnh cạnh tranh giữa các quốc gia. Các quốc gia phát triển tìm cách giảm mức độ ÔNMT ở nước họ bằng cách “thuê” các quốc gia kém phát triển thực hiện thay các hoạt động sản xuất gây nhiều ô nhiễm.
Bên cạnh đó, vấn đề tranh luận nhiều nhất là việc xác định điểm ngưỡng của đường cong môi trường Kunets. Một số nghiên cứu cho rằng mức thu nhập bình quân ngưỡng tùy thuộc vào chất gây ô nhiễm được lựa chọn phân tích, song nhiều trường hợp nghiên cứu chỉ ra mức ngưỡng thu nhập bình quân đầu người ở khoảng 8.000 USD/năm (Grossman & Kruger, 1995). Điều này hàm ý rằng, trong giai đoạn đầu của phát triển kinh tế, khi các nền kinh tế còn kém (mức thu nhập bình quân đầu người dưới 8.000 USD/năm) tăng trưởng kinh tế càng nhanh thì mức độ ÔNMT càng tăng, phản ánh mối quan hệ đồng biến như phần đồ thị thứ nhất phía trái tới của đường cong Kuznets mô tả, dẫn đến xu hướng “the race to the bottom”. Vào thời kỳ đầu của quá trình phát triển, do các nước kém phát triển thường chú trọng nhiều vào mục tiêu phát triển kinh tế, gia tăng sản lượng đầu ra. Người dân cũng quan tâm đến công việc và thu nhập hơn là các yếu tố môi trường như không khí sạch hay nguồn nước trong lành. Vì vậy, ô nhiễm gia tăng một cách nhanh chóng. Hơn nữa, mức độ phát triển kinh tế nhanh cũng đồng nghĩa với việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên nhiều hơn, phát thải các chất ô nhiễm nhiều hơn. Qua đó, môi trường càng bị suy thoái trầm trọng. Sau khi các nước vượt qua mức thu nhập bình quân 8.000 USD/năm thì tăng trưởng kinh tế càng nhanh, mức độ ÔNMT càng giảm, phản ánh sự nghịch biến như phần đồ thị còn lại phía bên phải đường Kuznets tính từ đỉnh. Điều này được luận giải là khi các nền kinh tế phát triển đến một mức độ sẽ thắt chặt các tiêu chuẩn môi trường để cải thiện ô nhiễm cũng như người tiêu dùng đặt ra yêu cầu cao hơn đối với các sản phẩm tiêu dùng (phải sử dụng công nghệ sạch, thân thiện môi trường). Qua đó, điều này buộc các nhà sản xuất phải cải tiến công nghệ sản xuất theo hướng thân thiện hơn với môi trường. Bên cạnh đó, khi đời sống cao hơn, không chỉ người dân có ý thức hơn về các giá trị môi trường, chính phủ cũng nên nghiêm khắc hơn với các tiêu chuẩn về môi trường ( thông qua các quy định pháp luật, chính sách về môi trường chặt chẽ hơn ), tạo ra xu hướng “the race to the top”.
Tóm lại, dù đã có nhiều nghiên cứu ủng hộ giả thuyết đường cong môi trường Kunets song vấn đề vẫn còn nhiều tranh luận, đặc biệt là ở các nền kinh tế đang phát triển. Vì vậy, trong mô hình thực nghiệm, ngưới viết hướng đến khám phá tác động của thu nhập đến mức độ ÔNMT tại trường hợp các nước đang phát triển. Ngoài ra, như C. Zhang & Zhou (2016) nhận xét, lý do chính khiến các nghiên cứu kết luận khác nhau về các biến tác động đến ÔNMT là trình độ phát triển kinh tế khác nhau ở từng trường hợp nghiên cứu. Vì vậy, để hiểu rõ hơn tác động này, nghiên cứu thực hiện kiểm định giả thuyết EKC tại các quốc gia đang phát triển.
2.1.1.2.Mô hình STIRPAT
Theo Kaika & Zervas (2013) nhận định, lý thuyết EKC là nền tảng lý thuyết cho rất nhiều nghiên cứu thực nghiệm khám phá các nhân tố tác động đến mức độ ÔNMT. Tuy nhiên, mặc dù đã có những nghiên cứu mở rộng lý thuyết EKC song phần chính của lý thuyết này chủ yếu vẫn là mối quan hệ giữa thu nhập (tăng trưởng kinh tế) và mức độ ÔNMT. Theo đó, bên cạnh lý thuyết EKC, mô hình STIRPAT cũng là nền tảng lý thuyết quan trọng của các nghiên cứu thực nghiệm về chủ đề này.
Mô hình STIRPAT được phát triển từ mô hình IPAT – Impact, Population, Affluence, Technology. Theo P. C. Stern & cộng sự (1992), Harrison & Pearce (2000) và York & cộng sự (2003), mô hình IPAT là một nền tảng lý thuyết được công nhận rộng rãi để phân tích tác động của các hoạt động của con người đến môi trường. Vào đầu những năm 1970, mô hình IPAT xuất hiện từ cuộc tranh luận giữa các học giả về những động lực chính tác động đến môi trường. Nền tảng này tiếp tục được sử dụng rộng rãi như một khuôn khổ để phân tích các động lực của cải thiện môi trường.
Một cách khái quát, mô hình IPAT luận giải rằng các tác động đến môi trường là sản phẩm nhân của ba động lực chính: dân số, mức thu nhập (tiêu dùng hoặc thu nhập bình quân đầu người) và công nghệ (tác động trên một đơn vị tiêu dùng hoặc sản xuất). Hay nói cách khác, như York & cộng sự (2003) luận giải, IPAT có nghĩa là I=PAT. Trong đó, I là những tác động đến môi trường (environental Impacts), P là dân số (Population), A là sự sung túc (Affluence) và T là công nghệ (Technology). Sự sung túc thường được phản ánh thông quan tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người (GDP per capita).
Dựa trên mô hình IPAT, Waggoner & Ausubel (2002) mở rộng mô hình đánh giá những hành động tiềm năng và đòn bẩy chính sách đến việc cải thiện môi trường. Theo đó, Mô hình ImPACT ra đời, bằng cách phân chia T thành mức tiêu thụ trên một đơn vị GDP (C) và tác động trên mỗi đơn vị tiêu dùng (T), nghĩa là I=PACT. Hay nói cách khác, phân tích mức độ phát thải carbon dioxide (CO2) dựa trên mô hình IPAT truyền thống hàm ý rằng tổng phát thải (I) là sản phẩm của dân số (P), GDP bình quân đầu người (A) và lượng phát thải CO2 trên mỗi đơn vị GDP (T) . Ngược lại, mô hình ImPACT dự đoán tổng lượng khí thải CO2 là là một hàm số của dân số (P), GDP bình quân đầu người (A), mức tiêu thụ năng lượng trên mỗi đơn vị GDP (C) và lượng khí thải CO2 trên mỗi đơn vị tiêu thụ năng lượng (T).
Điểm mạnh chính của IPAT và ImPACT là dựa trên nền tảng các nguyên tắc sinh thái, có thông số rõ ràng và tiện ích của chúng trong việc minh họa cách thức các nhân tố tác động đến môi trường (Sự thay đổi của các nhân tố sẽ tác động như thế nào). Tuy nhiên, theo York & cộng sự (2003), hạn chế lớn của hai mô hình IPAT và ImPACT là do các mô hình này đều ở dạng các phương trình kế toán, theo đó, các mô hình này không cho phép kiểm định giả thuyết. Nó thể hiện một sự liên kết theo tỷ lệ toán học giữa các nhân tố. Chẳng hạn, các mô hình thể hiện rằng nếu tăng dân số gấp đôi sẽ dẫn đến tăng gấp đôi tác động đến môi trường khi tất cả những yếu tố khác không đổi. Sự phát triển của lý thuyết xã hội học đòi hỏi các giả thuyết về mối quan hệ giữa các yếu tố và tác động của con người có thể kiểm chứng được với bằng chứng thực nghiệm, thay vì chỉ đơn giản được giả định trong cấu trúc của mô hình. Chẳng hạn, giả thuyết đường cong Kuznets môi trường luận giải rằng sự sung túc có thể tạo ra tác động phi tuyến đến ÔNMT. Đến một mức độ phát triển nhất định, gia tăng sự sung túc thực sự có thể dẫn đến giảm tác động tiêu cực (Grossman và Krueger, 1995).
Theo đó, các mô hình IPAT và ImPACT rất khó khăn trong việc thể hiện các hiệu ứng không theo tỷ lệ và không tuyến tính. Để khắc phục hạn chế này, dựa trên hai mô hình trên, Dietz & Rosa (1994) phát triển mô hình ngẫu nhiên là STIRPAT – Stochastic Impacts by Regression on Population, Affluence and Technology, biến phụ thuộc được giải thích bằng hồi quy các yếu tố dân số, sự sung túc và công nghệ. Theo đó, mô hình STIRPAT thuận lợi hơn hai mô hình trước trong việc phân tích tác động của các nhân tố đến việc cải thiện môi trường trong các trường hợp khác nhau.(Dietz & Rosa, 1997)
Không giống như IPAT và ImPACT, mô hình STIRPAT không phải là một phương trình kế toán. Mô hình này là một mô hình ngẫu nhiên, vì vậy, có thể được sử dụng để kiểm định thực nghiệm các giả thuyết. Chẳng hạn, với giả thuyết Đường cong sinh thái Kuznets (EKC), mô hình STIRPAT cho phép kiểm định giả thuyết này với biến đo lường sự sung túc ở dạng bình phương.
Thêm vào đó, Dietz & Rosa (1994), Dietz & Rosa (1997) và York & cộng sự (2003) biến đổi mô hình STIRPAT ở dạng hàm số logarit. Điều này cho phép các kết quả của mô hình STIRPAT được thể hiện dưới dạng các hệ số co giãn của những tác động của các nhân tố dân số, công nghệ và sự sung túc đến hệ sinh thái (Ecological elasticity – EE). Hay nói cách khác, các hệ số này xác định mức độ tăng/ giảm tỷ lệ phần trăm trong các biến độc lập trên biến phụ thuộc. Ví dụ: giá trị 1 cho nhân tố dân số hoặc sự sung túc trong phương trình STIRPAT sẽ hàm ý rằng một trong hai biến có mối quan hệ co giãn là 1 đơn vị với tác động đến môi trường, có nghĩa là sự gia tăng 1% dân số hoặc sự sung túc có tác động tỷ lệ đến môi trường (McGee & cộng sự, 2015).
Theo thời gian, mô hình STIRPAT đã được phát triển thông qua việc tinh chỉnh và cách thức đo lường các thành phần của mô hình. Chẳng hạn, Jorgenson & Clark (2013) khám phá thành phần dân số thông qua tác động của biến số quy mô dân số của từng vùng đến lượng khí thải carbon dioxide (CO2). Tương tự, trong mô hình STIRPAT ước tính tác động của quy mô dân số đến ô nhiễm không khí, York & Rosa (2012) sử dụng hai biến số tổng số hộ gia đình và quy mô hộ gia đình trung bình. Kết quả cho thấy, so với quy mô hộ gia đình trung bình, nghiên cứu cho thấy rằng số hộ gia đình có ảnh hưởng lớn hơn đến tỷ lệ ô nhiễm không khí vì mỗi hộ gia đình mới tạo ra tác động đến môi trường tương đối cao hơn. Quan tâm đến thành phần sự sung túc, Jorgenson & Clark (2012) xem xét tác động của tổng sản phẩm quốc nội GDP đến lượng phát thải CO2 để quan sát mức độ phát triển kinh tế của các quốc gia ảnh hưởng như thế nào đến lượng khí thải CO2. Kết quả cho thấy rằng, cùng với tăng trưởng kinh tế, lượng khí thải carbon nói chung đang tăng theo thời gian, tuy nhiên, nó có sự khác biệt giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển. Cuối cùng, quan tâm đến thành phần công nghệ, Shi (2003) sử dụng hai biến số biểu thị công nghệ là tỷ lệ sản lượng sản xuất trên GDP và tỷ lệ sản lượng dịch vụ trên GDP. Tương tự, M. Wang & cộng sự (2011) và P. Wang & cộng sự (2013) đo lường thành phần công nghệ thông qua mức độ tiêu thụ năng lượng trên GDP. Trong khi đó, Jia & cộng sự (2009) và Roberts (2011) xem xét tác động của đô thị hóa (được đo bằng tỷ lệ phần trăm dân số trên một đơn vị diện tích đô thị và vị trí đô thị trong khu vực đô thị) đến mức độ ÔNMT như một hoạt động đại diện cho cả công nghệ và hiện đại hóa.
Theo đó, dựa trên trên nền tảng của mô hình STIRPAT và giả thuyết EKC cũng như lược khảo các công trình thực nghiệm trước, người viết hướng đến kiểm định mô hình thực nghiệm các biến tác động đến mức độ ÔNMT bao gồm : thu nhập, mức độ tiêu thụ năng lượng, tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa (Canh & cộng sự, 2019; Lin & cộng sự, 2017; Liu & cộng sự, 2017; McGee & cộng sự, 2015).