LA01.029_Đổi mới cơ cấu vốn của các doanh nghiệp nhà nước Việt nam hiện nay
Ở Việt nam hơn 20 năm qua, cùng với công cuộc đổi mới kinh tế là quá trình đổi mới các doanh nghiệp nhà nước. Hàng ngàn doanh nghiệp nhà nước đã được chuyển đổi hình thức sở hữu, được quản lý tài chính theo một cơ chế phù hợp hơn. Nhờ đó, các doanh nghiệp nhà nước đã phần nào khẳng định được vị trí quan trọng trong việc tạo thu nhập và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Song, hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước còn thấp là một thực tế không thể phủ nhận. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng trên là sự bất hợp lý trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp nhà nước. Bởi vậy, nếu không tiếp tục cải cách, nếu không chú trọng thiết lập một cơ cấu vốn hợp lý, thì các doanh nghiệp nhà nước Việt nam khó có thể phát triển ổn định, càng không thể đứng vững trong cạnhh tranh khi tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực đang diễn ra.
Bên cạnh đó, những vấn đề mang tính lý thuyết về việc hình thành một phương pháp tiếp cận khoa học để xây dựng cơ cấu vốn cho các doanh nghiệp nhà nước Việt nam hiện vẫn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện, khiến cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong nghiên cứu và ứng dụng.
Chính vì vậy, đề tài nghiên cứu: ”Đổi mới cơ cấu vốn của các doanh nghiệp nhà nước Việt nam hiện nay” được lựa chọn để đáp ứng yêu cầu lý luận và thực tiễn đó.
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trên thế giới, có khá nhiều công trình nghiên cứu về cơ cấu vốn và một số mô hình kinh tế lượng đã được xây dựng để nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu vốn của các doanh nghiệp. Hầu hết các nghiên cứu hiện tại đều nghiên cứu cơ cấu vốn dưới giác độ quản lý. Titman và Wessels (1988) đã cho rằng chỉ có “tính duy nhất” (được đo lường bởi Chi phí nghiên cứu triển khai/Tổng doanh thu, chi phí bán hàng cao, và nhân công với chi phí thấp) và thu nhập là các nhân tố quan trọng. Năm 1984, Harris đã chứng minh bằng lý thuyết và thực tiễn về tỷ suất lợi nhuận trung bình tăng sẽ kéo theo rủi ro tăng trong mô hình định giá tài sản taì chính nhiều thời kỳ và cuối cùng dẫn đến sự tăng lên của chi phí vốn. Điều này có thể giải thích cho việc ưa thích tài trợ bằng nợ hơn là vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp.
Federick H.deB.Harris, một giáo sư của Đại học Wake Forest, Bang Winston Salem, Mỹ đã đề xuất mô hình nghiên cứu mối liên hệ giữa cấu trúc tài sản, mức đảm nhiệm doanh thu và cơ cấu vốn. Williamson (1988, 1991) cho rằng doanh nghiệp có tỷ trọng tài sản cố định trên tổng tài sản càng cao thì càng phải sử dụng nhiều vốn chủ sở hữu. Gentry (1994) đã so sánh mức độ đòn bẩy và tỷ lệ chi trả cổ tức của công ty liên danh của Mỹ trong ngành công nghiệp khai thác dầu mỏ và khi đốt. Ông đã phát hiện ra rằng, các công ty liên danh, mặc dù không phải chịu thuế thu nhập doanh
nghiệp, có tỷ lệ chi trả cổ tức cao hơn và sử dụng nợ ít hơn. Điều này cũng phù hợp với các nghiên cứu về tác động của thuế đến sự lựa chọn cơ cấu vốn của các công ty Mỹ.
Rajan và Zingales (1955) đã đưa ra một nghiên cứu rất điển hình về cơ cấu vốn của doanh nghiệp ở các nước OECD và đã phát hiện ra mối quan hệ ngược chiều rất chặt chẽ giữa giá trị sổ sách của cổ phiếu với đòn bẩy tài chính. Giống như Rajan và Zingales, Barclay, Smith và Watts (1955) cũng đã phát hiện ra rằng tỷ lệ nợ có quan hệ ngược chiều với tỷ lệ giá thị trường và giá sổ sách.
Để bổ sung cho nghiên cứu trật tự phân hạng của M.Miller, một vài lý thuyết đã được xây dựng dựa trên chi phí giao dịch. Ví dụ, năm 1989, Fischer đã sử dụng mô hình quyền chọn giá và phát hiện ra chỉ một thay đổi nhỏ trong chi phí vốn cũng dẫn đến một thay đổi đáng kể trong cơ cấu vốn mục tiêu. Benartzi, Michaely và Thaler (1997) đã phát hiện ra rằng, trái ngược với những lý thuyết tối
ưu về chi trả cổ tức, các giám đốc dường như chi trả cổ tức dựa trên cơ sở thu nhập trong quá khứ nhiều hơn chứ không phải là thu nhập trong tương lai.
Baker và Wurgler (2002) đã tiến hành điều tra sự ảnh hưởng của tỷ lệ thu nhập trên cổ phiếu trong quá khứ. Nhưng họ chỉ quan tâm đến ảnh hưởng của tỷ lệ thu nhập này lên quyết định phát hành của công ty và không xem xét đến những thay đổi ngầm định. Graham năm 2003 đã tiến hành một điều tra về tác động của thuế. Reinte Gropp, một nhà nghiên cứu kinh tế nổi tiếng của Ngân hàng Trung ương Châu Âu, đã đề xuất một mô hình nghiên cứu kết hợp nhiều loại thuế của chính phủ Đức, năm 2002. Mô hình cũng bao gồm các loại thuế kinh doanh của chính quyền địa phương. Hơn nữa, mô hình cũng cho rằng phần tiết kiệm thuế theo Luật thuế của Đức khi các doanh nghiệp tài trợ một tỷ lệ nhất định bằng nợ sẽ thay đổi theo sắc thuế của từng địa phương.
Nghiên cứu của Francis Cai và Arvin Ghosh (2003) về cơ cấu vốn, bằng các kiểm định thực tế đã cho thấy các doanh nghiệp có xu hướng di chuyển về điểm cơ cấu vốn tối ưu khi họ đã ở quá ngưỡng trung bình ngành nhanh hơn là khi di chuyển đến điểm tối ưu khi họ ở thấp hơn ngưỡng trung bình ngành. Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp không quan tâm đến việc sử dụng nợ nhiều hay ít khi họ ở dưới mức trung bình ngành.
Năm 2004, Lisa A.Keister đã nghiên cứu về chiến lược tài chính của các doanh nghiệp trong nền kinh tế chuyển đổi, tiêu biểu là Trung Quốc, đã đưa ra các giả thuyết về xu thế thay đổi cơ cấu vốn của các doanh nghiệp nhà nước Trung quốc. Kết quả kiệm nghiệm cho thấy: trong thập kỷ đầu của quá trình đổi mới, các doanh nghiệp nhà nước càng giữ lại nhiều lợi nhuận thì càng vay nợ từ bên ngoài nhiều ; việc vay nợ của các doanh nghiệp gia tăng cùng với sự thay đổi về điều kiện địa lý; các doanh nghiệp ở các khu vực phát triển vay nợ từ các ngân hàng nhiều hơn và từ các nguồn khác ít
hơn so với các doanh nghiệp ở khu vực kém phát triển và hầu hết các doanh nghiệp đều phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng. Ở Việt nam, các công trình nghiên cứu về cơ cấu vốn không nhiều.
Trong luận văn thạc sỹ của tác giả Bùi Văn Thi (2001) với đề tài:’’ Đổi mới cơ cấu nguồn vốn của Công ty Shell gas Hải phòng” và tác giả Lê Thu Thuỷ (2004) “Đổi mới cơ cấu vốn của Công ty Xây dựng Lũng lô”, cũng nghiên cứu về cơ cấu vốn. Nhưng các tác giả mới chỉ dừng lại ở các phân tích thực trạng cơ cấu vốn của một doanh nghiệp cụ thể và đề xuất các giải pháp mang tính định tính để đổi mới cơ cấu vốn của doanh nghiệp đó. Bài viết của TS.
Đàm Văn Huệ trên tạp chí Kinh tế phát triển số tháng 10 năm 2005,” Bàn về điều kiện xác lập cơ cấu vốn của doanh nghiệp Việt nam hiện nay” cũng đã phân tích một số nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp và các điều kiện xây dựng cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp Việt nam. Các điều kiện được phân tích chủ yếu dựa trên các cơ sở về lý thuyết mà chưa được kiểm chứng.