ThS17.011_Đối chiếu các phương tiện dùng để xưng hô trong truyện ngắn của nguyễn huy thiệp và truyện ngắn của nguyễn ngọc tư
1. Lí do chọn đề tài
Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, xưng hô là yếu tố đầu tiên mà các vai giao tiếp cần phải lựa chọn để xác lập vị trí của mình. Dựa vào xưng hô mà quan hệ giữa các vai giao tiếp được thiết lập. Do đó, sử dụng từ xưng hô không chỉ giúp cuộc thoại có thể tiến hành mà nó còn ảnh hưởng lớn đến chiến lược và hiệu quả giao tiếp. Xưng hô đúng, hay sẽ góp phần thúc đẩy giao tiếp phát triển. Ngược lại, xưng hô không hợp lý sẽ gây ra những hậu quả không mong muốn trong giao tiếp. Qua cách sử dụng từ xưng hô người ta có thể biết được tình cảm, thái độ, mối quan hệ, trình độ học vấn của các nhân vật tham gia giao tiếp.
Nguyễn Huy Thiệp và Nguyễn Ngọc Tư là hai tác giả lớn và đã khẳng định được vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam đương đại. Mỗi tác giả ở một vùng miền, mang một phong cách nghệ thuật khác nhau … Do đó, cách lựa chọn và sử dụng ngôn từ nghệ thuật cũng khác nhau, đặc biệt trong cách dùng các phương tiện dùng để xưng hô cũng mang đậm đặc điểm của phương ngữ hai vùng Nam – Bắc.
Lý thuyết giao tiếp và hội thoại đã được đưa vào giảng dạy ở nhà trường phổ thông. Để hiệu quả giảng dạy cao, người giáo viên văn ngoài việc nắm vững tri thức cần tạo sức hút cho học sinh thông qua những tác phẩm văn học đặc sắc, cụ thể. Với những lý do nêu trên, chúng tôi mạnh dạn đề xuất nghiên cứu đề tài: “Đối chiếu các phương tiện dùng để xưng hô trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư”.
2. Lịch sử vấn đề
Xưng hô từ lâu đã là vấn đề khá thú vị và được bàn đến khá nhiều trong giới ngôn ngữ học. Khi nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã bước đầu tìm hiểu một số công trình, bài viết về xưng hô của một số tác giả. Cụ thể:
– Các bài báo, bài viết nghiên cứu về xưng hô:
+ Hoàng Thị Châu (1995), Vài đề nghị về chuẩn hoá cách xưng hô trong xã giao, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 3.
+ Nguyễn Văn Chiến (1993), Từ xưng hô trong tiếng Việt. Việt Nam những vấn đề ngôn ngữ và văn hoá, Hội ngôn ngữ học Việt Nam, Trường ĐHNN Hà Nội.
+ Stankêvich (1993), Cần tìm hiểu thêm về cách xưng hô trong tiếng Việt, Việt Nam những vấn đề ngôn ngữ và văn hoá, Hội ngôn ngữ học Việt Nam, Trường ĐHNN Hà Nội.
+ Phạm Văn Tình (1997), Nhân xem Bảy sắc cầu vồng bàn thêm về cách xưng hô trong nhà trường, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 9.
+ Phạm Ngọc Thưởng (1994), Về đại từ nhân xưng ngôi thứ 3, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 10.
+ Phạm Ngọc Thưởng (1995), Xưng hô giữa vợ và chồng trong gia đình người Tày – Nùng, Tạp chí Dân tộc học, số 1.
+ Như ý (1990), Vai xã hội và ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.
+ Bùi Minh Yến (1990), Xưng hô giữa vợ và chồng trong gia đình người Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.
+ Bùi Minh Yến (1993), Xưng hô giữa anh chị và em trong gia đình người Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.
+ Bùi Minh Yến (1994), Xưng hô giữa ông bà và cháu trong gia đình người Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2.
– Các công trình luận văn, luận án nghiên cứu về xưng hô:
+ Hồ Thị Lân (1989), Tìm hiểu vai trò của từ xưng hô trong giao tiếp và các nhân tố tác động đến từ xưng hô, Luận văn sau đại học, Trường ĐHSP Hà Nội.
+ Phạm Ngọc Thưởng (1998), Cách xưng hô trong tiếng Nùng, Luận án tiến sĩ, Trường ĐHSP Hà Nội.
+ Lê Thanh Kim (2000), Từ xưng hô và cách xưng hô trong các phương ngữ tiếng Việt từ góc nhìn của lý thuyết xã hội ngôn ngữ học, Luận án tiến sĩ, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
+ Bùi Minh Yến (2001), Từ xưng hô trong gia đình đến xưng hô ngoài xã hội của người Việt, Luận án tiến sĩ, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
Điểm qua một số công trình trên, chúng ta thấy xưng hô được nghiên cứu dưới những góc nhìn khác nhau trong đời sống. Tuy nhiên, theo khảo sát ban đầu của chúng tôi thì các phương tiện dùng để xưng hô trong một tác phẩm chưa được đề cập nhiều, đặc biệt là hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống các phương tiện dùng để xưng hô trong các tác phẩm của các tác giả ở những vùng miền khác nhau. Kế thừa thành quả các công trình của những nhà nghiên cứu trước đây, chúng tôi hi vọng luận văn này sẽ có hướng đi mới trong việc tìm hiểu các phương tiện dùng để xưng hô của người Việt nói chung và các tác phẩm văn học nói riêng