LA32.036_Công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý theo pháp luật Việt Nam
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án chủ yếu là các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL theo pháp luật Việt Nam. Đồng thời luận án cũng nghiên cứu các quy định pháp luật của một số nƣớc khác nhằm so sánh và rút ra các bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL ở Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
Công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL, pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực này và việc hoàn thiện nó là những vấn đề rất phức tạp không những về mặt lý luận mà còn cả về mặt thực tiễn.
Về nội dung, khi nghiên cứu đề tài đã lựa chọn, tác giả luận án tập trung làm rõ những vấn đề lý luận cũng nhƣ thực trạng các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL nhƣ thủ tục thành lập, hình thức và tƣ cách pháp lý, quản trị điều hành… và giải thể, phá sản CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý.
Về không gian, luận án tập trung chủ yếu nghiên cứu các quy định của pháp luật trong nƣớc; tuy nhiên, có sự phân tích, bình luận và so sánh với một số quy định của pháp luật nƣớc ngoài về cùng vấn đề để rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết cho quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam.
Về thời gian, luận án tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành để đánh giá chính xác thực trạng pháp luật Việt Nam về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL. Song để đảm bảo tính khả thi của các kiến nghị, giải pháp, luận án cũng nghiên cứu quá trình vận động và phát triển của các quy định pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL từ khi Pháp lệnh luật sƣ (2001) và LDN (1999) ra đời.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
* Mục đích nghiên cứu của luận án
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và chủ trƣơng hoàn thiện các thể chế của thị trƣờng nhằm đáp ứng những đòi hỏi của một nền kinh tế mở và nhu cầu đa dạng trong việc lựa chọn hình thức kinh doanh của ngƣời đầu tƣ, mục đích nghiên cứu của luận án là phân tích, đánh giá những vấn đề pháp lý về mô hình CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL để đƣa ra định hƣớng và tìm kiếm các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL tại Việt Nam.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận án đề ra và thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là, luận án nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, vài trò và ƣu thế của CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý.
Hai là, luận án nghiên cứu các biến thể của CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL theo pháp luật của một số nƣớc trên thế giới là CTLHD hữu hạn và CTLHD trách nhiệm hữu hạn.
Ba là, luận án nghiên cứu pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL ở một số nƣớc trên thế giới và rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam.
Bốn là, luận án nghiên cứu thực trạng pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL ở Việt Nam, chỉ ra những bất cập, hạn chế cần phải khắc phục; đồng thời khảo cứu, chỉ ra những khó khăn, vƣớng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL.
Năm là, luận án đƣa ra định hƣớng và một số giải pháp cụ thể cho việc hoàn thiện pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL tại Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
* Phương pháp luận của luận án
Khi nghiên cứu đề tài của luận án – một đề tài thuộc khoa học xã hội, tác giả luận án sử dụng phƣơng pháp luận biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về phát triển kinh tế và xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ đổi mới. Luận án cũng kế thừa kết quả của các công trình mà các tác giả đi trƣớc đã nghiên cứu về nhiều vấn đề có liên quan đến CTHD nói chung và CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý nói riêng ở Việt Nam.
* Phương pháp nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử, khi giải quyết các vấn đề thuộc nội dung nhiệm vụ của luận án, ngƣời viết sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp là quy nạp, phân tích, tổng hợp, so sánh…
Ở chƣơng 1, tác giả dùng phƣơng pháp quy nạp để xây dựng các định nghĩa, sử dụng phƣơng pháp phân tích, tổng hợp để nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, vai trò và ƣu thế của CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL; nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, vai trò, nguồn của pháp luật về CTHD trong lĩnh vực cung cấp DVPL ở Việt Nam; ngoài ra, thông qua phƣơng pháp phân tích, tác giả cũng tìm hiểu pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL ở một số nƣớc trên thế giới và rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam.
Trong chƣơng 2, tác giả sử dụng phƣơng pháp nổi bật là so sánh luật học nhằm tìm ra những điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật của một số nƣớc khác về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL, trên cơ sở đó tham khảo để hoàn thiện pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực này.
Tại chƣơng 3, về cơ bản tác giả sử dụng các phƣơng pháp phân tích và tổng hợp để đƣa ra định hƣớng và một số giải pháp có căn cứ khoa học, góp phần hoàn thiện pháp luật và thực thi có hiệu quả pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL ở Việt Nam trong thời gian tới.
5. Những đóng góp mới của luận án
Thông qua việc nghiên cứu có hệ thống đề tài này cùng với mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể, so với những công trình đã đƣợc công bố của các tác giả khác, Luận án đạt đƣợc một số điểm mới sau:
– Luận án làm rõ khái niệm, đặc điểm của CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL.
– Luận án khẳng định vai trò và chỉ ra ƣu thế của CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý so với các tổ chức cung cấp dịch vụ pháp lý khác.
– Luận án phân tích các biến thể của CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL theo pháp luật một số nƣớc trên thế giới là CTLHD hữu hạn và CTLHD trách nhiệm hữu hạn.
– Luận án tiếp cận và nghiên cứu pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL của một số quốc gia có nền kinh tế thị trƣờng phát triển (Hoa Kỳ Anh, Trung Quốc…) dƣới góc độ so sánh với pháp luật Việt Nam; trên cơ sở đó rút ra những kinh nghiệm lập pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về CTHD ở hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam trong tƣơng lai.
– Luận án phân tích và chỉ ra những thiếu sót, bất cập về thực trạng của pháp luật Việt Nam cũng nhƣ những khó khăn, vƣớng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật Việt Nam về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý.
– Luận án đề xuất định hƣớng cũng nhƣ một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm Phần tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và ba chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý và pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý.
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam.
Chƣơng 3: Định hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam.
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương dẫn nhập:
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 6
Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 6
Các nghiên cứu lý luận về công ty hợp danh và pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ
pháp lý 6
Các nghiên cứu về thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành
pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung
cấp dịch vụ pháp lý 19
Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến
đề tài luận án 24
Một số vấn đề liên quan đến đề tài luận án đã đƣợc nghiên
cứu trong các công trình khoa học đã công bố 24
Những vấn đề liên quan đến đề tài luận án chƣa đƣợc nghiên
cứu và luận án cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết 25
Lý thuyết nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết
nghiên cứu của luận án 26
Lý thuyết nghiên cứu 26
Câu hỏi nghiên cứu 26
Giả thuyết nghiên cứu 27
Kết luận chương dẫn nhập 28
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TY HỢP DANH HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ VÀ PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY HỢP DANH HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC CUNG CẤP
DỊCH VỤ PHÁP LÝ 29
1.1.
1.1.1.
Những vấn đề lý luận về công ty hợp danh hoạt động
trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý 29
Khái quát về dịch vụ pháp lý 29
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của công ty hợp danh hoạt động trong
lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý 33
1.1.3. Vai trò và ƣu thế của công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh
vực cung cấp dịch vụ pháp lý 36
1.1.4. Các biến thể của công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực
cung cấp dịch vụ pháp lý 42
1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.2.3.
Pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực
cung cấp dịch vụ pháp lý 51
Khái niệm, đặc điểm và nội dung chủ yếu của pháp luật về
công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ
pháp lý 51
Vai trò của pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong
lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý 54
Nguồn của pháp luật điều chỉnh đối với công ty hợp danh
hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý 55
1.2.4. Khái quát pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh
vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở một số nƣớc trên thế giới và
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 57
Kết luận chương 1 68
Chương 2:
2.1.
THỰC TRẠNG VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY HỢP DANH HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ Ở
VIỆT NAM 69
Thực trạng pháp luật về công ty hợp danh hoạt động
trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam 69
2.1.1. Thực trạng quy định về thành lập công ty hợp danh hoạt động
trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý 69
2.1.2. Thực trạng quy định về thành viên của công ty hợp danh hoạt
động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý 83
2.1.3. Thực trạng quy định về tƣ cách pháp nhân của công ty hợp
danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý 92
2.1.4.
2.1.5.
Thực trạng quy định về cơ cấu tổ chức, quản trị điều hành và cơ chế đại diện của công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý
Thực trạng quy định về quyền và nghĩa vụ của công ty hợp
danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý
97
103
2.1.6. Thực trạng quy định về tổ chức lại và chấm dứt hoạt động của công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch
2.2.
vụ pháp lý 105
Thực tiễn thi hành pháp luật về công ty hợp danh hoạt
2.2.1.
2.2.2.
động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam Một số kết quả đạt đƣợc khi thi hành pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý Một số khó khăn, vƣớng mắc cụ thể khi thực thi pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ
pháp lý
113
113
116
Kết luận chương 2 121
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY HỢP DANH HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ Ở
VIỆT NAM 122
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt
Nam 122
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở
Việt Nam 127
Kết luận chương 3 148
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
149
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt Viết đầy đủ BLDS Bộ luật Dân sự BLTM Bộ luật Thƣơng mại CTHD Công ty hợp danh
CTLHD Công ty luật hợp danh DVPL Dịch vụ pháp lý HĐTV Hội đồng thành viên LDN Luật Doanh nghiệp LLS Luật Luật sƣ
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TVHD TVGV
Thành viên hợp danh
Thành viên góp vốn
Nxb Nhà xuất bản
UK United Kingdom
UPA Uniform Partnership Act
ULPA Uniform Limited Partnership Act
USA United States of America
WTO World Trade Organization
1
1. Tính cấp thiết của đề tài
MỞ ĐẦU
Công ty là hình thức doanh nghiệp xuất hiện tƣơng đối sớm ở các nƣớc phát triển và trong lịch sử hình thành công ty trên thế giới, trong đó CTHD là loại hình xuất hiện sớm nhất. Ngƣời ta đã phát hiện những bằng chứng cho thấy các quy định về sự hợp danh tồn tại từ thời cổ, trung đại. Các tài liệu lịch sử chỉ ra rằng, khái niệm “hợp danh” lần đầu tiên xuất hiện trong Bộ luật Hămmurabi của Vƣơng quốc Babylon vào khoảng 2300 năm trƣớc công nguyên. Do hoàn cảnh xã hội và tâm lý kinh doanh, ban đầu sự liên kết rất đơn giản, chỉ diễn ra giữa các thƣơng nhân có sự quen biết, tin cậy lẫn nhau, cùng hùn hạp vốn hoặc uy tín để tiến hành hoạt động kinh doanh chung. Sự liên kết này của các thƣơng nhân đã tạo lập nên mô hình công ty đầu tiên là công ty đối nhân. Đây là loại công ty mà các thành viên thƣờng quan tâm đến yếu tố nhân thân của nhau hơn là yếu tố vốn.
Ở Việt Nam, nền tảng kinh tế xã hội là sản xuất nông nghiệp, nền văn minh thƣơng mại cùng với mô hình kinh doanh là công ty nói chung và CTHD nói riêng xuất hiện tƣơng đối muộn. Một trong những dấu ấn của thời kỳ đổi mới ở Việt Nam là sự ra đời của Luật Công ty (1990) và Luật Doanh nghiệp tƣ nhân (1990). Tuy nhiên, đây là những văn bản đầu tiên của thời kỳ đổi mới nên khó tránh khỏi những khiếm khuyết làm ảnh hƣởng đến sự phát triển toàn diện của nền kinh tế; do đó, LDN (1999) đã đƣợc Quốc hội khóa X thông qua, phản ánh sự hợp nhất, có sửa đổi, bổ sung hai đạo luật trên, đáp ứng những đòi hỏi thực tế của nền kinh tế. Nội dung của LDN (1999) có nhiều điểm mới. Một trong những điểm mới quan trọng nhất là việc quy định sự tồn tại về mặt pháp lý của CTHD. Mặc dù mới đƣợc ghi nhận trong LDN (1999), nhƣng trên thực tế, CTHD đã xuất hiện trong đời sống kinh doanh ở nƣớc ta trƣớc khi LDN (1999) đƣợc ban hành. Tiếp đó, các quy định về CTHD lại đƣợc cụ thể hóa hơn trong LDN (2005). Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua LDN (2014). Trong đạo luật này, quy chế pháp lý về CTHD đƣợc thể hiện trong mƣời một điều (từ Điều 172 đến Điều 182).
Pháp lệnh luật sƣ (2001) và LLS (2006) đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2012 đã quy định về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL – CTLHD, đây là cơ sở để CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL tổ chức và hoạt động một cách có hiệu quả. Các văn bản pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của CTLHD. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật về CTHD nói chung và về CTLHD nói riêng hiện nay vẫn còn khá sơ sài và có nhiều điểm chƣa rõ, chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu đa dạng hóa các hình thức kinh
2
doanh để thu hút vốn đầu tƣ vào thị trƣờng. Chất lƣợng của đội ngũ luật sƣ – thành viên công ty và hiệu quả hoạt động của CTLHD không cao, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; sự hành nghề của luật sƣ và CTLHD chƣa đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hƣởng tiêu cực tới sự phát triển của đội ngũ chuyên gia pháp lý làm việc trong các CTLHD và bản thân các CTLHD là do quy định của pháp luật chƣa thật sự minh bạch, thống nhất; các quy định về luật sƣ và CTLHD vẫn bộc lộ những hạn chế, bất cập trên cả phƣơng diện lý luận và thực tiễn làm ảnh hƣởng tới hiệu quả hoạt động của công ty, của thành viên và của khách hàng. Bên cạnh đó, có thể nhận thấy, hoạt động của các CTLHD thời gian qua chƣa đƣợc quan tâm đúng mức, thực hiện chủ yếu theo kinh nghiệm, chƣa đƣợc đầu tƣ nghiên cứu một cách cơ bản về lý luận, chậm tổng kết thực tiễn. Nói cách khác, loại hình công ty này chƣa thu hút đƣợc nhiều sự quan tâm, tìm hiểu của các nhà khoa học, trong khi nó có nhiều triển vọng phát triển ở Việt Nam.
Từ những điểm còn tồn tại nêu trên, sự nghiên cứu sâu sắc, cơ bản về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL và pháp luật về nó là điều cần thiết nhằm giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra, phục vụ cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về thị trƣờng nói chung và pháp luật về chủ thể kinh doanh nói riêng. Với lý do đó, tác giả chọn vấn đề “Công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học của mình. Thông qua việc nghiên cứu sẽ làm rõ thêm, bổ sung thêm cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn đối với CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL nhằm từng bƣớc hoàn thiện pháp luật về loại hình doanh nghiệp này trong điều kiện cải cách tƣ pháp, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án chủ yếu là các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL theo pháp luật Việt Nam. Đồng thời luận án cũng nghiên cứu các quy định pháp luật của một số nƣớc khác nhằm so sánh và rút ra các bài học kinh nghiệm cho việc hoàn thiện pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL ở Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
Công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL, pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực này và việc hoàn thiện nó là những vấn đề rất phức tạp không những về mặt lý luận mà còn cả về mặt thực tiễn.
3
Về nội dung, khi nghiên cứu đề tài đã lựa chọn, tác giả luận án tập trung làm rõ những vấn đề lý luận cũng nhƣ thực trạng các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL nhƣ thủ tục thành lập, hình thức và tƣ cách pháp lý, quản trị điều hành… và giải thể, phá sản CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL.
Về không gian, luận án tập trung chủ yếu nghiên cứu các quy định của pháp luật trong nƣớc; tuy nhiên, có sự phân tích, bình luận và so sánh với một số quy định của pháp luật nƣớc ngoài về cùng vấn đề để rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết cho quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL ở Việt Nam.
Về thời gian, luận án tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành để đánh giá chính xác thực trạng pháp luật Việt Nam về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL. Song để đảm bảo tính khả thi của các kiến nghị, giải pháp, luận án cũng nghiên cứu quá trình vận động và phát triển của các quy định pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL từ khi Pháp lệnh luật sƣ (2001) và LDN (1999) ra đời.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
* Mục đích nghiên cứu của luận án
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và chủ trƣơng hoàn thiện các thể chế của thị trƣờng nhằm đáp ứng những đòi hỏi của một nền kinh tế mở và nhu cầu đa dạng trong việc lựa chọn hình thức kinh doanh của ngƣời đầu tƣ, mục đích nghiên cứu của luận án là phân tích, đánh giá những vấn đề pháp lý về mô hình CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL để đƣa ra định hƣớng và tìm kiếm các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL tại Việt Nam.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận án đề ra và thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là, luận án nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, vài trò và ƣu thế của CTHD
hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL.
Hai là, luận án nghiên cứu các biến thể của CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL theo pháp luật của một số nƣớc trên thế giới là CTLHD hữu hạn và CTLHD trách nhiệm hữu hạn.
Ba là, luận án nghiên cứu pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL ở một số nƣớc trên thế giới và rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam.
Bốn là, luận án nghiên cứu thực trạng pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh
4
vực cung cấp DVPL ở Việt Nam, chỉ ra những bất cập, hạn chế cần phải khắc phục; đồng thời khảo cứu, chỉ ra những khó khăn, vƣớng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL.
Năm là, luận án đƣa ra định hƣớng và một số giải pháp cụ thể cho việc hoàn thiện pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL tại Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
* Phương pháp luận của luận án
Khi nghiên cứu đề tài của luận án – một đề tài thuộc khoa học xã hội, tác giả luận án sử dụng phƣơng pháp luận biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về phát triển kinh tế và xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ đổi mới. Luận án cũng kế thừa kết quả của các công trình mà các tác giả đi trƣớc đã nghiên cứu về nhiều vấn đề có liên quan đến CTHD nói chung và CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL nói riêng ở Việt Nam.
* Phương pháp nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử, khi giải quyết các vấn đề thuộc nội dung nhiệm vụ của luận án, ngƣời viết sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp là quy nạp, phân tích, tổng hợp, so sánh…
Ở chƣơng 1, tác giả dùng phƣơng pháp quy nạp để xây dựng các định nghĩa, sử dụng phƣơng pháp phân tích, tổng hợp để nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, vai trò và ƣu thế của CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL; nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, vai trò, nguồn của pháp luật về CTHD trong lĩnh vực cung cấp DVPL ở Việt Nam; ngoài ra, thông qua phƣơng pháp phân tích, tác giả cũng tìm hiểu pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL ở một số nƣớc trên thế giới và rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam.
Trong chƣơng 2, tác giả sử dụng phƣơng pháp nổi bật là so sánh luật học nhằm tìm ra những điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật của một số nƣớc khác về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL, trên cơ sở đó tham khảo để hoàn thiện pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực này.
Tại chƣơng 3, về cơ bản tác giả sử dụng các phƣơng pháp phân tích và tổng hợp để đƣa ra định hƣớng và một số giải pháp có căn cứ khoa học, góp phần hoàn thiện pháp luật và thực thi có hiệu quả pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL ở Việt Nam trong thời gian tới.
5. Những đóng góp mới của luận án
Thông qua việc nghiên cứu có hệ thống đề tài này cùng với mục tiêu và nhiệm
5
vụ cụ thể, so với những công trình đã đƣợc công bố của các tác giả khác, Luận án đạt đƣợc một số điểm mới sau:
– Luận án làm rõ khái niệm, đặc điểm của CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL.
– Luận án khẳng định vai trò và chỉ ra ƣu thế của CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL so với các tổ chức cung cấp DVPL khác.
– Luận án phân tích các biến thể của CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL theo pháp luật một số nƣớc trên thế giới là CTLHD hữu hạn và CTLHD trách nhiệm hữu hạn.
– Luận án tiếp cận và nghiên cứu pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL của một số quốc gia có nền kinh tế thị trƣờng phát triển (Hoa Kỳ Anh, Trung Quốc…) dƣới góc độ so sánh với pháp luật Việt Nam; trên cơ sở đó rút ra những kinh nghiệm lập pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về CTHD ở hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL ở Việt Nam trong tƣơng lai.
– Luận án phân tích và chỉ ra những thiếu sót, bất cập về thực trạng của pháp luật Việt Nam cũng nhƣ những khó khăn, vƣớng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật Việt Nam về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL.
– Luận án đề xuất định hƣớng cũng nhƣ một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm Phần
tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và ba chƣơng nhƣ sau: Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh
vực cung cấp dịch vụ pháp lý và pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý.
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam.
Chƣơng 3: Định hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam.
6
Chương dẫn nhập
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố ở trong và ngoài nƣớc liên quan đến các vấn đề cần giải quyết của đề tài luận án sẽ đƣợc tác giả phân tích, bình luận theo những vấn đề sau đây:
1.1. Các nghiên cứu lý luận về công ty hợp danh và pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý
1.1.1. Các nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm của công ty hợp danh
Cung cấp DVPL là một lĩnh vực hoạt động của CTHD. Khi thực hiện kinh doanh, CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL vừa phải tuân thủ các quy định trong LLS (2012) vừa phải tuân thủ các quy định của pháp luật về CTHD nói chung đƣợc quy định trong LDN (2014). Vì vậy, việc tìm hiểu các công trình đã nghiên cứu về CTHD nói chung có ý nghĩa lớn trong việc tham khảo để nghiên cứu đề tài luận án.
Trên thế giới có khá nhiều công trình đề cập đến khái niệm và đặc điểm của
CTHD nói chung, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu nhƣ sau:
– Trong bài báo “The general partnership in German law” (CTHD thông thƣờng theo pháp luật Đức) đăng tại địa chỉ: https://sas- space.sas.ac.uk/2562/1/Amicus79_Wooldridge.pdf, năm 2009, Frank Wooldridge đã định nghĩa CTHD và khẳng định số lƣợng thành viên của một hợp danh thông thƣờng không nhiều và có thể bao gồm cả cá nhân và tổ chức. Hợp danh có khả năng tham gia các giao dịch pháp lý, có quyền sở hữu tài sản, có thể kiện hoặc bị kiện trên danh nghĩa của chính công ty. Tuy nhiên, công ty không phải là pháp nhân mà chỉ đƣợc coi là một hội gồm các đồng chủ sở hữu chung.
– Trong bài báo “The general partnership under the French law” (CTHD thông thƣờng theo pháp luật Pháp) đăng tại địa chỉ https://sas- space.sas.ac.uk/2281/1/Amicus77_Wooldridge.pdf, Frank Wooldridge viết rằng: “Một hợp danh thường (société en nom collectif – SNC) là loại hình công ty mà tất cả các thành viên đều phải là thương nhân (commercants), các thành viên phải chịu trách nhiệm cá nhân và vô hạn đối với các chủ nợ về tất cả các khoản nợ của công ty” [90, tr. 29]. Theo pháp luật của Pháp, phần vốn góp của một thành viên (ít nhất) về nguyên tắc là không thể chuyển nhƣợng, cái chết hoặc sự phá sản của một thành viên có thể dẫn đến sự giải thể của công ty nhƣng sự giải thể của công ty không ảnh
7
hƣởng đến phạm vi nghĩa vụ của các thành viên, họ vẫn phải chịu trách nhiệm chung và liên đới đối với các bên thứ ba.
– Trong quyển sách “Comprehensive Business Law: Principles and Cases” (Luật kinh doanh phổ quát: Những nguyên tắc và án lệ), Nxb. Kent, USA, năm
1987 của các tác giả Daniel V. Davidson, Brenda E. Knowles, Lynn M. Forsythe và Robert R. Jespersen đã chỉ ra năm đặc điểm chính của một hợp danh bao gồm: (i) Là một hội; (ii) Có hai hoặc nhiều ngƣời; (iii) Cùng tiến hành kinh doanh; (iv) Là đồng chủ sở hữu và (v) Vì lợi nhuận.
– Trong quyển sách “Comparative Company Law: Text and cases on the laws governing corporations in Germany, the UK and the USA” (Luật công ty so sánh: Các án lệ theo pháp luật điều chỉnh các công ty ở Đức, Anh và Hoa Kỳ), Cambridge University Press, năm 2010 của Andreas Cahn and David C. Donald đã trình bày khái niệm, đặc điểm của các loại hợp danh (hợp danh chuyên nghiệp, hợp danh thông thƣờng, hợp danh hữu hạn, hợp danh trách nhiệm hữu hạn) theo pháp luật của Đức, Anh và Hoa Kỳ. So với các công trình khác, đây là công trình nghiên cứu toàn diện các loại hợp danh của ba quốc gia: Đức, Anh và Hoa Kỳ.
– Trong quyển sách “European comparative company law” (Luật Công ty so sánh ở châu Âu), Cambridge University Press, xuất bản lần đầu tiên năm 2009, tái bản năm 2012 của Mads Andenas và Frannk Wooldridge phân tích, trình bày và so sánh khái niệm, đặc điểm của các hợp danh ở một số quốc gia châu Âu nhƣ Anh, Pháp, Đức, Bỉ, Italia, Tây Ban Nha… Về khái niệm, pháp luật của các nƣớc đều xác định hợp danh là sự liên kết của các nhà kinh doanh trên cơ sở hợp đồng nhằm mục đích lợi nhuận; về đặc điểm, các tác giả đều trình bày đặc điểm về tƣ cách pháp lý của hợp danh, đặc điểm về chế độ trách nhiệm của thành viên… Đây là một công trình nghiên cứu toàn diện hơn cả về CTHD theo pháp luật của các nƣớc ở châu Âu, có giá trị tham khảo khá cao so với các công trình khác.
Ở Việt Nam, có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến khái niệm, đặc điểm của CTHD nói chung. Một số công trình tiêu biểu nhƣ:
– Trong công trình “Luật Thương mại toát yếu”, Quyển 2, do Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản năm 1959, Lê Tài Triển gọi CTHD là công ty đồng danh, đây là hình thức kinh doanh đƣợc thành lập giữa những ngƣời buôn bán, mỗi hội viên phải chịu trách nhiệm bản thân với ngƣời đệ tam và liên đới với nhau.
– Trong chuyên đề “Pháp luật về công ty” năm 1996, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tƣ pháp và trong công trình “Một số vấn đề về công ty và hoàn thiện pháp luật về công ty ở Việt Nam hiện nay” năm 1998, Nxb. Chính trị Quốc gia
8
Hà Nội, Nguyễn Thị Thu Vân đều định nghĩa và nêu các đặc điểm của hai loại hình công ty là CTHD và công ty hợp vốn đơn giản. Theo tác giả này, CTHD có bốn đặc điểm là: (i) Các thành viên đều có phần của mình trong công ty; (ii) CTHD phải hoạt động dƣới một hãng chung và việc đặt tên công ty phải theo nguyên tắc do luật định; (iii) Các thành viên đều có tƣ cách thƣơng gia; (iv) Tất cả các thành viên đều phải chịu trách nhiệm bản thân, liên đới và vô giới hạn về các khoản nợ của công ty.
– Trong bài viết “Khái niệm công ty hợp danh trong Luật Doanh nghiệp năm
2005” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6/2009, tác giả Ngô Huy Cƣơng đã phân tích khá kỹ khái niệm CTHD. Theo ngƣời viết, các nhà lập pháp Việt Nam đã có sự sai lầm trong quan niệm về CTHD khi gắn CTHD thông thƣờng với một loại hình công ty khác là công ty hợp vốn đơn giản để cùng gọi là CTHD. Điều này dẫn đến nhiều quy định không thích hợp với chúng. Ngoài ra, tác giả kiến nghị rằng pháp luật cần phải thừa nhận pháp nhân cũng có thể là thành viên của CTHD, bởi lẽ, trong Luật Đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã quy định một hình thức đầu tƣ là hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các bên trong hợp đồng này có thể là pháp nhân. Bản chất của hình thức hợp tác này giống nhƣ bản chất của CTHD theo quan niệm của các luật gia trên thế giới.
Ngoài ra, một số luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ ngành luật học tại Việt
Nam cũng đề cập đến khái niệm, đặc điểm của CTHD, thí dụ nhƣ:
– Trong công trình “Một số vấn đề pháp lý về công ty hợp danh”, Luận văn thạc sĩ luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, năm 2003, Vũ Đặng Hải Yến đã nêu khái niệm và chỉ rõ ba đặc điểm của CTHD là: (i) Phần vốn của các thành viên trong công ty thƣờng thể hiện dƣới dạng đặc biệt – “chất xám” nhƣ kinh nghiệm, uy tín nghề nghiệp, bằng cấp…; (ii) Chế độ trách nhiệm của mỗi loại thành viên trong công ty là khác nhau – TVHD chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới đối với mọi khoản nợ của công ty, TVGV chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn góp vào công ty; (iii) Một CTHD thông thƣờng hoạt động dƣới một cái tên và cái tên này có ý nghĩa rất lớn đối với công ty. Trên cơ sở phân tích khái niệm, đặc điểm của CTHD nói chung, tác giả làm rõ khái niệm, đặc điểm của CTHD theo pháp luật Việt Nam trong sự so sánh tổng thể với pháp luật của một số nƣớc ở Đông Nam Á nhƣ Singapore, Malaysia…
– Trong công trình “So sánh pháp luật Việt Nam và pháp luật Nhật Bản về công ty hợp danh”, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015, sau khi phân tích khái niệm CTHD theo pháp luật của ba nƣớc (Thái Lan, Pháp, Hoa Kỳ), tác giả Lục Việt Dũng khẳng định các quốc gia khác
9
nhau có những quan niệm khác nhau về CTHD tùy thuộc vào điều kiện lịch sử thƣơng mại, cách nhìn nhận của các nhà lập pháp… và đƣa ra những dấu hiệu chung của CTHD là: (i) Đều mang bản chất đối nhân; (ii) Xem trọng yếu tố nhân thân của các thành viên và không có sự tách bạch tài sản của TVHD với công ty; (iii) TVHD phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ của công ty. Sau đó, tác giả tìm hiểu khái niệm, đặc điểm của CTHD theo LDN (2014) và theo pháp luật của Nhật Bản.
– Trong công trình “Pháp luật về công ty hợp danh ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Viện nhà nƣớc và pháp luật, năm 2012, Nguyễn Thị Huế đã nêu khái niệm chung về CTHD, trên cơ sở đó tác giả phân tích và tìm hiểu pháp luật của một số nƣớc trên thế giới (Nhật Bản, Pháp, Hoa Kỳ, Việt Nam) về CTHD đồng thời chỉ ra bốn đặc điểm chung của CTHD bao gồm: (i) Chủ thể đầu tƣ vốn vào CTHD; (ii) Hình thức pháp lý của CTHD; (iii) Tƣ cách pháp lý của CTHD, trách nhiệm tài sản trong CTHD. Trong đặc điểm về hình thức pháp lý của CTHD, tác giả đã nêu khái niệm và một số khía cạnh nổi bật của hai dạng CTHD phổ biến nhất là CTHD thông thƣờng và CTHD hữu hạn theo pháp luật của một số nƣớc trên thế giới. So với các công trình khác, đây là công trình nghiên cứu tƣơng đối đầy đủ về khái niệm, đặc điểm của CTHD nói chung.
Bên cạnh các công trình trên, hầu hết các giáo trình chuyên ngành luật kinh tế của các trƣờng đại học đào tạo luật khi viết về CTHD đều có đề cập đến khái niệm, đặc điểm của loại hình công ty này. Đặc biệt trong Giáo trình pháp luật doanh nghiệp của Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng (Chủ biên: Bùi Ngọc Sơn), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2011, các tác giả đã tìm hiểu khái niệm, đặc điểm của CTHD theo pháp luật của một số nƣớc trên thế giới. Theo giáo trình trên, CTHD là doanh nghiệp đƣợc thành lập bởi hai hay nhiều thành viên đƣợc gọi là thành viên đích danh. Thành viên trong công ty không những chịu trách nhiệm trong kinh doanh bằng phần vốn góp của mình vào công ty mà còn bằng cả tài sản riêng của mình. Chủ nợ của CTHD có thể đòi đƣợc trả nợ bằng tất cả tài sản của một thành viên. Các thành viên đích danh có trách nhiệm vô hạn và liên đới về các trái vụ của công ty. CTHD có một số đặc điểm: Về thành viên; về trách nhiệm vô hạn và liên đới của thành viên; về quản lý; về chuyển nhƣợng quyền lợi của thành viên; về thuế; về chấm dứt hợp danh.
Tóm lại, về khái niệm CTHD, các công trình đều nhất trí cho rằng đây là một dạng công ty đối nhân, có sự liên kết của ít nhất hai thành viên, các thành viên đều chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới; còn về đặc điểm, các tác giả thƣờng trình bày
10
những đặc điểm về: (1) Tƣ cách pháp lý; (2) Chế độ trách nhiệm; (3) Hình thức
pháp lý; (4) Quản trị điều hành và cơ chế đại diện.
1.1.2. Các nghiên cứu về hình thức pháp lý của công ty hợp danh
Pháp luật của các nƣớc thƣờng quy định sự tồn tại của một hoặc một số loại hợp danh (hợp danh thông thƣờng, hợp danh hữu hạn hay hợp danh TNHH…). Những quy định về các loại hình hợp danh này đều có điểm khác biệt. Vì thế, pháp luật của các quốc gia luôn phân định rõ ràng các hình thức pháp lý của hợp danh để trên cơ sở này xây dựng những mô hình điều chỉnh pháp luật phù hợp và đầy đủ đối với chúng. Nghiên cứu về “hình thức pháp lý” của hợp danh là một đề tài thu hút nhiều nhà nghiên cứu tại Việt Nam cũng nhƣ ở các quốc gia khác.
Trên phạm vi thế giới đã có một số công trình đề cập tới các hình thức pháp lý của CTHD. Một số bài viết điển hình là:
– Trong bài viết “Company Law and Securities” (Pháp luật công ty và Chứng khoán) đăng trên Tạp chí Australian Business Law, số 38, năm 2010, Robert J Wilczek tìm hiểu và so sánh bốn loại hợp danh, là hợp danh thông thƣờng, hợp danh hữu hạn, hợp danh trách nhiệm hữu hạn và hợp danh hữu hạn trách nhiệm hữu hạn, đồng thời chỉ ra những ƣu, nhƣợc điểm của các loại hợp danh này theo pháp luật Hoa Kỳ.
– Trong bài viết “Partnerships” (Các công ty hợp danh), đăng tại địa chỉ: http://www.referenceforbusiness.com/encyclopedia/Oli-Per/Partnerships.html, tác giả đã phân tích về các loại hình hợp danh ở Hoa Kỳ bao gồm hợp danh thông thƣờng (vấn đề thành lập, những ƣu điểm, hạn chế so với hợp danh hữu hạn và công ty cổ phần, việc góp vốn, hợp đồng hợp danh, vấn đề thuế, trách nhiệm do hành vi vi phạm của các thành viên); hợp danh hữu hạn (so sánh ƣu điểm và hạn chế của nó với công ty cổ phần và hợp danh thông thƣờng, quyền của TVHD và TVGV, vấn đề thuế); hợp danh trách nhiệm hữu hạn và hợp danh hữu hạn trách nhiệm hữu hạn.
– Trong quyển sách “Business Law: Text and Cases” (Pháp luật kinh doanh: Các án lệ) của các tác giả Kenneth. W, Clarkson, Rogerte Roy Miller và Frank B. Cross, năm 2015 đã phân tích bốn loại hợp danh theo pháp luật Hoa Kỳ là hợp danh thông thƣờng, hợp danh hữu hạn, hợp danh trách nhiệm hữu hạn và hợp danh hữu hạn trách nhiệm hữu hạn.
– Trong quyển sách: “Comparative Company Law: Text and cases on the laws governing corporations in Germany, the UK and the USA” (Luật công ty so sánh: Các án lệ theo luật điều chỉnh công ty ở Đức, Anh và Hoa Kỳ) năm 2010 của Andreas Cahn and David C. Donald đã trình bày và so sánh các hình thức CTHD
11
theo pháp luật của Đức, Anh và Hoa Kỳ.
– Trong quyển sách “European comparative company law” (Luật Công ty so sánh ở châu Âu), năm 2012, Mads Andanas và Frank Wooldridge cũng phân tích và so sánh các loại CTHD (hợp danh thông thƣờng, hợp danh hữu hạn, hợp danh trách nhiệm hữu hạn…) của một số nƣớc ở châu Âu (Anh, Pháp…).
Tại Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu pháp luật của nƣớc ngoài về
hình thức của CTHD nhƣ:
– Trong tác phẩm “Pháp luật Singapore về các hình thức tổ chức kinh doanh”, Tạp chí Luật học số 12/ 2009, trong phần CTHD, tác giả Vũ Thị Lan Anh đã tìm hiểu về ba loại hợp danh của Singapore là hợp danh thông thƣờng, hợp danh hữu hạn và hợp danh trách nhiệm hữu hạn. Theo tác giả, hợp danh của Singapore gồm có hai ngƣời trở lên cùng tiến hành hoạt động kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận, không có tƣ cách pháp nhân và tối đa không quá hai mƣơi thành viên. Hợp danh hữu hạn là hợp danh không có tƣ cách pháp nhân gồm hai hay nhiều thành viên, không giới hạn số lƣợng tối đa, trong đó có ít nhất một TVHD thông thƣờng chịu trách nhiệm vô hạn và thành viên hữu hạn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Hợp danh trách nhiệm hữu hạn có tƣ cách pháp nhân, có ít nhất hai thành viên, không hạn chế số lƣợng tối đa và chỉ chịu trách cá nhân trƣớc những rủi ro hoặc khoản nợ phát sinh do hành vi thiếu cẩn trọng của mình mà không chịu trách nhiệm về các hành vi sai trái của các thành viên khác.
– Trong bài viết “Hình thức pháp lý doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ luật so sánh”, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 4/2003, tác giả Nguyễn Am Hiểu cũng có đề cập đến hình thức pháp lý của CTHD. Theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ, hình thức pháp lý của doanh nghiệp gồm: Corporation, business và hợp tác xã. Trong đó, business bao gồm hai dạng cơ bản là business một chủ và hợp danh (partnership). Hệ thống pháp luật châu Âu lục địa chia các doanh nghiệp làm ba loại cơ bản là doanh nghiệp một chủ, các công ty và hợp tác xã. Các công ty có hai nhóm gồm nhóm công ty đối nhân và nhóm công ty đối vốn; trong nhóm công ty đối nhân có CTHD. Còn ở Việt Nam hiện đang tồn tại một số chủ thể kinh doanh nhƣ hợp tác xã, doanh nghiệp tƣ nhân… và CTHD.
– Trong đề tài cấp Bộ “Cải cách pháp luật về doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” do tác giả Bùi Nguyên Khánh làm chủ nhiệm, năm 2016 cũng nêu các hình thức pháp lý của hợp danh theo pháp luật một số nƣớc (Anh, Mỹ, Singapore, Malaysia, Nhật Bản và Đức).
– Trong công trình “Thể chế pháp luật kinh tế một số quốc gia trên thế giới”,
12
Nxb. Tài chính, năm 2016 do nhóm tác giả Nguyễn Văn Giàu, Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Đình Cung làm chủ biên đã phân tích và tìm hiểu các loại hợp danh theo pháp luật của Hoa Kỳ và một số quốc gia khác. Trong công trình này, nhóm tác giả cũng làm rõ một số vấn đề trong công ty nhƣ quan hệ giữa các thành viên, luận về tƣ cách pháp nhân của hợp danh, so sánh đặc điểm của các hợp danh cũng nhƣ trình bày một số quy định về thành lập CTHD trách nhiệm hữu hạn và trách nhiệm của thành viên trong CTHD trách nhiệm hữu hạn.
Ngoài các công trình trên, trong các giáo trình của những trƣờng đại học có đào tạo luật đều đề cập đến hình thức pháp lý của CTHD. Thí dụ, Giáo trình Luật Thƣơng mại Việt Nam của Trƣờng đại học Luật Hà Nội, Tập 1, Nxb. Tƣ pháp, năm
2018 do các tác giả Nguyễn Viết Tý và Nguyễn Thị Dung làm đồng chủ biên, Giáo trình pháp luật về chủ thể kinh doanh của Trƣờng Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức, năm 2013, do tác giả Bùi Xuân Hải làm chủ biên…
Một số nghiên cứu khác đƣợc đăng trên các tạp chí khoa học tại Việt Nam có đề cập đến “hình thức pháp lý” của CTHD nhƣ: “Một vài khía cạnh pháp lý về chế độ trách nhiệm của công ty hợp danh” của Bùi Nguyên Khánh năm 1998, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 8; “Hướng hoàn thiện pháp luật liên quan đến công ty hợp danh ở Việt Nam hiện nay” của Vũ Đặng Hải Yến năm 2004, Tạp chí Luật học số 3; “Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn về các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam” của Đồng Ngọc Ba năm 2005, Tạp chí Luật học số 1; “Pháp luật doanh nghiệp và đầu tư với vấn đề hội nhập” của Bùi Xuân Hải năm 2008, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1; “Dự án sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2005: Bình luận những vấn đề pháp lý chủ yếu” của Ngô Huy Cƣơng năm 2014, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7; “Hình thức pháp lý của công ty hợp danh” của Nguyễn Thị Huế năm 2011, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 6; “Phân biệt công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản theo Luật Doanh nghiệp năm 2014” của Nguyễn Vinh Hƣng năm
2015, Tạp chí Nghề luật số 11. „Công ty hợp danh theo Luật Doanh nghiệp năm
2014: Bất cập và kiến nghị hoàn thiện” của Nguyễn Thị Yến năm 2017, Tạp chí
Luật học số 1…
Trong tác phẩm của mình, Vũ Đặng Hải Yến nhận xét về quy định của LDN rằng CTHD có thể đƣợc chia thành hai loại: Loại thứ nhất chỉ bao gồm các TVHD; và loại thứ hai lại có thêm các TVGV (tác giả gọi đây là CTHD hữu hạn). Trong khi đó, Bùi Xuân Hải chỉ ra hợp danh thông thƣờng là hợp danh mà chỉ có một loại thành viên (partners), tất cả đều chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của hợp danh, tất cả thành viên đều tham gia điều hành kinh doanh. Hợp danh hữu hạn thì có
13
hai loại thành viên: (1) Các thành viên chỉ góp vốn để lấy lời và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi phần vốn góp vào hợp danh, nhƣng không đƣợc tham gia quản lý – điều hành (limited partner); và (2) Thành viên chịu trách nhiệm vô hạn và có quyền quản lý điều hành kinh doanh (general partners). Bài viết của Ngô Huy Cƣơng trong giai đoạn góp ý cho dự thảo LDN sửa đổi cũng thể hiện quan điểm cần phải tách CTHD hữu hạn ra khỏi CTHD thông thƣờng vì chúng là các hình thức công ty khác nhau. Nguyễn Thị Huế lại tiếp cận và phân tích hai hình thức CTHD điển hình trên thế giới là CTHD thông thƣờng và CTHD hữu hạn, đồng thời so sánh với hình thức của CTHD ở Việt Nam. Theo tác giả, việc xác định hình thức CTHD nhƣ trong LDN (2005) là chƣa thật sự phù hợp, không có sự tách bạch giữa hai loại CTHD là CTHD thông thƣờng và CTHD hữu hạn. Ngƣời viết cũng đề xuất một số kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến vấn đề trên, đặc biệt là trong định nghĩa về CTHD. Bên cạnh đó, Nguyễn Vinh Hƣng cũng viết: “Việc quy định hình thức pháp lý của công ty hợp danh trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 là chưa chính xác và chưa phản ánh đúng bản chất thực sự của loại hình công ty này… chúng ta nên tách bạch rõ ràng giữa công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản” [42, tr.13]. Còn tác giả Bùi Nguyên Khánh thì khuyến nghị cần quy định cụ thể có mấy loại CTHD và để chuẩn xác về mặt thuật ngữ thì cũng nên gọi CTHD có cả TVHD và TVGV là công ty hợp vốn đơn giản, còn công ty có tất cả các thành viên đều là TVHD thì gọi là CTHD. Chỉ nhƣ vậy mới có thể phân biệt hai loại hình CTHD này rõ ràng về tên gọi. Nguyễn Thị Yến trong bài viết của mình cũng kiến nghị: “Cần quy định tách biệt khái niệm CTHD thành các loại công ty riêng và định danh cụ thể đối với từng loại hình công ty mà không sử dụng chung khái niệm “công ty hợp danh” [80, tr.91, 92].
Tóm lại, đối với các công trình ở nƣớc ngoài khi nghiên cứu về hình thức pháp lý của CTHD thì đều tập trung vào bốn loại hình chính là CTHD thông thƣờng, CTHD hữu hạn, CTHD trách nhiệm hữu hạn và CTHD hữu hạn trách nhiệm hữu hạn; đối với các công trình nghiên cứu ở trong nƣớc thì đều nhấn mạnh đến việc LDN không tách bạch dứt khoát giữa hai hình thức hợp danh là CTHD thông thƣờng và CTHD hữu hạn.
1.1.3. Các nghiên cứu về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh
Trên thế giới, công trình Partnership Law (Pháp luật hợp danh) trên website: http://lawcom.gov.uk năm 2003 do Ủy ban luật pháp của Anh và X-cốt-len biên soạn trong phần tƣ cách pháp lý của hợp danh có phân tích và chỉ ra rằng các hợp danh ở Anh không có tƣ cách pháp nhân nhƣng hợp danh ở X-cốt-len lại có tƣ cách
14
pháp nhân và cuối cùng các tác giả đã khuyến nghị Anh nên học tập kinh nghiệm của X-cốt-len thừa nhận tƣ cách pháp lý độc lập cho hợp danh, bởi nhƣ vậy sẽ có lợi hơn so với quy định cũ trong Luật Hợp danh (1890) là hợp danh không có tƣ cách pháp lý độc lập.
Ở Việt Nam có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến tƣ cách pháp nhân của CTHD nhƣ:
– Trong bài viết “Cần quy định hợp lý về công ty hợp danh”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6/2005, tác giả Đỗ Văn Đại đã khuyến nghị rằng nên thừa nhận tƣ cách pháp nhân cho CTHD. Nếu không thừa nhận tƣ cách pháp nhân, để đảm bảo cho doanh nghiệp này tham gia tố tụng hay giao dịch với ngƣời thứ ba, chúng ta sẽ phải thiết lập một số khái niệm pháp luật hay kỹ thuật pháp lý khác. Công việc này không đơn giản và sẽ phức tạp hơn việc thừa nhận tƣ cách pháp nhân của CTHD [21, tr.54].
– Trong bài viết “Về tư cách pháp lý của công ty hợp danh theo quy định của pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 4/2006, Nguyễn Thị Huế cho rằng mặc dù LDN (1999) không xác định tƣ cách pháp lý cho CTHD nhƣng từ việc xem xét trách nhiệm của các thành viên trong công ty có thể suy ra CTHD không có tƣ cách pháp nhân. Song LDN (2005) lại quy định CTHD có tƣ cách pháp nhân. Tác giả bài viết cho rằng điều này là phi lý vì CTHD không có sự tách bạch về tài sản giữa thành viên với công ty và công ty phải chịu trách nhiệm vô hạn. Hơn nữa, dƣới góc độ pháp lý, công ty cũng không đủ điều kiện để trở thành pháp nhân vì nó không phù hợp với bất kỳ tƣ cách chủ thể nào trong bốn chủ thể của quan hệ pháp luật là pháp nhân, cá nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác.
– Trong bài viết “Về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh” trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1/2008, Lê Việt Anh khẳng định việc pháp luật Việt Nam thừa nhận CTHD có tƣ cách pháp nhân là dấu hiệu thể hiện tính đặc thù. Song, qua phân tích, tác giả nhận định việc thừa nhận tƣ cách pháp nhân cho CTHD là không phù hợp với lợi ích nói chung và lợi ích của các thành viên nói riêng. Từ đó, tác giả khẳng định lợi ích của việc thừa nhận CTHD có tƣ cách pháp nhân là không cao, thậm chí còn hạn chế sự phát triển của loại hình công ty này, không tƣơng thích với quy định của pháp luật đa số các nƣớc trên thế giới. Điều này gây ra những bất lợi cho quá trình hội nhập khi Việt Nam đã là thành viên của WTO.
– Trong bài viết “Công ty hợp danh có hay không có tư cách pháp nhân” trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 7/2011, Nguyễn Vinh Hƣng đã khẳng định có nƣớc thừa nhận CTHD có tƣ cách pháp nhân, có nƣớc không thừa nhận, có nƣớc lại
15
coi nó có tƣ cách pháp nhân khi phá sản…. Còn ở Việt Nam, theo tác giả, các quy định của BLDS (2005) và LDN (2005) về CTHD là thiếu nhất quán, vì các quy định của BLDS (2005) cho thấy CTHD không có tƣ cách pháp nhân; còn theo LDN (2005) thì CTHD lại có tƣ cách pháp nhân. Sau khi phân tích và đƣa ra các lý lẽ về vấn đề CTHD có tƣ cách pháp nhân hay không, tác giả kết luận nhà làm luật không thể tùy tiện quy định CTHD là một pháp nhân hay không phải là pháp nhân mà phải căn cứ vào bản chất của loại hình doanh nghiệp này.
– Trên Tạp chí Kiểm sát số 10/2013, trong tác phẩm “Bàn về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh theo quy định của Luật Doanh nghiệp”, tác giả Nguyễn Văn Đông kết luận việc LDN (2005) quy định CTHD có tƣ cách pháp nhân là không phù hợp vì các TVHD phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ của công ty. Quyền lợi của các thành viên sẽ không đƣợc bảo đảm do phần lợi nhuận thu đƣợc của công ty có thể bị đánh thuế hai lần. Tác giả cũng nêu một số mâu thuẫn phát sinh từ việc quy định CTHD có tƣ cách pháp nhân, chẳng hạn khi công ty bị phá sản thì vấn đề trách nhiệm tài sản của công ty và thành viên công ty sẽ đƣợc xử lý nhƣ thế nào để đảm bảo lợi ích của những ngƣời có liên quan. Từ đó, tác giả kiến nghị sửa đổi Điều 130 LDN (2005) theo hƣớng quy định CTHD không có tƣ cách pháp nhân để phù hợp với xu thế chung của thế giới khi Việt Nam đã là thành viên của WTO.
– Đồng tác giả Trần Ngọc Dũng và Trần Ngọc Anh trong bài viết “Các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về công ty hợp danh và giải pháp hoàn thiện” đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 3/2017 cho rằng việc LDN (2014) quy định CTHD có tƣ cách pháp nhân đem lại một số thuận lợi cho việc thành lập, tổ chức và hoạt động của CTHD nhƣng không nên quy định tƣ cách pháp nhân cho CTHD, chỉ có nhƣ vậy CTHD mới đƣợc thành lập và hoạt động với đúng tính chất của một công ty đối nhân
– Trong công trình “Pháp luật về công ty hợp danh ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, năm 2012, Nguyễn Thị Huế cho rằng LDN (2005) quy định CTHD có tƣ cách pháp nhân là không phù hợp vì (1) nó mâu thuẫn với BLDS, trái với bản chất của hợp danh và (2) nhiều nƣớc trên thế giới đều quy định CTHD không có tƣ cách pháp nhân.
Có thể thấy, đa số các công trình trên đều khẳng định việc LDN trao cho CTHD tƣ cách pháp nhân là không hợp lý, mâu thuẫn với quy định của BLDS và trái với bản chất của CTHD.
1.1.4. Các nghiên cứu về cơ cấu tổ chức, quản trị điều hành và cơ chế đại diện
16
của công ty hợp danh
– Trong bài viết “The general partnership under French law” (CTHD thông thƣờng theo pháp luật của Pháp) đăng năm 2009, Frank Wooldridge (British Institute of International and Comparative Law) đã phân tích một cách cụ thể loại hình doanh nghiệp này về các khía cạnh: Vị trí của các thành viên trong công ty; vấn đề quản lý công ty (bổ nhiệm, sa thải, quyền hạn và trách nhiệm của ngƣời quản lý, quyền hạn của những thành viên không phải là ngƣời quản lý…); hậu quả khi một thành viên chết. Tác giả chỉ rõ CTHD thông thƣờng tƣơng đối phổ biến ở Pháp và chủ yếu đƣợc thành lập bởi các cơ sở kinh doanh gia đình. Trong một số nghề nhất định, CTHD dân sự đƣợc sử dụng để thay thế các CTHD thƣơng mại (CTHD thông thƣờng).
– Cuốn sách “The law of corporations and other business organisations” (Pháp luật về công ty và các hình thức tổ chức kinh doanh khác), Nxb. Cengage Learning, 6th Edition xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2012 là của Angela Schneeman. Đây là công trình viết chuyên sâu về pháp luật dành cho các tổ chức kinh doanh. Nội dung của nó tập trung chủ yếu vào việc trình bày các hình thức kinh doanh nhƣ công ty, doanh nghiệp tƣ nhân và các loại hợp danh bao gồm hợp danh thông thƣờng, hợp danh hữu hạn, hợp danh TNHH và hợp danh hữu hạn TNHH. Trong công trình này, ngoài việc phân tích về cấu trúc vốn, hợp đồng hợp danh, tác giả lần
lƣợt tìm hiểu về cơ cấu tổ chức quản lý của từng loại hợp danh.
– Năm 2006 Peter Layer phát hành cuốn sách “Legal forms in the global marketplace: Effect on international business” (Những hình thức pháp lý trên thị trƣờng thế giới: Ảnh hƣởng đối với kinh doanh quốc tế), Nxb. Routledge tại Anh. Trong chƣơng 5 của cuốn sách, với tiêu đề: Legal forms of business organization (Những hình thức pháp lý của tổ chức kinh doanh) tác giả trình bày mô hình hợp danh thông thƣờng, hợp danh hữu hạn và hợp danh trách nhiệm hữu hạn ở bốn quốc gia là Anh, Mỹ, Pháp và Đức. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra những điểm tƣơng đồng và khác biệt, những ƣu và nhƣợc điểm của các mô hình trên theo pháp luật của mỗi nƣớc về các vấn đề nhƣ thành viên công ty, tổ chức quản lý và tƣ cách pháp lý của công ty…
– Trong quyển “European comparative company law” (Luật công ty so sánh ở châu Âu), các tác giả Mads Andenas và Frank Wooldridge cũng so sánh và trình bày về cơ cấu tổ chức, quản trị điều hành và cơ chế đại diện của hợp danh thông thƣờng, hợp danh hữu hạn, hợp danh TNHH, hợp danh chuyên nghiệp… Trong hợp danh thông thƣờng, các TVHD là ngƣời quản trị điều hành và đại diện cho công ty
17
và các TVHD khác trong quan hệ với bên thứ ba, trong hợp danh hữu hạn, TVGV không có quyền quản trị, đại diện cho hợp danh, còn đối với các hợp danh trách nhiệm hữu hạn hay hợp danh chuyên nghiệp thì quyền đại diện cho hợp danh thuộc về tất cả các thành viên…
Ở Việt Nam cũng có khá nhiều các công trình nghiên cứu có đề cập đến cơ cấu tổ chức, quản trị điều hành và cơ chế đại diện trong CTHD, chẳng hạn nhƣ:
– Trong bài viết “Tìm hiểu về công ty hợp danh trong pháp luật Việt Nam và Cộng hòa Pháp” đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 10/2004, Lê Thanh Phong tìm hiểu về cơ cấu tổ chức quản lý của CTHD theo pháp luật Việt Nam (HĐTV, TVHD, TVGV). Theo tác giả, CTHD và công ty hợp vốn đơn giản theo pháp luật của Pháp có cơ cấu phức tạp hơn rất nhiều so với pháp luật Việt Nam. Cơ quan quyết định cao nhất trong công ty là Đại hội. Việc điều hành công ty do ngƣời quản lý thực hiện. Về nguyên tắc, tất cả các thành viên đều có tƣ cách Ngƣời quản lý nhƣng họ có thể chỉ định ngƣời quản lý trong số các thành viên hoặc thậm chí ngƣời ngoài công ty. Ngƣời quản lý cũng đại diện cho công ty.
– Trong bài viết “Các loại hình doanh nghiệp phổ biến ở Pháp” đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2006, Lê Minh Phiếu trình bày khái quát mô hình CTHD của Cộng hòa Pháp về việc quản lý CTHD (quy chế đối với ngƣời quản lý, quyền hạn của ngƣời quản lý, trách nhiệm của ngƣời quản lý). Tác giả cũng nêu lý do vì sao CTHD là mô hình đƣợc các nhà đầu tƣ tại Pháp ƣa thích, đó là sự hấp dẫn về thuế, việc thành lập tƣơng đối đơn giản, bảo đảm đƣợc bí mật vì không phải nộp báo cáo tài chính đến tòa án…
– Trong bài viết “Quản trị nội bộ công ty luật hợp danh – Góc nhìn từ thực tiễn” đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 2/2018, đồng tác giả Nguyễn Quý Trọng và Nguyễn Minh Đức đã nêu bốn dấu hiệu để nhận diện quản trị nội bộ CTLHD: chủ thể quản trị là các luật sƣ; cơ cấu tổ chức, điều hành của công ty; cơ chế phân chia quyền lực; nguồn lực để chủ thể quản trị khai thác và vận dụng trong quá trình quản trị. Đồng thời các tác giả cũng nêu các hạn chế, bất cập trong quản trị CTLHD bao gồm: cơ chế bình quyền giữa các luật sƣ thành viên; về yêu cầu đƣợc cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động của công ty; về vấn đề thừa kế trong công ty; về tƣ cách thành viên bị tuyên bố mất tích.
Một số giáo trình chuyên ngành luật kinh tế cũng đề cập đến cơ cấu tổ chức quản lý và cơ chế đại diện trong CTHD, thí dụ: “Luật Doanh nghiệp Việt Nam: Tình huống – Dẫn giải – Bình luận”, Phạm Hoài Huấn (Chủ biên), Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật năm 2015; “Giáo trình pháp luật về chủ thể kinh doanh”, Bùi Xuân
18
Hải (chủ biên), Trƣờng Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức năm 2013; “Giáo trình Luật Kinh tế” của các tác giả Minh Ngọc, Ngọc Hà, Nxb. Lao động, Hà Nội năm 2013; “Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam”, Nguyễn Viết Tý, Nguyễn Thị Dung (đồng chủ biên), Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Tƣ Pháp năm 2018, Giáo trình Luật Thƣơng mại (phần chung và thƣơng nhân) của Ngô Huy Cƣơng, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013… Đặc điểm chung của tất cả các giáo trình trên là đều phân tích các quy định hiện hành trong LDN về cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành và vấn đề đại diện của CTHD.
Một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ chuyên ngành luật học khi nghiên cứu về CTHD có đề cập tới vấn đề quản trị trong loại hình công ty này, chẳng hạn nhƣ: “Tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam” của Phùng Anh Quốc, Học viện Khoa học xã hội năm 2017; “Pháp luật Việt Nam về công ty hợp danh”, Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Thùy Giang, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2009; “Công ty hợp vốn đơn giản theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Phƣơng Thảo, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2012; “So sánh pháp luật Việt Nam và pháp luật Nhật Bản về công ty hợp danh”, Luận văn thạc sĩ luật học của Lục Việt Dũng, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015; “Một số vấn đề pháp lý về công ty hợp danh”, Luận văn thạc sĩ luật học của Vũ Đặng Hải Yến, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2003; “Xây dựng chế định pháp luật về công ty hợp vốn đơn giản ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Vinh Hƣng, Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014. “Pháp luật về công ty hợp danh ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Thị Huế, Học viện Khoa học xã hội năm 2012…
Nhìn chung, các tác giả của những công trình trên đều có cách nhìn thống nhất về quản trị CTHD: HĐTV là cơ quan có quyền quyết định cao nhất trong việc quản lý hoạt động kinh doanh của công ty, đồng thời tất cả các TVHD cũng đều có quyền quản trị điều hành ngang nhau và cùng là đại diện theo pháp luật cho công ty.
1.1.5. Các nghiên cứu về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý
Thực tế cho thấy có một số ít công trình nghiên cứu trực tiếp về CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL mà thƣờng chỉ có những công trình nghiên cứu về DVPL nói chung trong đó chủ yếu đƣợc cung cấp bởi các CTHD. Điển hình phải kể đến một số công trình nghiên cứu nhƣ:
– Trong công trình “Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014, tác giả Đậu Huy Giang
19
đã phân tích các khía cạnh khác nhau của pháp luật đối với các công ty luật nói chung, trong đó có CTLHD nhƣ về việc thành lập, về quản trị công ty, về tổ chức, hoạt động…
– Trong luận văn thạc sĩ luật học “Công ty luật hợp danh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”, Học viện Khoa học xã hội, năm 2018, tác giả Nguyễn Minh Đức đã nêu đƣợc các vấn đề lý luận về CTLHD và pháp luật về CTLHD cũng nhƣ thực trạng pháp luật về CTLHD ở Việt Nam từ thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong công trình của mình, tác giả đã chỉ ra các đặc điểm của CTLHD, sự tƣơng đồng và khác biệt giữa CTLHD và các tổ chức hành nghề luật sƣ khác, những yếu tố ảnh hƣởng tới hoạt động của CTLHD…
– Trong luận án tiễn sĩ luật học “Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam”, Học viện Khoa học xã hội, năm 2019, tác giả Nguyễn Văn Bốn tập trung phân tích vấn đề quản trị công ty luật ở Việt Nam trong tƣơng quan so sánh với quản trị công ty luật ở một số nƣớc trên thế giới, trong nội dung luận án cũng có đề cập đến CTLHD nhƣng chủ yếu là về vấn đề quản trị.
– Trong bài viết: “Dịch vụ pháp lý và nhu cầu trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Tuân đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề pháp luật về doanh nghiệp, năm 2005, tác giả đã xác định thời điểm xuất hiện thuật ngữ DVPL ở Việt Nam, khẳng định DVPL là loại dịch vụ rất đặc thù so với các loại dịch vụ thông thƣờng khác và xác định phạm vi DVPL ở Việt Nam bao gồm DVPL của luật sƣ và DVPL của các tổ chức, đoàn thể xã hội.
– Trong bài viết “Từng bước xây dựng quan niệm về dịch vụ pháp lý phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế” của Phan Trung Hoài, đăng trên tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 2, năm 2007, cho rằng DVPL chỉ có thể do luật sƣ thực hiện và đƣa ra hƣớng hoàn thiện khái niệm DVPL đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
– Trong luận án tiến sĩ luật học “Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam”, Học viện Khoa học xã hội, năm 2014, Hoàng Thị Vịnh trình bày nhiều vấn đề khác nhau có liên quan đến DVPL nhƣ khái niệm DVPL: Là loại hình dịch vụ gắn liền với pháp luật do Nhà nước hoặc các tổ chức hành nghề cung ứng DVPL thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu về pháp lý của tổ chức, cá nhân; và các đặc điểm của DVPL cũng nhƣ thực trạng, giải pháp hoàn thiện pháp luật hợp đồng DVPL ở Việt Nam.
1.2. Các nghiên cứu về thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý
1.2.1. Các nghiên cứu chung về thực trạng công ty hợp danh và pháp luật về
công ty hợp danh hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý
20
Trên thế giới, trong phạm vi hiểu biết của tác giả, không có công trình nào nghiên cứu về thực trạng của pháp luật Việt Nam về CTHD nói chung và CTHD hoạt động trong lĩnh vực cung cấp DVPL nói riêng. Còn ở trong nƣớc, một số công trình tiêu biểu phải kể đến là:
– Trong luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về công ty luật ở Việt Nam”, Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014, tác giả Đậu Huy Giang có trình bày thực trạng pháp luật Việt Nam về các loại công ty luật, trong đó có CTLHD.
– Trong luận văn thạc sĩ luật học “Công ty luật hợp danh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”, Học viện Khoa học xã hội, năm 2018, tác giả Nguyễn Minh Đức đã nêu đƣợc các vấn đề lý luận pháp luật về CTLHD cũng nhƣ thực trạng pháp luật về CTLHD ở Việt Nam từ thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong công trình của mình, tác giả đã trình bày lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về CTLHD, nguồn luật điều chỉnh hoạt động CTLHD, khái niệm và nội dung chủ yếu của pháp luật về CTLHD, thực trạng pháp luật về CTLHD tại Thành phố Hồ Chí Minh…
– Trong Luận án tiến sĩ luật học “Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam”, Học viện Khoa học xã hội, năm 2019, tác giả Nguyễn Văn Bốn đã trình bày khá kỹ vấn đề quản trị các loại công ty luật, trong đó có CTLHD và thực trạng pháp luật về quản trị các công ty luật nói chung và CTLHD nói riêng.
– Trong bài viết “Các hình thức góp vốn trong công ty hợp danh ở Việt Nam” đăng tại Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 9/2011, Nguyễn Thị Huế phân tích các hình thức góp vốn chính vào CTHD, bao gồm góp vốn bằng tri thức, bằng hoạt động hay công việc. Trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật về các hình thức góp vốn, tác giả kết luận rằng pháp luật về hình thức góp vốn vào CTHD ở Việt Nam là chƣa thực sự phù hợp với yêu cầu thực tế của hoạt động đầu tƣ. Điều đó ảnh hƣởng bất lợi tới những lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh và quyền lợi của Nhà nƣớc. Từ đó, ngƣời viết đƣa ra đề xuất hoàn thiện pháp luật về hình thức góp vốn vào CTHD.
– Trong bài viết: “Pháp luật về công ty hợp danh ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 4/2015, Mai Duy Phƣớc đã nêu ra thực trạng quy định pháp luật về CTHD nhƣ: Chƣa tách bạch loại hình CTHD và công ty hợp vốn đơn giản; chƣa quy định thống nhất về nghĩa vụ tài sản đối với công ty của thành viên hợp vốn (TVHD); thành viên hợp vốn đƣợc quy định rất ít quyền lợi; việc quy định tƣ cách pháp nhân cho CTHD là không phù hợp với quy định của BLDS… Trên cơ sở thực trạng nêu trên, tác giả đã đƣa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
21
về CTHD (nên tách bạch rõ loại hình CTHD với công ty hợp vốn đơn giản; nên quy
định CTHD là loại hình doanh nghiệp không có tƣ cách pháp nhân…).
– Trong bài viết “Công ty hợp danh theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 – Một số bất cập và kiến nghị” đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 7/2013, Nguyễn Vinh Hƣng đề cập đến những hạn chế, khiếm khuyết của pháp luật về CTHD. Sau khi chỉ ra những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng kém phát triển của CTHD và một loạt những bất cập trong các quy định của pháp luật về loại doanh nghiệp này nhƣ: Không tách bạch giữa CTHD và công ty hợp vốn đơn giản, đối tƣợng có thể là thành viên của CTHD, tƣ cách pháp nhân của CTHD…, tác giả đã đƣa ra một số kiến nghị nhằm khắc phục những khiếm khuyết trên.
Một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ chuyên ngành luật học đã đề cập đến thực trạng CTHD và thực trạng pháp luật về CTHD ở Việt Nam, Thí dụ nhƣ: “Tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam” của Phùng Anh Quốc, Học viện Khoa học xã hội năm 2017; “Một số vấn đề pháp lý về công ty hợp danh”, Luận văn thạc sĩ luật học của Vũ Đặng Hải Yến, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2003; “Pháp luật Việt Nam về công ty hợp danh”, Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Thùy Giang, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2012… Các công trình trên đều có điểm chung là nêu thực trạng CTHD và pháp luật về CTHD, chỉ ra nguyên nhân của thực trạng đó là do chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của các TVHD, những bất cập của môi trƣờng pháp lý… và khẳng định CTHD là loại hình doanh nghiệp chƣa phát triển ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, các tác giả kiến nghị các giải pháp để hoàn thiện hơn nữa pháp luật về CTHD trong tƣơng lai.
– Trong luận án tiến sĩ luật học “Pháp luật về công ty hợp danh ở Việt Nam” Học viện Khoa học xã hội, năm 2012, Nguyễn Thị Huế đã phân tích và làm rõ nhiều vấn đề cốt yếu, xây dựng đƣợc một số khái niệm mới liên quan đến CTHD, phân tích kỹ lƣỡng thực trạng pháp luật về CTHD, chỉ ra những khiếm khuyết của pháp luật Việt Nam và đƣa ra đƣợc khá nhiều giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật về CTHD ở Việt Nam.
1.2.2. Các nghiên cứu về những ưu điểm và nhược điểm của công ty hợp danh
từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của loại hình doanh nghiệp này
Từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của mô hình CTHD trên thế giới, một số công trình nghiên cứu ở nƣớc ngoài đã chỉ rõ những ƣu điểm và nhƣợc điểm của CTHD, điển hình có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu nhƣ:
– Trong tác phẩm “The Indian LLP law: Some concerns for lawyers and
chartered accountants” (Luật CTHD trách nhiệm hữu hạn của Ấn Độ: Một số quan tâm đối với các luật sƣ và kế toán viên) đăng tại http://ssrn.com/abstract=1423766 năm 2009, Amit M. Sachdeva và Sachin Sachdeva, trƣớc khi tìm hiểu về các vấn đề của hợp danh TNHH theo pháp luật của Ấn Độ, đã tìm hiểu và so sánh các loại hợp danh theo pháp luật của Hoa Kỳ. Các tác giả đã trình bày những ƣu điểm của hợp danh trách nhiệm hữu hạn so với hợp danh thông thƣờng (địa vị pháp lý và sự tồn tại của hợp danh thông thƣờng không tách biệt với các thành viên, còn hợp danh hữu hạn là một thực thể pháp lý độc lập tách biệt với các thành viên của nó. Trách nhiệm của các TVHD trong hợp danh thông thƣờng luôn là vô hạn và liên đới đối với các khoản nợ của công ty. Còn trong một hợp danh trách nhiệm hữu hạn không có thành viên nào phải chịu trách nhiệm về hành vi của các thành viên khác ngoài phạm vi phần vốn góp của họ), so với hợp danh hữu hạn (trong hợp danh hữu hạn luôn có ít nhất một TVHD chịu trách nhiệm vô hạn, còn trong một hợp danh TNHH không có TVHD thông thƣờng) và so với công ty TNHH (công ty TNHH phải chịu thuế thu nhập công ty nhƣng một hợp danh trách nhiệm hữu hạn không phải chịu thuế mà mỗi thành viên công ty sẽ phải chịu thuế thu nhập cá nhân).
– Trong tác phẩm “Limited liability partnership in India: A general analysis” (công ty hợp danh TNHH ở Ấn Độ: Sự phân tích chung), đăng tại https://ssrn.com/abstract=1587770, Kranti Prakash Sai đã trình bày các vấn đề về thuế, quá trình thành lập, đăng ký công ty, trách nhiệm và sự góp vốn của các thành viên, phá sản công ty. Tác giả cũng nêu những thuận lợi của hợp danh trách nhiệm hữu hạn nhƣ đƣợc tổ chức và vận hành trên cơ sở một hợp đồng, có sự linh động không cần tuân theo những thủ tục nghiêm ngặt về mặt pháp lý, tạo điều kiện cho các chuyên gia hoạt động trong các lĩnh vực nghề nghiệp (luật sƣ, bác sĩ…) tránh đƣợc sự rủi ro của chế độ trách nhiệm vô hạn. Đồng thời, tác giả cũng nêu ƣu điểm của hợp danh TNHH so với hợp danh thông thƣờng (thành viên chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn góp, không phải chịu trách nhiệm liên đới đối với hành vi sai trái của các thành viên khác) và so với công ty cổ phần (hợp danh trách nhiệm hữu hạn linh động hơn so với công ty cổ phần).
– Trong bài viết “Limited liability partnership in Malaysia: A corporate governance perspective” (Hợp danh trách nhiệm hữu hạn ở Malaysia: Khía cạnh quản trị công ty), đăng tại Tạp chí Commercial Law năm 2013, Mohammad Rizal Salin chỉ ra một số lợi ích của hợp danh trách nhiệm hữu hạn ở các nƣớc nói chung và ở Malaysia nói riêng nhƣ: công ty có tƣ cách pháp lý độc lập, chế độ trách nhiệm hữu hạn của các thành viên cho phép công ty có thể tăng vốn để mở rộng quy mô
23
kinh doanh, chi phí vận hành thấp, cơ cấu tổ chức linh động. Ngoài ra, tác giả cũng so sánh CTHD trách nhiệm hữu hạn với CTHD thông thƣờng (về nguyên tắc đại diện, nghĩa vụ của các thành viên, hợp đồng hợp danh trách nhiệm hữu hạn) và với công ty cổ phần (chế độ trách nhiệm và tƣ cách pháp lý độc lập).
Ở Việt Nam một số bài viết và luận văn, luận án ngành luật học cũng so sánh làm rõ ƣu, nhƣợc điểm của CTHD so với các hình thức kinh doanh khác, tiêu biểu có một số tác phẩm sau:
– Trong bài viết “Giấc mơ của nửa triệu doanh nghiệp và một đạo luật chung: Luật Doanh nghiệp 2005 từ một góc nhìn so sánh”, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 7/2006, Phạm Duy Nghĩa bàn luận về nhiều vấn đề khác nhau của LDN (2005) dƣới góc độ so sánh với Luật Công ty cũng đƣợc ban hành năm 2005 của Trung Quốc. Trong phần nghiên cứu về CTHD, tác giả cho biết: “Nước láng giềng Trung Quốc tách bạch hợp danh ra khỏi mô hình công ty và điều chỉnh hợp danh theo các nguyên tắc của dân luật đã hình thành từ những năm 1986 với những giải thích ngày càng chuyên nghiệp của tòa án”; và hiện nay, “Nhiều nước không áp dụng thuế thu nhập công ty cho mô hình hợp danh. Nếu chọn hợp danh, nhà đầu tư có thể chỉ chịu thuế thu nhập cá nhân mà tránh bị đánh thuế hai lần. Lợi thế này không hề có theo pháp luật nước ta; cũng như các công ty, hợp danh là đối tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp” [52, tr.51,53]. Có thể nói, theo tác giả thì đây là một nhƣợc điểm của CTHD theo pháp luật Việt Nam so với các mô hình kinh doanh khác.
– Trong bài viết “Công ty hợp vốn đơn giản trong các loại hình công ty – So sánh và kiến nghị”, Tạp chí Nghề luật số 1/2013, Nguyễn Vinh Hƣng đã chỉ ra những ƣu điểm của công ty hợp vốn đơn giản so với CTHD (TVGV đƣợc hƣởng chế độ trách nhiệm hữu hạn, tài sản của TVGV luôn đƣợc phân định rõ ràng: Tài sản đóng góp vào công ty và tài sản dân sự. Họ chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn, việc thay đổi TVGV không làm ảnh hƣởng đến hoạt động của công ty); so với công ty TNHH (công ty hợp vốn đơn giản không bị giới hạn số lƣợng tối đa TVHD cũng nhƣ TVGV, do công ty chịu trách nhiệm vô hạn nên nó tạo sự yên tâm cho khách hàng); so với công ty cổ phần (TVHD chỉ phải chịu thuế thu nhập cá nhân, tránh đƣợc thuế thu nhập công ty) và so với doanh nghiệp tƣ nhân (công ty hợp vốn đơn giản có tƣ cách pháp nhân là một ƣu thế so với doanh nghiệp tƣ nhân).
Ngoài các bài viết đăng trên các tạp chí, các ƣu điểm và nhƣợc điểm của CTHD còn đƣợc đề cập đến trong một số luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ chuyên ngành luật học.
– Trong luận văn thạc sĩ “Một số vấn đề pháp lý về công ty hợp danh”, Trƣờng