ThS17.009_Đặc điểm cấu trúc hình thức và ngữ nghĩa của tục ngữ dân tộc tày
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Người Tày (còn có tên gọi khác là Thổ, cùng nhóm địa phương với Ngạn, Phén, Thu Lao, Pa Dí) là một trong 54 dân tộc ở Việt Nam, có số dân vào khoảng 1,5 triệu người – số dân lớn thứ 2 sau người Kinh. Địa vực cư trú của người Tày thường tập trung chủ yếu ở vùng Đông Bắc của Tổ quốc như Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn…Đây là một trong những dân tộc có bản sắc văn hoá riêng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam. Ngôn ngữ của người Tày nói chung và tục ngữ nói riêng là một phần quan trọng trong nền văn hoá này. Vì vậy việc nghiên cứu tục ngữ dân tộc Tày trước hết là để hiểu rõ hơn về văn hoá Tày, góp phần giới thiệu và tôn vinh nền văn hoá của dân tộc Tày.
1.2. Tục ngữ Tày có thể coi là bộ bách khoa thư về cuộc sống muôn màu muôn vẻ của cộng đồng dân tộc Tày, là bộ phận quan trọng của nền văn hoá Tày. Vì thế tục ngữ Tày nói riêng cũng như tục ngữ nói chung đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau, đặc biệt là các ngành khoa học xã hội như: văn hoá, dân tộc học, lịch sử, văn học, ngôn ngữ học…Cho đến nay việc nghiên tục ngữ đã đạt được nhiều thành tựu lớn. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu về tục ngữ của các dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc Tày còn ít. Cụ thể, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu tục ngữ Tày ở góc độ ngon ngữ học về phương diện cấu trúc và ngữ nghĩa. Vì vậy có thể cho rằng, việc tìm hiểu về cấu trúc và ngữ nghĩa của tục ngữ dân tộc Tày là góp phần khai thác vốn văn hoá của dân tộc Tày ở một bình diện mới, làm rõ thêm nét đặc sắc của nền văn hoá dân tộc Tày.
1.3. Là người con của dân tộc Tày, đang sinh sống và làm việc nơi mảnh đất mà đa phần là người Tày đang sinh sống và học tập, tác giả luận văn thiết tha với tiếng nói và văn hoá của dân tộc mình, muốn bày tỏ tình yêu dân tộc và tiếng mẹ đẻ của mình bằng việc tìm hiểu, nghiên cứu về tục ngữ Tày, nơi chứa đựng nhiều giá trị độc đáo mang đậm bản sắc văn hoá tộc người. Bên cạnh đó, tác giả luận văn cũng hi vọng rằng, kết quả nghiên cứu về tục ngữ Tày sẽ giúp cho giáo viên và học sinh ở các tỉnh miền núi hiểu rõ hơn về ngôn ngữ của dân tộc Tày, đồng thời có thể vận dụng, học tập cách tư duy, cách diễn đạt mang bản sắc riêng của người Tày. Trên đây là những lí do thúc đẩy chúng tôi lựa chọn đề tài “Cấu trúc hình thức và ngữ nghĩa của tục ngữ dân tộc Tày”
2. Lịch sử vấn đề
2.1.Việc sưu tầm, biên soạn, nghiên cứu tục ngữ nói chung
Ở nước ta, trước thế kỉ XIX, các tác phẩm văn học chữ Hán và chữ Nôm đã có ít nhiều dấu vết của các tư tưởng dân gian vốn là nội dung của các câu tục ngữ. Nguyễn Trãi là một trong những người đầu tiên sử dụng một cách phổ biến tục ngữ dân gian vào sáng tác của mình. Bài thơ số 21 trong tập “Bảo kính cảnh giới” là một bài thơ tiêu biểu: “Ở bầu thì dáng ắt nên tròn, xấu tốt đều thì rắp
khuôn… ở đấng thấp thì nên dáng thấp, đen gần mực, đỏ gần son”. Mấy chục năm sau đó phải kể đến các sáng tác chữ Nôm như “Hồng Đức quốc âm thi tập” của Lê Thánh Tông (TK XV), “Bạch vân quốc ngữ thi tập” của Nguyễn Bỉnh Khiêm (TKXVI), “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, hay “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu…(TKXVIII,XIX). Trong các tác tác phẩm này, các tác giả đã sử dụng
khá nhiều câu tục ngữ. Trong điều kiện chưa phát hiện được một công trình sưu tầm tục ngữ nào thì các sáng tác của các tác giả kể trên được các nhà nghiên cứu tục ngữ đặc biệt coi trọng.
Từ thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX đã xuất hiện các công trình nghiên cứu về tục ngữ như: cuốn “Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn” xuất bản năm 1897 của Huỳnh Tịnh Của, “Tục ngữ và cách ngôn” (1920) của Hàn Thái Dương, “An Nam tục ngữ” (1933) của Vũ Như Lâm và Nguyễn Đa Gia, “Phong giao, cao dao, phương ngôn, tục ngữ” (1936) của Nguyễn Văn Chiểu, “Ngạn ngữ phong dao” (1941) của Nguyễn Can Mộng…Bên cạnh đó còn có những cuốn tục ngữ Việt Nam dịch sang tiếng Pháp của người Pháp như: Bài viết “Croyanceset dictosn populaires de la vallée Nguon Sơn, Quang Binh” (Tín ngưỡng và tục ngữ dân gian ở thung lũng Nguồn Sơn, Quảng Binh) của linh mục L.Cadiere, hay sưu tập “Pro verbes nanamites” (tục ngữ An Nam) của V. Barbier [14; 18]. Nhìn chung nội dung của các công trình trên chủ yếu sưu tầm tổng hợp gồm cả ca dao, phong dao, thành ngữ, bước đầu đã có cả sự phân tích và bình luận.
Cùng thời kì này phải kể đến công trình “Tục ngữ phong dao” của Nguyễn Văn Ngọc, xuất bản năm 1928 đã tổng hợp và giới thiệu 6.500 câu tục ngữ và thành ngữ. Cho đến nay công trình này vẫn được đáng giá rất cao trong việc sưu tầm tục ngữ Việt Nam. Tuy nhiên, đây vẫn chỉ là một công trình sưu tầm, chưa có sự nghiên cứu sâu về tục ngữ. Sau Cách mạng tháng tám (1945), có sự xuất hiện khá nhiều các công trình nghiên cứu về tục ngữ Việt Nam. Cuốn “Tục ngữ và dân ca” của tác giả Vũ Ngọc Phan, xuất bản lần đầu vào năm 1956, sau đó tái bản và bổ sung vào năm 1971, 1972. Công trình này đã biên soạn và trình bày tách biệt phần tục ngữ và ca dao, đây là điểm mới so với các cách trình bày trước đây. Ở cuốn sách này, tác giả Vũ Ngọc Phan đã cố gắng đi đến việc đưa ra những tiêu chí để phân biệt giữa thành ngữ với tục ngữ, ông đã viết như sau: “Tục ngữ là một câu, tự nó diễn đạt trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiêm…,còn thành ngữ là một phần câu có sẵn, là một bộ phận của câu mà nhiều người quen dùng, nhưng tự nó không diễn đạt được một ý trọn vẹn” 47; 31]. Có thế thấy đây là những nhận định khá mới mẻ so với những công trình trước đó, tuy những nhận định này còn mang tính khái quát, chưa cụ thể. Vì thế, các nhà ngôn ngữ học trong quá trình nghiên cứu về tục ngữ đã chú trọng đi sâu tìm hiểu, đưa ra những tiêu chí phân định giữa thành ngữ và tục ngữ (phần này sẽ được phân tích rõ hơn ở chương 1 của luận văn).
Cuốn “Tục ngữ Việt Nam” của nhóm tác giả (Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri), là công trình nghiên cứu công phu về tục ngữ Việt Nam. Ở công trình này, tác giả đã đưa ra quan điểm nghiểm nghiên cứu về tục ngữ trên hai bình diện, đó là nghiên cứu tục ngữ về mặt xã hội học, tức là nghiên cứu tục ngữ với tư cách là một hiện tượng ý thức xã hội và nghiên cứu tục ngữ ở bình diện là một hiện tượng ngôn ngữ, tức nghiên cứu tục ngữ với tư cách là một đơn vị thông báo có tính nghệ thuật. Từ đó tác giả khẳng định kho tàng tục ngữ Việt Nam “là một văn liệu quí giá do nhân dân lao động sáng tạo và tích luỹ từ hàng nghìn năm nay, trong đó kết tinh được những đặc điểm cơ bản nhất của lối nói dân gian, lối nói dân tộc” [16; 41]
Những năm 90 trở về đây, xuất hiện nhiều cuốn tục ngữ của các tác giả như: Mã Giang Lân, Châu Nhiên Khanh, hay nhóm tác giả Nguyễn Cừ, Nguyễn Thị Huế, Trần Thị An… Các công trình của các tác giả này chủ yếu là sưu tầm, biên soạn, tổng hợp và giới thiệu các đơn vị tục ngữ Việt Nam. Bên cạnh đó, có sự xuất hiện rất nhiều bài viết, luận văn, luận án nghiên cứu về tục ngữ Việt về nhiều bình diện khác nhau, rất phong phú và đa dạng, đạt được nhiều thành tựu rất đáng kể. Đây chính là cơ sở lí luận, là nguồn tư liệu quí giá, là tiền đề khoa học cho việc nghiên cưú tục ngữ các dân tộc khác trên đất nước Việt Nam, trong đó có tục ngữ dân tộc Tày