ThS06.012_Chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Việt Nam đặt mục tiêu về cơ bản trở thành nước công nghiệp hoá vào năm 2020. Quá trình công nghiệp hoá của Việt Nam có bối cảnh khác với các nước Đông Á, cụ thể là Việt Nam phải tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia vào mạng lưới sản xuất khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, các nước trong khu vực như Trung Quốc và ASEAN-4 đã đạt được những kết quả rất đáng ngưỡng mộ trong phát triển kinh tế. Trong bối cảnh đó, chính sách thương mại quốc tế có một vị trí quan trọng trong việc hỗ trợ thực hiện chính sách công nghiệp và các chính sách khác. Chính sách thương mại quốc tế là thuật ngữ đang được vận dụng trên thực tiễn song không được sử dụng một cách hệ thống cũng như ở khía cạnh này hay khía cạnh khác còn có những nội dung và tên gọi khác nhau như chính sách xuất nhập khẩu, chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia, chương trình nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo CEPT, …
Việt Nam đang ở giai đoạn cuối của quá trình đàm phán gia nhập WTO, đã là thành viên của ASEAN, APEC, ký kết các hiệp định khung với Liên minh châu Âu, hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ. Thực hiện côngnghiệp hoá trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề về tính minh bạch, chủ động của chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là sự phối hợp giữa Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Công nghiệp với các bộ ngành, hiệp hội, doanh nghiệp và đối tác nước ngoài. Các nước ASEAN-4 nêu ra ở đây bao gồm Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Philippines
Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều cải cách về thương mại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, nhiều vấn đề còn cần được tiếp tục xem xét như việc liên kết doanh nghiệp và Chính phủ trong việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế; cơ sở khoa học và thực tiễn khi đàm phán ASEAN mở rộng, ký kết hiệp định song phương; phát huy vai trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong việc thực hiện chính sách; và cách thức vận dụng các công cụ của chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chính sách thương mại quốc tế phải được hoàn thiện để vừa phù hợp với các chuẩn mực thương mại quốc tế hiện hành của thế giới, vừa phát huy được lợi thế so sánh của Việt Nam. Với những lý do nêu trên, việc xem xét chính sách thương mại quốc tế của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là việc làm vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn, góp phần đưa Việt Nam hội nhập thành công và đạt được mục tiêu về cơ bản trở thành quốc gia công nghiệp hoá vào năm 2020.