LA02.063_Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ở các vùng của Việt Nam
1. Giới thiệu công trình nghiên cứu
Từ những năm 1960, dòng vốn FDI đã được lý giải bởi Hymer. Từ khi xuất hiện đến nay, dòng vốn này đã có những tác động tích cực đối với nước tiếp nhận đầu tư và không ngừng gia tăng qua thời gian trên bình diện quốc tế. Mức độ lan tỏa ngày càng sâu rộng khắp các châu lục với sự đa dạng, nhiều chiều. Trong đó, đáng kể nhất là tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế, cũng như những tác động lan tỏa khác. Thực tế đó, dẫn đến mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong nước cũng như nước ngoài với những phương pháp nghiên cứu khác nhau. Kết quả đạt được rất đa dạng: Tác động dương của FDI đến tăng trưởng kinh tế (Nguyễn Thị Tuệ Anh, 2006; Le Thanh Thuy, 2007; Aviral và Mihai, 2011; Chien et al., 2012; Elsadig, 2012); Tăng trưởng kinh tế tác động đến FDI (Anh và Thang, 2007; Ab Quyoom Khachoo và Khan, 2012; Fayyaz Hussain, Constance Kabibi Kimuli, 2012; Chirstian và C. Richard, 2012; Cuong et al., 2013). Một số nghiên cứu phát hiện mối tương quan đồng thời hai chiều giữa FDI và tăng trưởng kinh tế (Caves, 1996; Zhang 2000; Sajid Anwar và Lan Phi Nguyen, 2010; Chien và Linh, 2013) và các nghiên cứu cho thấy tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế cần có những điều kiện về nguồn nhân lực, quy mô thị trường, độ mở của nền kinh tế (Blomstrom et al., 1992; Borensztein et al., 1998; Basu et al., 2003). Bên cạnh đó, FDI không có tác động đến tăng trưởng kinh tế (Ericsson và Irandoust, 2001; Carkovic và Levine, 2002; Dilek và Aytac, 2013).
Trên thực tế, các nghiên cứu giữa FDI và tăng trưởng kinh tế chủ yếu thực hiện ở không gian quốc gia và một số ít thực hiện ở không gian vùng trong quốc gia. Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế được thực hiện chủ yếu đối với tổng thể quốc gia, như các nghiên cứu của Nguyễn Mại (2003), Nguyen Thi Phuong Hoa (2004), Nguyễn Thị Tuệ Anh,
(2006), Le Thanh Thuy (2007) và một số nghiên cứu ở cấp độ vùng (Sajid Anwar và Lan Phi Nguyen, 2010; Chien et al., 2012). Kết quả của các nghiên cứu cho thấy tồn tại đa dạng mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Tuy nhiên, khai thác những ưu điểm của phương pháp nghiên cứu nói chung cũng như phương pháp nghiên cứu định lượng nói riêng chưa được quan tâm, cũng như tính cập nhật dữ liệu thực tiễn chưa được thực hiện, nhất là thời điểm kinh tế có những khó khăn như hiện nay. Căn cứ Nghị định số 92/2006/NĐ-CP (Điều 15), ngày 07 tháng 09 năm 2006 của Chính phủ về Lập, phê duyệt, quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội và Nghị định số 04/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 01 năm 2008 về Sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 92/2006/NĐ-CP, Việt Nam có sáu vùng kinh tế-xã hội: vùng Đồng bằng Sông Hồng, vùng Trung du miền núi phía Bắc, vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ và vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Mỗi vùng có những đặc trưng về kinh tế xã hội, nên mức phát triển, cũng như tính hấp dẫn dòng vốn FDI khác nhau. Mặc dù dòng vốn FDI ở các vùng có khác biệt, nhưng đóng góp của FDI đối với tăng trưởng kinh tế rất đáng kể, thể hiện tỷ lệ FDI/GDP qua các năm: 19% (năm 2011), 17% (năm 2012); FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, đóng góp vào ngành công nghiệp hỗ trợ, tạo việc làm, tạo nguồn thu cho NSNN, góp phần hội nhập quốc tế. Khi nghiên cứu chi tiết các cấp không gian, thì đóng góp của FDI đối
với tăng trưởng kinh tế có sự chênh lệch giữa các vùng, liên kết vùng và tổng thể vùng ở Việt Nam.
Do đó, cần có công trình nghiên cứu sâu về mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế ở các không gian của Việt Nam, đặc biệt với phương pháp nghiên cứu phù hợp. Từ đó có cơ sở khoa học đánh giá mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế, góp phần hoàn thiện lý thuyết, đưa ra giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời tăng cường thu hút dòng vốn FDI vào Việt Nam. Từ những thực tiễn trên, dựa vào:
(i) Mô hình lý thuyết của Cobb-Douglas (1928), Slolow (1956, 1957) và các lý thuyết đánh giá tác động của FDI đối với nước nhận đầu tư như MacDougall (1960), Hymer (1960) và các đóng góp khác được thực hiện bởi Buckley và Casson (1976), Caves (1971), Dunning (1973), Kindleberger (1969) và Vernon (1966);
(ii) Dựa trên các nghiên cứu về mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế theo phương pháp định lượng (Caves, 1996; Zhang, 2000; Nguyễn Thị Tuệ Anh và cộng sự, 2006; Le Thanh Thuy, 2007; Wei K., 2008; Sajid và Nguyen, 2011; Elsadig, 2012; Dilek và Aytac, 2013, …);
(iii) Khai thác và sử dụng phương pháp GMM (Difference Generalized Method of Moments) của Arellano-Bond (1991) và phương pháp PMG (Pooled Mean Group) của Pesaran, Shin và Smith (1999) với dữ liệu bảng được thu thập từ năm 1997 đến năm 2012 ở các tỉnh thành Việt Nam từ Tổng Cục Thống kê.
Đề tài nghiên cứu Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ở các vùng của Việt Nam được thực hiện