LA09.041_Định hướng xây dựng chuẩn mực báo cáo tài chính Việt Nam đáp ứng xu thế hội tụ kế toán quốc tế
1. Lý do chọn đề tài
MỞ ĐẦU
Xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới đòi hỏi các quốc gia phải sử dụng ngôn ngữ kế toán chung nhằm giúp đảm bảo thông tin có thể so sánh trên phạm vi quốc tế. Đó cũng là quá trình hội tụ kế toán quốc tế đang diễn ra hiện nay cùng với sự phát triển của hệ thống chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế, thay thế dần cho các chuẩn mực kế toán quốc tế. Đặc biệt xu thế hội tụ kế toán diễn ra mạnh mẽ sau khi thỏa thuận Norwalk giữa Hội đồng Chuẩn mực kế toán quốc tế và Hội đồng Chuẩn mực kế toán tài chính Hoa Kỳ bắt đầu triển khai cho thấy có những thay đổi lớn của chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế trong thời gian gần đây. Đây là vấn đề mang tính toàn cầu và ảnh hưởng đến lợi ích của các quốc gia nên nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Các nghiên cứu tập trung vào những nội dung cơ bản như tranh luận về sự thống nhất trong kế toán, những nhân tố ảnh hưởng đến môi trường kế toán, so sánh chuẩn mực kế toán quốc gia với nhau và với chuẩn mực kế toán quốc tế, quá trình hòa hợp kế toán quốc tế… Trong đó, các nghiên cứu về hòa hợp kế toán bắt đầu phát triển từ năm 1973 sau khi Ủy ban Chuẩn mực kế toán quốc tế được thành lập.
Tuy nhiên phải đến cuối thế kỷ 20, những nghiên cứu về việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế tại các quốc gia cụ thể mới được công bố nhiều, mặc dù tập trung vào một số quốc gia được quan tâm như Đức, Trung quốc, Nhật… Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế đòi hỏi chất lượng thông tin có thể so sánh ở phạm vi quốc tế, một ngôn ngữ kinh doanh cần được thiết lập bằng việc xây dựng hệ thống chuẩn mực toàn cầu chất lượng cao đáp ứng thị trường vốn quốc tế. Trước yêu cầu đó, mục tiêu của Ủy ban Chuẩn mực kế toán quốc tế đã có sự chuyển đổi từ hòa hợp sang hội tụ kế toán. Quá trình hội tụ này đã đạt được những thành công đáng kể như sự chấp thuận áp dụng các chuẩn mực quốc tế của Liên minh châu Âu từ năm 2005. Mặc dù vậy, quá trình này cũng gây nhiều tranh luận và vì vậy việc nghiên cứu đã được mở rộng sang nhiều quốc gia bằng việc so sánh giữa các quốc gia hay tập trung vào một quốc gia qua những mốc thời gian khác nhau để đánh giá mức độ cũng như cách thức hội tụ của các quốc gia. Những quốc gia thuộc Liên minh châu Âu, các thị trường mới nổi như Trung quốc, Ấn độ… tiếp tục được quan sát tỉ mỉ bởi các nghiên cứu trong giai đoạn này (Peng et al, 2008; Verriest et al, 2011; Ramanna, 2011). Bên cạnh đó, nhiều quốc gia châu Á khác cũng được xem xét về mức độ và cách thức hội tụ như Malaysia (Laili, 2008), Indonesia (Lasmin, 2011a), Singapore (Carlin et al, 2010)…
Tại Việt Nam, đáp ứng xu hướng hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, Việt Nam đã và đang thiết lập hành lang pháp lý về kế toán, kiểm toán theo thông lệ các nước nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng thông tin báo cáo tài chính, trong đó một bộ phận quan trọng là hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam. Trong giai đoạn 2001 – 2005, Việt Nam đã ban hành được 26 chuẩn mực kế toán Việt Nam dựa trên chuẩn mực kế toán quốc tế và điều kiện thực tế Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống kế toán Việt Nam vẫn còn những khoảng cách, đặc biệt là đối với khu vực dịch vụ tài chính, các vấn đề về đánh giá và thuyết minh (World Bank, 2006b). Bên cạnh đó, sự tồn tại song song hệ thống chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán dẫn đến những cản trở cho quá trình hội tụ kế toán (Nguyen & Tran, 2012). Ngoài ra, qui trình soạn thảo và ban hành chuẩn mực kế toán chưa chuyên nghiệp (Adam và Đỗ Thùy Linh, 2005). Để giải quyết vấn đề trên, một số nghiên cứu đã được thực hiện để xem xét và đánh giá cũng như đưa ra các giải pháp cho Việt Nam để đáp ứng xu thế hội nhập tiến tới hội tụ kế toán quốc tế. Các nghiên cứu thực nghiệm bước đầu đánh giá hệ thống kế toán Việt Nam cũng như mức độ hội tụ của các chuẩn mực kế toán Việt Nam (Micheline & Nguyen, 2007; Nguyen et al, 2012; Phạm Hoài Hương, 2010; Pham et al, 2011). Ngoài ra, các nghiên cứu khác tập trung vào xem xét mối quan hệ giữa quá trình đổi mới kinh tế và cải cách kế toán của Việt Nam để nhận định các kết quả đạt được cũng như trở ngại của quá trình hòa hợp kế toán (Nguyen & Tran,
2012; Nguyen & Richard, 2011). Một số nghiên cứu xem xét thực trạng và đưa ra các giải pháp cho quá trình hòa hợp/hội tụ kế toán Việt Nam (Vũ Hữu Đức & Trình Quốc Việt, 2008; Đoàn Xuân Tiên, 2008; Đặng Thái Hùng, 2008). Bên cạnh đó, một số nghiên cứu trong các luận án, luận văn cũng đã đề cập đến các giải pháp và một số đề xuất định hướng hội tụ cho Việt Nam.
Bên cạnh những đóng góp của các nghiên cứu trên cho lý luận và thực tiễn phát triển kế toán Việt Nam, một số vấn đề cần phải đặt ra cho việc định hướng tổng thể quá trình hội tụ kế toán Việt Nam trong bối cảnh gần đây khi quá trình hội tụ trở nên sôi động hơn trên thế giới trong khi hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam đã “đứng im” trong hơn 7 năm qua. Một là, cần định hình lại tiến trình hội tụ kế toán quốc tế khi Dự án hội tụ IASB – FASB đến giai đoạn kết thúc với những diễn biến mới chưa được lường trước. Các phương thức hội tụ khác nhau của các quốc gia, bao gồm các cường quốc cũng như của Việt Nam cần được phân tích đầy đủ và cập nhật hơn. Hai là, cần một khảo sát thực nghiệm đầy đủ hơn về hiện trạng của các chuẩn mực kế toán Việt Nam trên các phương diện nội hàm, khả năng áp dụng, chất lượng thông tin cũng như sự chuẩn bị của các đối tượng khác nhau cho tiến trình hội tụ sâu hơn của kế toán Việt Nam với chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế. Ba là, cần đưa ra một định hướng tổng thể về hội tụ kế toán của Việt Nam, bao gồm lựa chọn cách thức cũng như lộ trình thích hợp với đặc điểm của Việt Nam. Các định hướng trên không chỉ giải quyết vấn đề nội dung mà còn xem xét các yếu tố thể chế và cơ sở hạ tầng kế toán. Với mong muốn đáp ứng yêu cầu trên, tác giả lựa chọn đề tài “Định hướng xây dựng chuẩn mực báo cáo tài chính Việt Nam đáp ứng xu thế hội tụ kế toán quốc tế”. Các kết quả nghiên cứu được mong đợi sẽ đóng góp thêm vào lý luận và thực tiễn hội tụ kế toán quốc tế tại Việt Nam