LA16.010_Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển của một số tổ hợp ngô lai và biện pháp kỹ thuật cho tổ hợp lai triển vọng phục vụ sản xuất ngô vùng Đông Bắc
Nội dung đề tài: “Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển của một số tổ hợp ngô lai và biện pháp kỹ thuật cho tổ hợp lai triển vọng phục vụ sản xuất ngô vùng Đông Bắc”
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển của một số tổ hợp ngô lai và biện pháp kỹ thuật cho tổ hợp lai triển vọng phục vụ sản xuất ngô vùng Đông Bắc:
Cây ngô (Zea may L.) là một trong những cây cốc quan trọng nhất cung cấp
lương thực cho loài người và thức ăn cho gia súc. Ngô là nguyên liệu cho các nhà
máy chế biến lương thực – thực phẩm – dược phẩm và là nguyên liệu lý tưởng để tạo
ra năng lượng sinh học. Ngô là mặt hàng nông sản xuất khẩu thu về ngoại tệ cho
nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ.
Với giá trị kinh tế cao và khả năng thích ứng rộng, cây ngô đã được trồng ở
hầu hết các vùng trên trái đất. Năm 2010, diện tích trồng ngô trên thế giới đạt 162,32
triệu ha, năng suất trung bình đạt 5,06 tấn/ha, tổng sản lượng đạt 820,62 triệu tấn.
Trong đó, Mỹ là nước có diện tích lớn nhất với 32,45 triệu ha, năng suất đạt 9,59 tấn/ha,
sản lượng đạt 316,17 triệu tấn, đứng thứ hai là Trung Quốc với diện tích 32,45 triệu ha,
năng suất 5,33 tấn/ha và sản lượng 173,0 triệu tấn (USDA, 2011) [112].
Nhu cầu ngô của thế giới được dự báo là sẽ là 852 triệu tấn vào năm 2020
(IFPRI, 2003) [76], tăng 45% so với năm 1997, riêng Đông Nam Á nhu cầu tăng
70% so với năm 1997 (CIMMYT, 2008) [62] và sẽ là 1 tỷ tấn vào năm 2020. Hơn
80% nhu cầu ngô của thế giới tăng tập trung ở các nước đang phát triển và chỉ
khoảng 10% từ các nước công nghiệp (FAOSTAT, 2007) [107]. Các nước đang
phát triển sẽ phải tự đáp ứng nhu cầu của mình trên diện tích ngô hầu như không
tăng (James, 2010) [77].
Ở Việt Nam, ngô là cây lương thực quan trọng thứ 2 sau lúa. Tại một số tỉnh
miền núi phía bắc như Sơn La, Hà Giang, Cao Bằng và Lào Cai ngô là cây lương
thực số 1 (Năm 2010 Sơn La có diện tích trồng lúa là 42.400 ha và ngô là 132.700 ha;
Hà Giang diện tích trồng lúa là 36.500 ha và ngô là 47.600 ha; Cao Bằng diện tích
trồng lúa là 30.400 ha, ngô là 38.400 ha; Lào Cai diện tích trồng lúa là 29.900 ha, ngô
là 31.100 ha) (Tổng cục thống kê, 2011) [34]. Do ưu thế của các giống ngô lai về
năng suất và hiệu quả kinh tế cao nên từ năm 1990 Việt Nam bắt đầu trồng các giống
ngô lai và phát triển liên tục cho đến ngày nay. Năm 2010 diện tích ngô lai đã chiếm
hơn 90% diện tích trồng ngô cả nước. Đây là một tốc độ phát triển nhanh so với các
nước có nghề trồng ngô trên thế giới.
Những năm gần đây, sản xuất ngô ở nước ta đã có nhiều thay đổi. Việc sử
dụng các giống ngô lai trong sản xuất, đồng thời áp dụng các biện pháp kỹ thuật
canh tác tiên tiến đã góp phần đưa năng suất và sản lượng ngô tăng cao. Tuy nhiên
năng suất ngô trung bình ở nước ta vẫn còn thấp so với trung bình trên thế giới và
trong khu vực. Năm 2010 năng suất ngô của Việt Nam đạt 40,9 tạ/ha (Tổng cục
thống kê, 2011) [34] chỉ bằng 81,3% năng suất ngô của Trung Quốc, 42,6% của Mỹ
và 80,8% năng suất trung bình của thế giới (FAOSTAT, 2011) [109]. Theo chiến
lược của Bộ Nông nghiệp & PTNT đến năm 2020 sản lượng ngô của Việt Nam cần
đạt 8 – 9 triệu tấn/năm để đảm bảo cung cấp đầy đủ cho nhu cầu sử dụng trong nước
và từng bước tham gia xuất khẩu.
Trong các vùng sinh thái nông nghiệp của Việt Nam, Đông Bắc là vùng có
diện tích trồng ngô lớn nhất Việt Nam (năm 2010 là 196.200 ha chiếm 17,41% diện
tích trồng ngô cả nước) nhưng năng suất bình quân vùng này đạt thấp (34,23 tạ/ha)
bằng 83,7% năng suất bình quân chung của cả nước (Tổng cục thống kê, 2011)
[34]. Sản xuất ngô vùng Đông Bắc gặp khá nhiều khó khăn, vì phần lớn diện tích
ngô được trồng trên đất dốc, phụ thuộc chủ yếu vào nước trời, đầu tư thâm canh
thấp, một số tỉnh sử dụng giống địa phương và giống thụ phấn tự do còn cao (35 –
55%) đây là nguyên nhân làm cho năng suất ngô thấp hơn một số vùng sinh thái
khác (Sở NN & PTNT Hà Giang, 2011; Sở NN & PTNT Cao Bằng, 2011) [19],
[20]. Những nghiên cứu về các yếu tố sinh học, sinh thái, biện pháp kỹ thuật canh
tác cho việc phát triển ngô ở vùng Đông Bắc đến nay còn ít và rất tản mạn, không
có hệ thống, ít được ứng dụng vào thực tiễn sản suất. Công tác khuyến nông,
chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về giống mới và các biện pháp canh tác thiếu đồng bộ,
chưa thật phù hợp với điều kiện sinh thái và kinh tế của vùng, dẫn đến hiệu quả
chưa cao.
Để đáp ứng nhu cầu về ngô ngày càng tăng của vùng và các vùng khác trong
cả nước và tiến tới cho xuất khẩu, cần thiết phải đưa thêm vào sản xuất các giống
ngô lai mới có năng suất cao, có thời gian sinh trưởng trung bình sớm để phù hợp
với điều kiện sinh thái và cơ cấu mùa vụ của vùng Đông Bắc. Đồng thời cần nghiên
cứu và áp dụng những biện pháp kỹ thuật canh tác tiên tiến như thời vụ, mật độ gieo
trồng, phân bón và phòng trừ sâu bệnh… Trong đó việc xác định thời vụ gieo trồng
thích hợp, tránh được hạn đầu vụ Xuân, rét và hạn cuối vụ Thu; xác định được mật
độ và khoảng cách gieo trồng phù hợp là vấn đề cần thiết, ít chi phí đầu tư, dễ được
người dân chấp nhận và có tính khả thi cao. Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên tôi
tiến hành đề tài “Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển của một số tổ hợp
ngô lai và biện pháp kỹ thuật cho tổ hợp lai triển vọng phục vụ sản xuất ngô
vùng Đông Bắc” là có tính cấp thiết và thời sự, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn
nhằm đưa giống ngô lai mới của Việt Nam kết hợp với một số biện pháp kỹ thuật
canh tác phù hợp có tính khả thi vào sản xuất, góp phần nâng cao năng suất và hiệu
quả sản xuất ngô vùng Đông Bắc.
2. Mục tiêu của đề tài
1. Xác định được THL ưu tú có thời gian sinh trưởng trung bình sớm, cho
năng suất cao và ổn định, thích nghi với điều kiện sinh thái vùng Đông Bắc.
2. Xác định được một số biện pháp kỹ thuật canh tác như: Mật độ khoảng cách
và thời vụ gieo trồng cho THL được lựa chọn ở một số tỉnh vùng Đông Bắc.
3. Xây dựng mô hình trình diễn THL ưu tú với biện pháp kỹ thuật phù hợp, nhằm
giới thiệu cho người trồng ngô, nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất ngô.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
– Kết quả nghiên cứu là cơ sở cho công tác chọn tạo giống ngô lai đạt hiệu
quả cao hơn.
– Bổ sung thêm dữ liệu khoa học về các giống ngô lai và một số biện pháp kỹ
thuật canh tác phù hợp với điều kiện sinh thái vùng Đông Bắc.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
– Xác định được 2 dòng ngô thuần là IL3 và IL6 có khả năng kết hợp chung
và phương sai khả năng kết hợp riêng cao làm vật liệu tạo giống ngô lai cho vùng
Đông Bắc.
– Xác định được THL IL3 x IL6, bước đầu đặt tên là Nông Lâm 36 (NL36)
có thời gian sinh trưởng trung bình sớm; có khả năng sinh trưởng, phát triển tốt; khả
năng chống chịu với một số loại sâu bệnh hại ngô chính khá; chống đổ gãy tốt; cho
năng suất cao và ổn định; thích nghi với điều kiện sinh thái vùng Đông Bắc.
– Xác định được mật độ 7 vạn cây/ha với khoảng cách 50 x 28 cm và thời vụ
gieo trồng trong vụ Xuân là từ đầu đến cuối tháng 2 dương lịch; vụ Thu từ đầu đến
trung tuần tháng 8 dương lịch phù hợp cho giống NL36 ở các tỉnh vùng núi Đông Bắc.
– Góp phần bổ sung thêm vào tập đoàn giống ngô lai, chuyển đổi cơ cấu cây
trồng cho các tỉnh vùng Đông Bắc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
– Nghiên cứu, đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất của 15
THL được tạo ra từ 6 dòng thuần theo phương pháp luân giao tại trường Đại học
Nông lâm Thái Nguyên, huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ.
– Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật canh tác cho giống NL36 thực hiện
tại trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên; huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn; huyện
Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
– Xây dựng mô hình trình diễn giống NL36 được thực hiện tại huyện Võ Nhai
tỉnh Thái Nguyên; huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn; huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
– Thời gian nghiên cứu: Từ vụ Thu 2008 đến vụ Xuân 2011