LA02.263_Chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Trong hoạt động xuất khẩu của nước ta hiện nay, thủy sản là một trong những sản phẩm xuất khẩu chủ lực, với vị trí thứ 4 trong nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu chính sau dầu thô, dệt may và giày dép. Với việc đòi hỏi vốn đầu tư không lớn, tận dụng được điều kiện tự nhiên xã hội đất nước, hoạt động xuất khẩu thuỷ sản đã có sự phát triển to lớn, hàng năm đem về cho đất nước một nguồn ngoại tệ lớn phục vụ tái đầu tư thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Có được những thành tựu đó là nhờ sự góp phần của các chính sách tài chính của Chính phủ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản . Tuy nhiên, hiện nay một số chính sách tài chính đang tồn tại một số hạn chế như: hệ thống chính sách chưa phát triển kịp tiến trình hội nhập chung, các chính sách hỗ trợ tuy nhiều nhưng chưa nhất quán, và chưa hiệu quả. Vì vậy, thật cần thiết phải có một nghiên cứu tổng thể đánh giá các chính sách tài chính hiện tại, từ đó có được các chính sách khuyến khích hỗ trợ phù hợp để khai thác lợi thế và khắc phục hạn chế nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam. Nếu các chính sách tài chính này được nghiên cứu đầy đủ sẽ cung cấp cơ sở dữ liệu cho các nhà tạo lập chính sách điều chỉnh hệ thống chính sách hiện hành, ban hành các chính sách mới phù hợp, giúp các doanh nghiệp thuỷ sản có thể phát huy được lợi thế, chủ động hội nhập, hướng đến xuất khẩu bền vững. Trước thực tiễn đó, việc nghiên cứu các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản nước ta một cách bền vững mà không vi phạm các cam kết quốc tế là hoàn toàn cấp thiết. Chính vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn: “Chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của luận án.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
Tác giả chọn lọc và phân loại các công trình khoa học trong và ngoài nước mà luận án có so sánh, kế thừa và phát triển theo 2 nhóm:
– Một là nhóm các công trình nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản: Lĩnh vực thuỷ sản đã được rất nhiều tác giả trong và ngoài nước đề cập trên nhiều quan điểm, theo nhiều khía cạnh và phạm vi khác nhau, từ khía cạnh khoa học kỹ thuật đối với tạo giống mới, đến các khâu khai thác, nuôi trồng, chế biến, và xuất khẩu thuỷ sản. Đối với các nghiên cứu nước ngoài, đa phần các nghiên cứu của FAO, UNCTAD chủ yếu thông kê dữ liệu hoạt động khai thác và xuất khẩu thuỷ sản thế giới. Một số các nghiên cứu khác thì khẳng định tầm quan trọng của việc bảo vệ các nguồn lợi thuỷ hải sản, chú trọng phát triển nguồn cung thuỷ sản bền vững. Đối với các nghiên cứu trong nước, nhiều tác giả quan tâm chú ý tới nâng cao chất lượng tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và các giải pháp thúc đẩy thương mại xuất khẩu thuỷ sản. Tuy nhiên, hiện nay chưa có nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản Việt Nam theo chuỗi giá trị.
– Hai là nhóm các công trình nghiên cứu về chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản: Các công trình nghiên cứu về chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản còn hạn chế. Phần lớn các nghiên cứu ở nước ngoài thiên về các hoạt động bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản trên biển, các chính sách khuyến khích phát triển thuỷ sản bền vững và đưa ra một số các thống kê về vốn đầu tư của một số quốc gia cho ngành thuỷ sản phục vụ xuất khẩu, cũng như đánh giá mối quan hệ giữa trợ cấp của chính phủ đối với ngành thuỷ sản. Trong khi đó, các công trình nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu xây dựng các giải pháp để thúc đẩy phát triển ngành thuỷ sản theo các lĩnh vực khác nhau như khai thác, nuôi trồng, chế biến thuỷ sản. Một số nghiên cứu chỉ nghiên cứu chính sách thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản của một địa phương, hoặc tại khoảng thời gian trước khi Việt Nam gia nhập WTO, vì vậy thực trạng cũng như giải pháp của nghiên cứu đó không còn phù hợp với xu thế phát triển hiện tại về hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam.
Có thể thấy, hiện tại vẫn còn thiếu những nghiên cứu đánh giá về chính sách tài chính khuyến khích hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản. Chính vì vậy, đề tài luận án là công trình khoa học hoàn toàn mới, đáp ứng yêu cầu lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu của luận án
Đề tài vận dụng các kiến thức lý luận, đối chiếu với thực tiễn chính sách tài chính đã tác động đến chuỗi hoạt động xuất khẩu của các DN thủy sản Việt Nam trong thời gian qua và kinh nghiệm một số nước, để từ đó có những đề xuất hoàn thiện các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thủy sản của Việt Nam sang các nước trong điều kiện hội nhập và thực hiện các cam kết quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Về đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chính sách tài chính đối với hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản.
Về phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung:
Vấn đề sử dụng các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản rất đa dạng, phức tạp với nhiều nguồn hỗ trợ khác nhau. Do vậy, luận án chỉ tập trung nghiên cứu chính sách tài chính có tác động mạnh mẽ nhất, đó là chính sách tài chính từ phía Nhà nước bao gồm chi NSNN, tín dụng, thuế và bảo hiểm. Các chủ thể khác tuy có hỗ trợ nhưng sự hỗ trợ này không đáng kể, cho nên luận án không đề cập đến.
Luận án phân tích chính sách tài chính của Nhà nước nhằm hỗ trợ chuỗi giá trị hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản. Do Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO và các hiệp định thương mại tự do, chính vì vậy, chính sách tài chính hỗ trợ của Nhà nước đa phần tác động vào khâu tạo nguồn nguyên liệu (khâu sản xuất) của chuỗi giá trị hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản.
+ Thời gian nghiên cứu:
Từ năm 2013 đến 2017 tại Việt Nam. Đây là giai đoạn ngành thuỷ sản xuất khẩu có nhiều biến động, và Nhà nước cũng ban hành rất nhiều chính sách tài chính mới mang tính bước ngoặt cho ngành thuỷ sản xuất khẩu.
Các giải pháp đề xuất đến năm 2025, tầm nhìn 2030.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau để thu thập thông tin, dữ liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu, bao gồm các phương pháp luận chung, phương pháp nghiên cứu cụ thể, Phương pháp tiếp cận hệ thống, và phương pháp tiếp cận theo chuỗi giá trị ứng dụng lý thuyết chuỗi giá trị của Michael Porter. Phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê, dự báo, phương pháp chuyên khảo so sánh. Luận án cũng sử dụng phương pháp chuyên gia để tranh thủ kỹ năng, sự hiểu biết và kinh nghiệm của các chuyên giả giỏi liên quan tư vấn, định hướng và góp ý về nội dung, và giải pháp…Bên cạnh đó, luận án sử dụng phương pháp mô hình SWOT để đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam, từ đó để xuất các giải pháp để hoàn thiện chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản một cách phù hợp.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Về lý luận
Luận án thực hiện hệ thống hoá các vấn đề lý luận về hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản. Đồng thời, tác giả xây dựng khung lý thuyết các nội dung của chính sách tài chính và các nhân tố ảnh hưởng tới việc hoạch định chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản theo chuỗi giá trị.
Về thực tiễn
Luận án phân tích, đánh giá thực trạng một cách có hệ thống tác động của chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của DN thuỷ sản theo chuỗi giá trị. Từ nghiên cứu thực tiễn cũng như tham khảo các ý kiến chuyên gia về các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, đề tài đánh giá những mặt tích cực, hạn chế, và nguyên nhân của những hạn chế để đưa ra các giải pháp chung và cụ thể cho từng chính sách và khuyến nghị nhằm hoàn thiện chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam sao cho phù hợp với các quy định và cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
7. Câu hỏi nghiên cứu
– Chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản là gì? Những nhân tố tác động vào việc hoạch định chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của DN thuỷ sản.
– Nội dung của các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản bao gồm những nội dung gì?
– Thực trạng chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản ở Việt Nam giai đoạn 2013 -2017 như thế nào? Những tồn tại trong chính sách tài chính đó là gì?
– Hoàn thiện chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản ở Việt Nam là hoàn thiện những nội dung nào? Quan điểm, định hướng và giải pháp về việc hoàn thiện này là gì?
8. Kết cấu của luận án
– Chương 1: Lý luận về chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản.
– Chương 2: Thực trạng chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam.
– Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam.
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH VẼ
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP 21
1.1 Khái quát về hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản. 21
1.1.1 Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản 21
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản 23
1.1.3 Vai trò của hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản trong nền kinh tế 26
1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản 30
1.1.5 Các tiêu chí đánh giá hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản 32
1.2 Chính sách tài chính đối với hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản 35
1.2.1 Tổng quan về chính sách tài chính 35
1.2.2 Nội dung chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp 43
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản 59
1.3 Kinh nghiệm sử dụng chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản ở một số nước và bài học cho Việt Nam 66
1.3.1 Kinh nghiệm sử dụng chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các DN thủy sản ở một số nước 66
1.3.2 Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam 75
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1………………………………………………………………………………… …78
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THUỶ SẢN Ở VIỆT NAM 79
2.1 Tổng quan về hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam 79
2.1.1 Cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản 79
2.1.2 Thực trạng hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản theo chuỗi giá trị 81
2.1.3 Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam. 88
2.2 Thực trạng chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam 91
2.2.1 Chính sách chi ngân sách nhà nước 92
2.2.2 Chính sách tín dụng 106
2.2.3 Chính sách thuế 113
2.2.4 Chính sách bảo hiểm 121
2.3 Đánh giá chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam 128
2.3.1 Về chi ngân sách nhà nước 128
2.3.2 Về chính sách tín dụng 134
2.3.3 Về chính sách thuế 141
2.3.4 Về chính sách bảo hiểm 144
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 149
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA CÁC 150
3.1 Phương hướng và mục tiêu xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 150
3.1.1 Dự báo thị trường thủy sản trên thế giới đến năm 2030 150
3.1.2 Dự báo cung cầu nguyên vật liệu TS ở Việt Nam đến năm 2030 152
3.1.3 Phương hướng và mục tiêu xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 154
3.1.4 Quan điểm hoàn thiện chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam 161
3.2 Hoàn thiện các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam trong thời gian tới 164
3.2.1 Hoàn thiện chi ngân sách nhà nước 164
3.2.2 Hoàn thiện chính sách thuế 173
3.2.3 Hoàn thiện chính sách tín dụng 178
3.2.4 Hoàn thiện chính sách bảo hiểm 189
3.3 Kiến nghị 194
3.3.1 Về phía Nhà nước 194
3.3.2 Về phía các doanh nghiệp thuỷ sản 197
3.3.3 Về phía Hiệp hội 208
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 211
KẾT LUẬN 212
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ATTP An toàn thực phẩm
ADB Ngân hàng phát triển châu Á
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BHNN Bảo hiểm nông nghiệp
BHTDXK Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
BVMT Bảo vệ môi trường
CBPG Chống bán phá giá
CBNĐ Chế biến nội địa
CBXK Chế biến xuất khẩu
CBMT Cảnh báo môi trường
CNH –HĐH Công nghiệp hoá – Hiện đại hoá
CSCB XK Cơ sở chế biến xuất khẩu
CTCP Công ty cổ phần
DNBH Doanh nghiệp bảo hiểm
DN XK Doanh nghiệp xuất khẩu
FAO Tổ chức nông nghiệp và lương thực liên hợp quốc
GTGT Giá trị gia tang
HTX Hợp tác xã
IUU Hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định
JICA Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản
KNXK Kim ngạch xuất khẩu
KTTS Khai thác thuỷ sản
KT-XH Kinh tế xã hội
KNXK Kim ngạch xuất khẩu
KHCN Khoa học công nghệ
KTXH Kinh tế xã hội
NN & NT Nông nghiệp và nông thôn
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng Trung Ương
NK Nhập khẩu
NSTW Ngân sách Trung Ương
NSĐP Ngân sách địa phương
NTTS Nuôi trồng thuỷ sản
NSNN Ngân sách nhà nước
TDNN Tín dụng nhà nước
TDNH Tín dụng ngân hàng
TĐTBQ Tốc độ tăng bình quân
TNDN Thu nhập doanh nghiệp
PNDBTS Phòng ngừa dịch bệnh thuỷ sản
TCTD Tổ chức tín dụng
TNDN Thu nhập doanh nghiệp
TSCĐ Tài sản cố định
TTBQ Tăng trưởng bình quân
XK Xuất khẩu
QGQT Trung tâm quốc gia quan trắc
VASEP Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
WTO Tổ chức thương mại thế giới
XTTM Xúc tiến thương mại
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
2.1 Sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản giai đoạn 2013-2017 91
2.2 Cơ cấu sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu giai đoạn 2013 – 2017 100
2.3 Hiện trạng xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản giai đoạn 2013-2017 101
2.5 Các dự án đầu tư để bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản 110
2.6 Các dự án sử dụng nguồn vốn sự nghiệp để bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản 110
2.7 Số tàu khai thác thuỷ sản biển có công suất từ 90 CV trở lên 115
2.8 Tổng hợp kinh phí của dự án quan trắc giai đoạn 2015 – 2020 118
2.9 Các chương trình, dự án ưu tiên đầu tư cho chế biến xuất khẩu thuỷ sản giai đoạn 2011 – 2020 121
2.10 Kết quả chủ tàu đóng mới, nâng cấp tàu theo thông tư số 22/2014/TT-NHNN tính đến ngày 30/6/2016 127
2.11 Tổng kết thực hiện bảo hiểm phát triển thuỷ sản theo Nghị định 67 138
2.12 Kinh phí nhà nước hỗ trợ mua bảo hiểm theo Nghị định 67/2014 140
2.13 Bảo hiểm thân tàu theo Nghị định 67/2014 142 142
2.14 Bảo hiểm thuyền viên theo Nghị định 67/2014 143
2.15 Bảo hiểm ngư lưới cụ theo Nghị định 67/2014 144
3.1 Dự báo lượng cung thuỷ sản toàn cầu đến năm 2030 166
3.2 Dự báo nhu cầu tiêu thụ thủy sản toàn cầu đến năm 2030 167
3.3 Dự báo cung – cầu nguyên liệu ở trong nước đến năm 2030 169
3.4 Dự báo nhu cầu nguyên liệu cho chế biến thuỷ sản đến năm 2030 169
3.5 Dự báo nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu thuỷ sản đến năm 2030 170
DANH MỤC HÌNH VẼ
Số hiệu hình Tên hình Trang
1.1 Mô hình chuỗi giá trị của Micheal Porter 21
2.1 Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam giai đoạn 2013 – 2017 99
2.2 Giá trị nhập khẩu thuỷ sản vào Việt Nam giai đoạn 2013-2017 83
2.2 Số lượng hợp đồng tín dụng do các ngân hàng cấp cho chủ tàu đóng mới, nâng cấp tàu đến ngày 30/6/2016 127
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, hoạt động xuất khẩu đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế. Đặc biệt, Việt Nam độ mở kinh tế rất lớn, xuất khẩu được coi là động lực tăng trưởng chủ yếu của nền kinh tế. Trong hoạt động xuất khẩu của nước ta hiện nay, thủy sản là một trong những sản phẩm xuất khẩu chủ lực, với vị trí thứ 4 trong nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu chính sau dầu thô, dệt may và giày dép. Với việc đòi hỏi vốn đầu tư không lớn, tận dụng được điều kiện tự nhiên xã hội đất nước, hoạt động xuất khẩu thuỷ sản đã có sự phát triển to lớn, hàng năm đem về cho đất nước một nguồn ngoại tệ lớn phục vụ tái đầu tư thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), xuất khẩu thủy sản của VN trong năm 2017 đạt trên 8,3 tỉ USD, tăng gần 19% so với năm 2016. Đây cũng là mức kỷ lục của ngành thủy sản từ trước tới nay. Tuy nhiên, những trở ngại như bối cảnh biến đổi khí hậu tiếp tục khó lường, cơ sở hạ tầng chưa đủ đáp ứng cho sản xuất thuỷ sản, sự liên kết thiếu chặt chẽ giữa các khâu từ khai thác, nuôi trồng, chế biến, thu mua, sản xuất, xuất khẩu thuỷ sản một mặt không tạo ra được sự ổn định trong quá trình cung ứng và tiêu thụ các yếu tố đầu vào cũng như sản phẩm đầu ra, mặt khác không tạo điều kiện để các doanh nghiệp thuỷ sản có thể áp dụng các công nghệ và mô hình quản lý hiện đại vào quá trình sản xuất để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu, trong khi đó các doanh nghiệp thuỷ sản chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, do vậy năng lực và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp còn hạn chế. Bên cạnh đó, các quy chuẩn khắt khe của các quốc gia nhập khẩu (về trách nhiệm xã hội, môi trường, truy nguồn gốc đặc biệt là các quy định về khai thác bất hợp pháp IUU của EU, các điều kiện nuôi tương đồng trong đạo Luật Farrm Bill, dư lượng chất kháng sinh); nhu cầu tiêu dùng của thế giới giảm; giá thành sản xuất cao hơn so với các nước đối thủ; sự biến động tiền tệ;… đang là những thách thức không thể chủ quan cho việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam.
Những năm gần đây, Chính phủ đã áp dụng nhiều chính sách, cũng như sử dụng nhiều công cụ tài chính tích cực khác nhau nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản theo hướng bền vững, hướng sản xuất lớn, có truy xuất nguồn gốc. Tuy nhiên, các chính sách tài chính thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản đang tồn tại nhiều hạn chế đòi hỏi cần thay đổi phù hợp với xu thế hội nhập thị trường, hội nhập quốc tế và hội nhập chuỗi giá trị toàn cầu như: hệ thống chính sách chưa phát triển kịp tiến trình hội nhập chung, các chính sách hỗ trợ tuy nhiều những chưa nhất quán từ Luật đầu tư, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu đến chính sách tín dụng, và các chính sách hỗ trợ ngắn hạn khác. Bên cạnh đó, chi ngân sách nhà nước còn dàn trải lãng phí, điều kiện tiếp cận vốn tín dụng quá phức tạp, chính sách bảo hiểm chưa đạt hiệu quả. Vì vậy, thật cần thiết phải có một nghiên cứu tổng thể đánh giá các chính sách hiện tại, từ đó có được các chính sách tài chính khuyến khích hỗ trợ có hiệu quả để khai thác lợi thế và khắc phục hạn chế nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam. Nếu các chính sách này được nghiên cứu đầy đủ sẽ cung cấp cơ sở dữ liệu cho các nhà tạo lập chính sách điều chỉnh hệ thống chính sách hiện hành, ban hành các chính sách mới phù hợp, giúp các doanh nghiệp thuỷ sản có thể phát huy được lợi thế, chủ động hội nhập, hướng đến xuất khẩu bền vững. Trước thực tiễn đó, việc nghiên cứu các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản nước ta một cách bền vững mà không vi phạm các cam kết quốc tế là hoàn toàn cấp thiết.
Chính vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn: “Chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của luận án.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Nghiên cứu tổng quan các công trình có liên quan đến đề tài luận án có ý nghĩa rất quan trọng, giúp cho nghiên cứu sinh hệ thống hoá được những vấn đề có tính lý luận chung về hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản và chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản. Bên cạnh đó, làm rõ được những vấn đề đã được nghiên cứu và những vấn đề còn bỏ ngỏ làm định hướng cho nghiên cứu của mình. Trong quá trình tiếp cận các công trình đó, nghiên cứu sinh tiến hành khái quát hoá các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài theo các nhóm sau:
2.1 Nhóm các công trình nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản
Trong nhiều năm qua, hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản đã thu hút sự chú ý của không chỉ giới nghiên cứu mà còn có sự quan tâm đặc biệt của các nhà quản lý chỉ đạo thực tiễn từ bộ ngành cho đến địa phương. Đã có không ít đề tài trong nước và ngoài nước nghiên cứu có liên quan đến hoạt động này, tuy nhiên luận án chỉ nêu ra những nghiên cứu tiêu biểu nhất:
Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Stephen Golub, Abir Varma (2014), “Fishing exports and Economic development of least developed countries: Bangladesh, Cambodia, Comoros, Sierra Leone and Uganda”[72] nghiên cứu một bức tranh toàn cảnh về hoạt động khai thác thuỷ sản phục vụ xuất khẩu ở một số quốc gia kém phát triển nhất thế giới thông qua các nghiên cứu điển hình ở năm nước kém phát triển. Ở các quốc gia này, ngành khai thác thuỷ sản có tiềm năng lớn ở cả ven biển và nội địa. Tuy nhiên, tình trạng khai thác quá mức đang trở thành mối đe doạ nghiêm trọng cho ngành công nghiệp thuỷ sản. Ngăn chặn việc khai thác quá mức bằng cách hạn chế tiếp cận nguồn tài nguyên là rất khó, và điều này đặt ra những thách thức không nhỏ đối với các quốc gia kém phát triển với năng lực quản lý và vốn còn nghèo nàn. Bên cạnh đó, các nước này phải đối mặt với rất nhiều khó khăn về các rào cản kỹ thuật của các nước phát triển như: nhu cầu, tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Chính vì vậy, nhóm tác giả đưa ra các giải pháp cho các quốc gia này như: tăng cường quản lý Nhà nước, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng từ các nguồn vốn của chính phủ và tư nhân, quản lý và giám sát việc khai thác thuỷ sản nội địa, phát triển ngành khai thác và chế biến thuỷ sản xuất khẩu theo chuỗi giá trị. Như vậy, các tác giả không đề cập đến các chính sách tài chính của chính phủ nhằm hỗ trợ thúc đẩy cho hoạt động xuất khẩu thuỷ sản.
Sustainable fisheries: International trade, Trade policy and Regulatory Issues nghiên cứu của UNCTAD (2016) đề xuất phát triển ngành thuỷ sản bền vững nhằm thúc đẩy việc bảo tồn, khai thác và xuất khẩu thuỷ sản bền vững để đảm bảo lợi ích của các quốc gia, đặc biệt là ở các nước đang phát triển [80]. Bài nghiên cứu cung cấp thực trạng của thuỷ sản toàn cầu hiện nay: nhiều sáng kiến, khung pháp lý, quy chế quốc gia và quốc tế, các hiệp định khu vực và đa phương, các quy tắc ứng xử tự nguyện, các tiêu chuẩn và thể chế đã được phát triển trong 20 năm qua về xây dựng lại trữ lượng thuỷ sản, bảo tồn các sinh vật biển, ngăn chặn các hoạt động khai thác phá hoại, bảo tồn các loài có liên quan đến hệ sinh thái và đại dương. Các thoả thuận nghề cá cũng được ký kết để tạo thuận lợi cho việc thu hoạch bền vững và thương mại nghề cá. Nhận thức của người tiêu cũng đã được tăng lên. Mặc dù, những nỗ lực này đã đem lại rất nhiều những tích cực, tuy nhiên vẫn không thể đảo ngược tình trạng suy thoái của quần thể thuỷ sản toàn cầu và hệ sinh thái biển. Như vậy, nghiên cứu này không đề xuất các giải pháp tài chính nhằm phát triển bền vững hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản.
Tình hình nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu đặc điểm của ngành thuỷ sản, tác giả Nguyễn Kim Phúc (2011) trong luận án “Nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành thuỷ sản Việt Nam” chỉ ra rằng: Đầu tiên, đối tượng sản xuất của ngành thuỷ sản là các sinh vật sống dưới nước, chịu tác động nhiều của điều kiện thời tiết, khí hậu, dòng chảy, địa hình thuỷ sản. Thứ hai, ngành thuỷ sản là ngành sản xuất vật chất có tính hỗn hợp, liên ngành cao bao gồm các hoạt động sản xuất cụ thể như khai thác, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ thuỷ sản. Thứ ba, sản xuất thuỷ sản đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu lớn, rủi ro cao. Cuối cùng là sản xuất thuỷ sản gắn chặt với thị trường vì vậy, độ tươi sống là chỉ tiêu số một về chất lượng sản phẩm thuỷ sản [35].
Về các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu thuỷ sản ở Việt nam nói chung, có nghiên cứu của tác giả Võ Thanh Thu và cộng sự (2002) “Những giải pháp về thị trường cho sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam” cho rằng những yếu tố ảnh hưởng xấu đến hoạt động xuất khẩu thuỷ sản đó là: hàng xuất khẩu chủ yếu dưới dạng cấp đông; hàng thuỷ sản chưa có thương hiệu xuất khẩu có uy tín riêng, hoạt động tiếp thị yếu; hàng hoá thuỷ sản chưa đa dạng; tính vượt trội trong cạnh tranh còn chưa rõ nét; nắm bắt thông tin về thị trường chưa kịp thời và bị động [47].
Đánh giá thực trạng của hoạt động xuất khẩu thuỷ sản ở Việt Nam, có luận án của tác giả Trần Thế Hoàng (2011) “ Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đến năm 2020” đã đánh giá thực trạng xuất khẩu của Việt Nam qua các thời kỳ. Các nghiên cứu đã chỉ ra thực trạng yếu kém của ngành xuất khẩu thuỷ sản trong thời gian qua. Cụ thể, sự yếu kém đó thể hiện qua các mặt chất lượng thuỷ sản không cao, tăng trưởng ngành thuỷ sản chủ yếu theo chiều rộng, nguồn cung cấp nguyên liệu cho chế biến thuỷ sản không ổn định về số lượng và chưa đảm bảo về chất lượng, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp thuỷ sản còn thấp, tổ chức sản xuất nhỏ lẻ và phân tán, công tác quản lý nhà nước còn nhiều tồn tại hạn chế.[22]
Nhận định nguyên nhân của các tồn tại đối với ngành thuỷ sản xuất khẩu trên, tác giả Nguyễn Kim Phúc (2011) trong luận án tiến sỹ “Nâng cao chất lượng tăng trưởng ngành thuỷ sản Việt Nam” cũng cho rằng: do xuất phát điểm của ngành thuỷ sản thấp, các công tác quy hoạch còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh thủy sản, trình độ khoa học công nghệ còn hạn chế [35]. Đối với những thách thức đối với ngành chế biến thuỷ sản trước bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, cạnh tranh về thuỷ sản trên thị trường quốc tế ngày càng gay gắt, trong khi khả năng cạnh tranh của hàng thuỷ sản nước ta còn thấp do giá nguyên liệu, yếu tố đầu vào như điện nước, thông tin, vận tải,…của nước ta cao hơn so với các nước, tỷ trọng cơ giới hoá, tự động hoá trong sản xuất còn thấp, năng suất lao động từ khâu sản xuất nguyên liệu đến chế biến thấp, nhiều loại vật tư nuôi trồng còn phụ thuộc vào nhập khẩu,…trong khi các loại vật tư này chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm thuỷ sản. Sự mất cân đối giữa khu vực sản xuất nguyên liệu và khu vực chế biến xuất khẩu. Cụ thể hơn là khu vực sản xuất nguyên liệu chưa đáp ứng được nhu cầu của khu vực chế biến xuất khẩu cả về số lượng cũng như chất lượng sản phẩm.
Nhằm khắc phục hạn chế của hoạt động xuất khẩu thuỷ sản, luận án Tiến sỹ: “Hệ thống giải pháp đồng bộ đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam từ nay đến năm 2020” của tác giả Nguyễn Xuân Minh (2007) chỉ ra rằng cần phải xây dựng hệ thống giải pháp đồng bộ giúp thuỷ sản Việt Nam thâm nhập vào thị trường thế giới một cách chủ động, tích cực trong đó cần quan tâm thích đáng đến môi trường kinh doanh quốc tế, liên kết bốn nhà: nhà nước, nhà nông, nhà khoa học và nhà thương lái cần xác lập cơ chế và mô hình cụ thể, phù hợp với thực tiễn mới của ngành thuỷ sản [27]. Đặc biệt, luận án đưa ra hệ thống giải pháp đảm bảo tính đồng bộ giữa các yếu tố trong toàn bộ quy trình xuất khẩu thuỷ sản như: các giải pháp về nâng cao chất lượng thuỷ sản để đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế về vệ sinh an toàn thực phẩm, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xây dựng quảng bá thương hiệu, phát triển đánh bắt nuôi trồng thuỷ sản, xây dựng các liên kết dọc và ngang trong chuỗi cung ứng thuỷ sản xuất khẩu, các giải pháp về khoa học công nghệ, phát triển ngành dịch vụ và ngành phụ trợ. Tuy nhiên luận án không đưa ra các giải pháp về chính sách tài chính đối với việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thuỷ sản.
Tác giả Bùi Đức Tuân (2010) trong luận án Tiến sỹ “Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành chế biến thuỷ sản Việt Nam” bổ sung thêm: cần chủ động phát huy vai trò của các doanh nghiệp trong việc tạo dựng năng lực cạnh tranh của thuỷ sản Việt Nam, kết hợp hiện đại hoá các ngành hỗ trợ cho chế biến thuỷ sản, đồng thời tăng cường vai trò của Nhà nước nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành chế biến thuỷ sản trên thị trường thế giới [44]. Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra được các giải pháp cụ thể liên quan chặt chẽ đến mục tiêu tăng năng lực cạnh tranh của ngành chế biến thuỷ sản, và các giải pháp gốc rễ các hạn chế trong việc chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Ngoài ra, các yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của ngành thuỷ sản xuất khẩu còn nhiều các yếu tố khác.
Tác giả Doãn Thị Mai Hương (2017) trong bài báo “Phát triển bền vững thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam” đề cao việc phát triển bền vững xuất khẩu thuỷ sản tập trung vào ba lĩnh vực trụ cột như: Nâng cao chất lượng tăng trưởng; gắn việc sản xuất – xuất khẩu thuỷ sản với công tác bảo vệ môi trường; Đồng thời, sản xuất – kinh doanh thuỷ sản phải góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Trong đó, tác giả nhấn mạnh vai trò của doanh nghiệp là chủ đạo, là nguồn lực chính để thúc đẩy tăng trưởng. Chính phủ tăng cường chỉ đạo, định hướng khai thông vướng mắc cho hoạt động của doanh nghiệp, trong đó chú trọng các chính sách thúc đẩy liên kết sản xuất, quy hoạch chuỗi giá trị sản phẩm, đảm bảo phát triển đồng bộ [18]. Tuy nhiên, do thời lượng là một bài báo, tác giả chỉ phân tích sơ qua thực trạng cũng như hàm ý ngắn gọn một số giải pháp.
Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Bích Thuỷ (2013) trong luận án Tiến sỹ “Những giải pháp phòng ngừa rủi ro trong xuất khẩu thuỷ sản của các doanh nghiệp Việt Nam” đưa ra phương án phòng ngừa rủi ro trong xuất khẩu thuỷ sản của các doanh nghiệp Việt Nam. Tác giả chỉ ra sự cần thiết phải nghiên cứu tất cả các giai đoạn, nội dung và đối tượng tham gia chuỗi giá trị xuất khẩu thuỷ sản (từ quá trình sản xuất con giống, thức ăn, thuốc nuôi trồng thuỷ sản, nuôi trồng đánh bắt với sự tham gia và quản lý của rất nhiều bên đến quá trình chế biến thuỷ sản và thực hiện nghiệp vụ xuất khẩu…) nhằm tìm ra quy luật của các rủi ro phát sinh trong quá trình xuất khẩu thuỷ sản [42].
Bài báo “Thực trạng và triển vọng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hải Yến (2016) và cộng sự cũng đề xuất một số giải pháp như: Chính phủ cần phải thực hiện việc hoàn thiện chính sách và cơ sở dữ liệu, ngành thuỷ sản cần tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao trình độ sản xuất và chất lượng sản phẩm xuất khẩu; các doanh nghiệp thuỷ sản cần tập trung khai thác lợi thế của lĩnh vực nuôi trồng và khai thác, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở rộng và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu cho ngành thuỷ sản [54]. Tuy nhiên các tác giả chỉ đưa ra các giải pháp chung, chứ không đưa ra giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính.
Nhìn chung, lĩnh vực thuỷ sản đã được rất nhiều tác giả trong và ngoài nước đề cập trên nhiều quan điểm, theo nhiều khía cạnh và phạm vi khác nhau từ khía cạnh khoa học kỹ thuật đối với tạo giống mới, đến các khâu khai thác, nuôi trồng, chế biến, và xuất khẩu thuỷ sản. Đối với các nghiên cứu nước ngoài, đa phần các nghiên cứu của FAO, UNCTAD chủ yếu thông kê dữ liệu hoạt động khai thác và xuất khẩu thuỷ sản thế giới. Một số các nghiên cứu khác thì khẳng định tầm quan trọng của việc bảo vệ các nguồn lợi thuỷ hải sản, chú trọng phát triển nguồn cung thuỷ sản bền vững. Đối với các nghiên cứu trong nước, nhiều tác giả quan tâm chú ý tới nâng cao chất lượng tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và các giải pháp thúc đẩy thương mại xuất khẩu thuỷ sản. Tuy nhiên, hiện nay chưa có nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản Việt Nam theo chuỗi giá trị.
2.2 Nhóm các công trình nghiên cứu về chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản
Các nghiên cứu về chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản hiện vẫn chưa có nhiều tác giả đề cập đến. Tuy nhiên, có thể tìm thấy một số các chính sách hỗ trợ và quản lý của Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu thuỷ sản trong các nghiên cứu chuyên sâu như sau:
Tình hình nghiên cứu ngoài nước
OECD (2006), Financial support to fisheries: Implications for sustainable development (Hỗ trợ tài chính nhằm phát triển ngành thuỷ sản bền vững), nghiên cứu thực trạng hỗ trợ tài chính cho ngành thuỷ sản ở các nước OECD. Mỗi quốc gia có có loại hình và mức độ hỗ trợ khác nhau, chẳng hạn như cung cấp dịch vụ quản lý, nghiên cứu, hỗ trợ trực tiếp hơn như: chi trả cho việc xây dựng và hiện đại hoá tàu thuyền, hỗ trợ thu nhập, thuế miễn giảm và đảm bảo tiền vay. Khi các chương trình hỗ trợ là một công cụ của chính sách kinh tế, tác động của nó ban đầu được phản ánh trong hoạt động kinh tế của ngư dân – tức là giảm chi phí, tăng giá hoặc tăng thu nhập [74]. Phân tích được thực hiện trong mô hình phát triển bền vững, nhấn mạnh đến những ảnh hưởng bên trong, và sự tương tác giữa ba trụ cột của phát triển bền vững dưới các chính sách thuỷ sản khác nhau. Tuy nhiên nghiên cứu chỉ thể hiện thực trạng về số lượng cung cấp tài chính cho ngành thuỷ sản, mà không đi nghiên cứu sự ảnh hưởng của công cụ tài chính đối với ngành thuỷ sản.
Zhang Jian Hua cùng cộng sự (2016), Impact of trade policy reform on Vietnam Fisheries export (Ảnh hưởng của cải cách chính sách thương mại đối với hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam), Journal of economics and sustainable development. Trong bài viết, tác giả tập trung nghiên cứu các tài liệu liên quan đến xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong giai đoạn 1990 – 2015. Tác giả phân tích đánh giá tác động của một số cải cách chính sách thương mại đến khối lượng và giá trị xuất khẩu thuỷ sản. Từ đó, tác giả cũng đề xuất một số chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản như: mở rộng quan hệ hợp tác thương mại với các nước khác, mở rộng hoạt động xúc tiến thương mại, nâng cao chất lượng mặt hàng thuỷ sản với chi phí thấp hơn và đa dạng hoá sản phẩm thuỷ sản, đồng thời tác giả cho rằng cần phải có chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp và linh động hơn với bối cảnh kinh tế [87]. Tuy nhiên, chính sách tỷ giá hối đoái là một công cụ nhạy cảm nhất là đối với các nền kinh tế đang phát triển, có tác động qua lại tới mọi mặt của nền kinh tế, cho nên hiện nay nhà nước ít tác động vào công cụ này để điều tiết hỗ trợ cho ngành hàng riêng lẻ.
Tabitha Grace Mallory (2016), Fisheries subsidies in China: Quantitative and qualitative assessment of policy coherence and effectiveness:Trợ cấp ngành thuỷ sản ở Trung Quốc: Đánh giá tính hiệu quả và tính nhất quán của chính sách theo tiêu chí số lượng và chất lượng. Trong bài báo, tác giả nghiên cứu thực trạng chính sách trợ cấp nghề khai thác hải sản tự nhiên của Trung Quốc, và đánh giá tác động của chúng theo các tiêu chí bền vững. Tác giả chỉ ra rằng việc sản xuất có hệ thống khối lượng lớn đang làm ảnh hưởng tới việc bảo tồn hệ sinh thái biển, tiến bộ khoa học công nghệ khiến các thiết bị đánh bắt hải sản tốt hơn và công suất mạnh hơn, đội tàu cá mạnh hơn làm trữ lượng cá trong tự nhiên giảm đi. Từ đó tác giả kết luận rằng mặc dù chính sách chi ngân sách nhà nước (chính sách trợ giá nguyên liệu), và chính sách thuế (miễn thuế thu nhập doanh nghiệp) làm tăng năng lực khai thác hải sản tự nhiên, giúp xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống ngư dân, cung cấp đáng kể lương thực thực phẩm cho thế giới, nhưng lại làm nguồn hải sản trên thế giới trở nên cạn kiệt, hệ sinh thái biển bị ảnh hưởng [66]. Có thể thấy ở đây, bài viết chỉ nghiên cứu chính sách hỗ trợ đối với mảng hoạt động khai thác hải sản tự nhiên, và đánh giá ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với hệ sinh thái biển, tác giả không nghiên cứu trên góc độ tác động vào năng lực xuất khẩu của DN thuỷ sản, đồng thời cũng không đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách.
Trong nghiên cứu gần đây, South Centre (2017), The WTO’s Fisheries Subsidies Negotiations (Đàm phán về trợ cấp nghề cá của WTO) đã đánh giá các vấn đề về sự lạm thác và khai thác bất hợp pháp, khai thác không báo cáo và vi phạm luật IUU, và vai trò ngày càng tăng của các công cụ của Liên Hợp Quốc nhằm mục tiêu khai thác thuỷ sản bền vững. Tiếp đó, bài nghiên cứu cũng cung cấp một bức tranh tổng quan về trợ cấp thuỷ sản ngày nay ( Trợ cấp bao nhiêu, chủ thể cung cấp trợ cấp là ai, có những loại trợ cấp nào), đồng thời nêu trường hợp cụ thể trợ cấp thuỷ sản ở châu Âu[78].
Tình hình nghiên cứu trong nước
Nhấn mạnh vai trò và thực tế áp dụng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước như thuế, tín dụng, tỷ giá, trợ cấp hay chi tiêu chính phủ đối với xuất khẩu thuỷ sản, tác giả Phạm Thị Tuệ (2005) “Hoàn thiện chính sách hỗ trợ của Nhà nước nhằm thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản ở nước ta hiện nay” đã khái quát lý luận và thực tiễn của mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, qua đó làm rõ vai trò của xuất khẩu đối với quá trình công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển [41]. Những công cụ chính sách (thuế, tín dụng, tỷ giá, trợ cấp hay chi tiêu của chính phủ) được luận án giới thiệu tương đối cụ thể nhằm làm rõ tính chất, đặc trưng, nội dung định hướng. Tác giả cũng nêu rõ các thực tế áp dụng chính sách hỗ trợ qua thuế, tín dụng ưu đãi thông qua Quỹ hỗ trợ đầu tư và Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, qua chính sách thưởng xuất khẩu, qua các hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại hay một số dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu khác. Tác động của các chính sách hỗ trợ đối với lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản cũng như những bất cập trong bản thân chính sách được tác giả luận án chú ý phân tích tương đối sâu. Tuy nhiên, thực trạng ngành thuỷ sản xuất khẩu và các chính sách hỗ trợ của Chính phủ mà tác giả đưa ra trước năm 2005 – khi Việt Nam chưa gia nhập WTO đến nay không còn phù hợp với xu hướng và thực tiễn đặt ra.
Hội thảo tham vấn (2017) “Chính sách tài chính khuyến khích phát triển chuỗi liên kết thuỷ sản trong bối cảnh Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do” tại Cần Thơ, do Học viện Tài chính phối hợp với Trung tâm Hợp tác quốc tế nuôi trồng và khai thác thuỷ sản bền vững tại Việt Nam (ICAFIS) và Oxfam tổ chức. Mục tiêu của hội thảo nhằm lấy ý kiến để xây dựng chính sách tài chính nhằm thúc đẩy và tạo điều kiện cho người nuôi trồng và doanh nghiệp ngành thuỷ sản tiếp cận nguồn vốn tái cơ cấu nông nghiệp và đảm bảo liên kết bền vững. Hội thảo cho rằng mặc dù Nhà nước có nhiều chính sách ưu đãi cho vay trong lĩnh vực thuỷ sản nhưng thực tế người dân vẫn khó tiếp cận nguồn vốn vì họ chưa nắm được thông tin, và gặp rắc rối trong thủ tục vay vốn. Vì vậy, xác định liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị là hướng đi phù hợp, tất yếu đối với sự phát triển bền vững ngành thuỷ sản, khuyến khích liên kết trực tiếp của doanh nghiệp và nông dân để nguồn vốn vay được sử dụng hiệu quả. Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần hoàn thiện khung pháp lý quy định và chế tài đủ mạnh trong việc ký kết hợp đồng tiêu thụ, mua bán giữa doanh nghiệp và nông dân giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Trong một nghiên cứu gần đây, tác giả Hồ Thị Hoài Thu (2018) “Giải pháp tài chính hỗ trợ hộ ngư dân phát triển hoạt động khai thác thuỷ sản ở Việt Nam” đã phân tích các vấn đề liên quan đến hoạt động khai thác thuỷ sản của các hộ ngư dân, đồng thời nhấn mạnh vai trò của các giải pháp tài chính của Nhà nước đối với hoạt động hỗ trợ khai thác thuỷ sản để từ đó nâng cao hiệu quả khai thác. Trong luận án, tác giả đã chỉ ra những tác động của các giải pháp tài chính đến hộ khai thác thuỷ sản ở Việt Nam trên các tiêu chí: công suất tàu thuyền, thu nhập và lao động. Tác giả cũng nhận định rằng các giải pháp tài chính còn chưa phù hợp với thực tế, vốn ngân sách bị sử dụng lãng phí, ngư dân thiếu tiền để đóng mới, nâng cấp và cải hoán tàu thuyền, công suất lớn, đánh bắt xa bờ, hoạt động bảo hiểm thì không thu hút được số lượng lớn ngư dân tham gia[36]. Như vậy, ở đây tác giả chỉ tập trung nghiên cứu chuyên sâu vào lĩnh vực khai thác thuỷ sản ở Việt Nam.
Trên cơ sở phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu, tác giả Trần Khắc Xin(2014) trong luận án Tiến sỹ “Hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu ở khu vực Nam Trung Bộ” cho rằng NTTS XK chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, khí hậu, vì vậy, trong quá trình hoạch định chính sách hỗ trợ, Nhà nước cần phải tính đến và có giải pháp khắc phục bởi đây là công việc đòi hỏi chi phí cao, thời gian thực hiện lâu mà các đối tượng NTTS XK không có khả năng thực hiện được [55]. Tác giả cho rằng cần phải nâng cao năng lực của các cấp chính quyền từ Trung ương tới địa phương từ khâu hoạch định, coi đó là cơ sở để huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực hỗ trợ một cách hiệu quả. Đồng thời, tác giả nhấn mạnh rằng muỗn hỗ trợ NTTS XH hiệu quả các nhà hoạch định chính sách cần phải có chính sách tổng thể, kết hợp với các chủ thể của các ngành, nghề khác có liên quan đến nghiên cứu tất cả các vấn đề thành hệ thống như môi trường, kinh tế, xã hội…Tuy nhiên, luận án chưa đưa ra được lý luận cụ thể các biện pháp hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản, cũng như chưa chỉ ra được thực trạng sản lượng nuôi trồng thuỷ sản phục vụ cho mục tiêu xuất khẩu của khu vực Nam Trung Bộ.
Luận án “Hoàn thiện chính sách quản lý nhà nước đối với vượt rào cản kỹ thuật thương mại cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam”, của tác giả Phạm Minh Đạt (2014) đã hệ thống hoá và cập nhật một số vấn đề lý luận về rào cản kỹ thuật trong thương mại xuất khẩu thuỷ sản nói chung và thuỷ sản Việt Nam nói riêng, xây dựng khung lý luận và mô hình nghiên cứu chính sách quản lý nhà nước về vượt rào cản kỹ thuật đối với thương mại xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam. Về mặt thực tiễn, luận án rút ra một số bài học hàm ý chính sách quản lý nhà nước với vượt rào cản kỹ thuật đối với thương mại xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam từ thực tiễn vượt rào cản kỹ thuật trong xuất khẩu thuỷ sản của một số nước điển hình, luận án đánh giá thực trạng khả năng đáp ứng và vượt qua các rào cản kỹ thuật đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu chủ lực, từ đó phân tích và đánh giá thực trạng ban hành, và tổ chức thực hiện cả về triển khai của doanh nghiệp và về tổ chức quản lý của các cơ quan Nhà nước hữu quan với vượt rào cản kỹ thuật trong xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam hiện nay. Từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp từ phía nhà nước bao gồm: quy hoạch vùng nuôi, kiểm soát con giống, kỹ thuật nuôi trồng, xây dựng chính sách…[14]. Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra được các giải pháp bảo vệ nguồn lợi khai thác thuỷ sản, giải pháp bảo vệ môi trường nước trong nuôi trồng thuỷ sản, công đoạn bảo quản sau thu hoạch, đây là những khâu quyết định trong việc nâng cao chất lượng cho mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu.
2.3 Đánh giá tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án và những khoảng trống nghiên cứu
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về chính sách tài chính đối với hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản còn hạn chế. Phần lớn các nghiên cứu ở nước ngoài thiên về các hoạt động bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản trên biển, cũng như các chính sách khuyến khích phát triển thuỷ sản bền vững và đưa ra một số các thống kê về vốn đầu tư của một số quốc gia cho ngành thuỷ sản phục vụ xuất khẩu, cũng như đánh giá mối quan hệ giữa trợ cấp của chính phủ đối với ngành thuỷ sản.
Trong khi đó, các công trình nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu xây dựng các giải pháp để thúc đẩy phát triển ngành thuỷ sản theo các lĩnh vực khác nhau như khai thác, nuôi trồng, chế biến thuỷ sản. Một số nghiên cứu chỉ nghiên cứu chính sách thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản của một địa phương, hoặc tại khoảng thời gian trước khi Việt Nam gia nhập WTO, vì vậy thực trạng cũng như giải pháp của nghiên cứu đó không còn phù hợp với xu thế phát triển hiện tại của hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản ở Việt Nam. Trong khi đó, các chính sách hỗ trợ của chính phủ trong thời điểm trước khi hội nhập đa phần là trợ cấp trực tiếp, cho nên các chính sách đó đến nay không còn phù hợp với các điều ước quốc tế và các hiệp định thương mại quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Vì vậy, việc nghiên cứu các chính sách tài chính thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản trên cơ sở tác động vào hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản theo chuỗi giá trị sẽ đảm bảo các chính sách hỗ trợ của Chính phủ hoạt động có hiệu quả hơn, đồng bộ hơn, phù hợp hơn thì chưa có tác giả nào đề cập đến.
Trong bối cảnh hội nhập, hỗ trợ tài chính luôn là vấn đề nhạy cảm trong quá trình thực hiện các hiệp định thương mại tự do, nhưng hiện tại vẫn còn thiếu những nghiên cứu đánh giá về chính sách tài chính khuyến khích phát triển xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản, đồng thời cũng còn rất nhiều các biện pháp hỗ trợ được phép sử dụng mà không vi phạm các hiệp định thương mại vẫn chưa được sử dụng tới. Chính vì vậy, luận án “Chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản của Việt Nam” là công trình khoa học hoàn toàn mới, đáp ứng yêu cầu lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng các kiến thức lý luận, đối chiếu với thực tiễn chính sách tài chính đã tác động đến chuỗi hoạt động xuất khẩu của các DN thủy sản ở Việt Nam trong thời gian qua và kinh nghiệm một số nước để có những đề xuất hoàn thiện các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thủy sản của Việt Nam sang các nước trong điều kiện hội nhập và thực hiện các cam kết quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đã đặt ra, nhiệm vụ nghiên cứu sẽ bao gồm:
Thứ nhất, hệ thống hóa cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản theo chuỗi giá trị, và các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai, phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản của Việt Nam theo chuỗi giá trị, đặc biệt đề tài đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam theo chuỗi giá trị trong những năm qua. Từ đó chỉ ra những tồn tại và nguyên nhân trong việc sử dụng các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam.
Thứ ba, trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đưa ra những quan điểm, phương hướng, và các giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính để giúp thúc đẩy xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản một cách bền vững trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1 Về đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chính sách tài chính đối với hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản.
4.2 Về phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung:
Vấn đề sử dụng các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản rất đa dạng, phức tạp với nhiều nguồn hỗ trợ khác nhau. Do vậy, NCS chỉ tập trung nghiên cứu chính sách tài chính có tác động mạnh mẽ nhất, đó là chính sách tài chính từ phía Nhà nước bao gồm chi NSNN, tín dụng, thuế và bảo hiểm. Các chủ thể khác tuy có hỗ trợ nhưng sự hỗ trợ này không đáng kể, cho nên luận án không đề cập đến.
Luận án phân tích chính sách tài chính của Nhà nước nhằm hỗ trợ chuỗi giá trị hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản bao gồm: khâu cung ứng nguyên liệu đầu vào (khâu sản xuất), khâu thu mua nguyên liệu xuất khẩu, khâu chế biến, khâu thương mại xuất khẩu. Do Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO và các hiệp định thương mại tự do, chính vì vậy, hiện nay chính sách tài chính hỗ trợ của Nhà nước đa phần tác động vào khâu tạo nguồn nguyên liệu (khâu sản xuất) trong chuỗi giá trị hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản.
+ Thời gian nghiên cứu:
Từ năm 2013 đến 2017 tại Việt Nam. Đây là giai đoạn ngành thuỷ sản xuất khẩu có nhiều biến động trên thị trường, có rất nhiều chính sách tài chính được ban hành, đi vào thực hiện và kết thúc. Có những chính sách thành công, có những chính sách chưa hiệu quả. Chính vì vậy tác giả lựa chọn giai đoạn này để nghiên cứu.
Các giải pháp đề xuất đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận chung
Luận án dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề, xem xét sự vật, hiện tượng và các quá trình trong mối quan hệ biện chứng, trong sự thống nhất giữa các mặt đối lập, giữa lý luận và thực tiễn…
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Đây là các phương pháp nghiên cứu cụ thể được tác giả sử dụng trong việc thu thập thông tin, xử lý thông tin và trình bày thông tin để hình thành nên luận án. Cụ thể luận án đã sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn giải, quy nạp, logic, lịch sử, thống kê,…để nghiên cứu luận án.
5.2.1 Phương pháp tiếp cận
+ Phương pháp tiếp cận hệ thống: Phương pháp tiếp cận hệ thống là phương pháp nghiên cứu tất cả các yếu tố tạo nên đối tượng nghiên cứu. Luận án sử dụng phương pháp này để nghiên cứu các chính sách tài chính ( chính sách chi NSNN, chính sách thuế, chính sách tín dụng, chính sách bảo hiểm) nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản theo chuỗi giá trị.
+ Phương pháp tiếp cận chuỗi giá trị: Phương pháp tiếp cận chuỗi giá trị là phương pháp nghiên cứu tất cả các đối tượng có liên quan đến việc tạo lập ra giá trị cuối cùng của sản phẩm. Tiếp cận chuỗi giá trị của hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản được sử dụng xuyên suốt trong việc phân tích các khâu: khâu tạo nguồn nguyên liệu, khâu thu mua, khâu chế biến, khâu xuất khẩu. Để từ đó luận án liệt kê được tất cả các đối tượng trong các khâu bị tác động của chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản.
5.2.2 Phương pháp phân tích dữ liệu
– Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Luận án sử dụng phương pháp này để thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các công trình khoa học, tài liệu, văn bản đã có và bằng tư duy logic để rút ra các kết luận phục vụ cho luận án.
– Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận án sử dụng phương pháp này để phân tích và tổng hợp lý thuyết, ngoài ra còn dùng để phân tích và tổng hợp các số liệu về cơ sở hạ tầng sản xuất thuỷ sản, chuỗi giá trị của hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản, kết quả thực hiện các chính sách tài chính để đánh giá thực trạng và đưa ra các giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản ở Việt Nam.
– Phương pháp chuyên khảo, đối chiếu so sánh: Luận án tiến hành nghiên cứu vấn đề chuyên sâu về các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản, được xem xét đánh giá trên cơ sở so sánh đối chiếu với một số nước trên thế giới nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
– Phương pháp dự báo: Chủ yếu dựa trên các báo cáo và dự báo của các tổ chức quốc tế có uy tín như Tổ chức Hợp tác & Phát triển Kinh tế (OECD), Tổ chức Nông – Lương LHQ (FAO), Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD)…
– Phương pháp chuyên gia: Tác giả sử dụng phương pháp chuyên gia để tranh thủ kỹ năng, sự hiểu biết và kinh nghiệm của các chuyên giả giỏi liên quan tư vấn, định hướng và góp ý về nội dung, và giải pháp…Tác giả đã tiến hành thảo luận với một số tổng giám đốc doanh nghiệp thuỷ sản, doanh nghiệp bảo hiểm, và ngân hàng, các cán bộ quản lý các cấp, các chuyên gia của ngành thuỷ sản như: Tổng cục thuỷ sản, Hiệp hội nghề cá,…
– Phương pháp SWOT: Tác giả sử dụng phương pháp SWOT để đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với chuỗi giá trị hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam, qua đó đưa ra các nhận xét và định hướng mang tính chiến lược để hoàn thiện các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản một cách phù hợp.
5.2.3 Phương pháp thu thập số liệu
– Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: Nguồn thu thập số liệu thứ cấp được sử dụng trong luận án được thu thập từ Niên giám thống kê của Tổng cục Thống kê, báo cáo của Tổng cục hải quan, các báo cáo tổng hợp của Tổng cục thuỷ sản (Bộ NN và PTNT), Cục quản lý chất lượng nông lâm sản và thuỷ sản, các báo cáo xuất khẩu của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản (VASEP), báo cáo thường niên của Ngân hàng nhà nước, Ngân hàng phát triển, Tạp chí chuyên ngành thuỷ sản, các Hội thảo khoa học, FAO, WTO…
Quy trình thu thập và phân tích dữ liệu thứ cấp như sau:
+ Liên hệ với các tổ chức cung cấp thông tin: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ tài chính, Cục quản lý chất lượng nông lâm sản và thuỷ sản, Hiệp hội VASEP, Tổng cục thuế, Tổng cục Hải quan, Tổng cục thống kê…
+ Rà soát các nguồn thông tin đại chúng: tìm kiếm dữ liệu mới nhất trên các phương tiện thông tin đại chúng như tạp chí chuyên ngành thuỷ sản, tạp chí tài chính,…Các dữ liệu được đối chiếu và so sánh để có sự nhất quán thống nhất, đảm bảo nội dung phân tích có được độ tin cậy cao.
+ Tổng hợp và phân tích dữ liệu theo mục tiêu đã xác định: Sau khi tập hợp và sàng lọc, dữ liệu thứ cấp được sử dụng để phân tích thực trạng chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam.
6. Câu hỏi nghiên cứu
Trên cơ sở xác định được mục đích, đối tượng, và phạm vi nghiên cứu, luận án đưa ra các câu hỏi hướng vào các nội dung sau:
– Chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản là gì? Những nhân tố tác động vào việc hoạch định chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của DN thuỷ sản.
– Nội dung của các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản bao gồm những nội dung gì?
– Thực trạng chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản ở Việt Nam giai đoạn 2013 -2017 như thế nào? Những tồn tại trong chính sách tài chính đó là gì?
– Hoàn thiện chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản ở Việt Nam là hoàn thiện những nội dung nào? Quan điểm, định hướng và giải pháp về việc hoàn thiện này là gì?
7. Đóng góp mới của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu sâu về lý luận cũng như phân tích đánh giá tình hình thực tiễn và đề xuất kiến nghị, luận án có những đóng góp sau:
– Về mặt lý luận, luận án thực hiện hệ thống hoá các vấn đề lý luận về hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản. Bên cạnh đó, luận án làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của chính sách tài chính đối với hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản, cũng như phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách tài chính nhằm thúc đẩy xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản. Đồng thời, xây dựng khung lý thuyết và các nội dung của chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản theo chuỗi giá trị.
– Về thực tiễn, đề tài tiến hành nghiên cứu thực trạng chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản ở Việt Nam theo chuỗi giá trị (từ khâu sản xuất, thu mua, chế biến, và thương mại xuất khẩu) cụ thể như sau: Chi NSNN hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất, thúc đẩy ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm tạo điều kiện cho việc tạo ra nguồn nguyên liệu phục vụ hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản. Chính sách thuế điều tiết giá cả của sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu, từ đó thúc đẩy hoặc kìm hãm hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của các doanh nghiệp. Chính sách tín dụng hỗ trợ vốn cho chuỗi giá trị thuỷ sản xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản. Chính sách bảo hiểm giúp giảm thiểu rủi ro cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản. Từ nghiên cứu thực tiễn tác động của các chính sách tài chính đối với thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, tác giả đánh giá những mặt tích cực, hạn chế, và nguyên nhân của những hạn chế nhằm đưa ra các giải pháp và khuyến nghị nhằm hoàn thiện chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam sao cho phù hợp với các quy định và cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính Luận án có kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận về chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản.
Chương 2: Thực trạng chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
THUỶ SẢN
1.1 Khái quát về hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản.
1.1.1 Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản
Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động thương mại quốc tế, xuất hiện từ rất lâu trên thế giới. Lý thuyết về TMQT đã được hình thành từ nhiều thế kỷ nay. Nhiều công trình nghiên cứu đã lý giải từ khái niệm, vai trò, lợi ích và nhiều vấn đề khác liên quan đến TMQT nói chung và xuất khẩu hàng hoá nói riêng.
Theo Điều 28, mục 1, chương II luật Thương mại Việt Nam năm 2005, xuất khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
Theo từ điển Bách khoa Hà Nội, xuất khẩu là việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá (bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) trong nước. Khi sản xuất phát triển và trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi, hoạt động này mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới của quốc gia hoặc thị trường nội địa vào khu chế xuất trong nước.
Thực chất của hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản là việc doanh nghiệp đem bán những sản phẩm thuỷ sản đã qua chế biến hoặc chưa chế biến, được sản xuất trên dây chuyền công nghệ hay còn thô từ các nhà máy trong nước xuất ra nước ngoài nhằm thu ngoại tệ về cho đất nước, cho doanh nghiệp. Đối với Nhà nước, hoạt động xuất khẩu thuỷ sản làm tăng tích luỹ ngoại tệ cho nhà nước, nâng cao mức sống cho nhân dân. Đối với doanh nghiệp, hoạt động xuất khẩu thuỷ sản giúp DN có ngoại tệ, từ đó có nguồn để có thể nhập trang thiết bị công nghệ mới nhằm nâng cao quy mô sản xuất, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Vậy có thể hiểu: “Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản là xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản, dịch vụ thuỷ sản, trong đó thêm những lợi thế so sánh về lao động kết tinh trong sản phẩm giữa các quốc gia thông qua trao đổi hàng hoá thuỷ sản”. Sản phẩm thuỷ sản của doanh nghiệp thuỷ sản đưa ra thị trường thế giới cũng được kết tinh bởi hao phí lao động của những ngư dân, công nhân chế biến công nghiệp và những lợi thế về điều kiện tự nhiên. Sản phẩm thuỷ sản được bán ra và thu được ngoại tệ mạnh có thể chi dùng cho quốc kế dân sinh hay củng cố và nâng cao trình độ kỹ thuật thông qua nhập trang thiết bị, công nghệ hiện đại nhằm tiến hành CNH, HĐH đất nước. Người tiêu dùng mua sản phẩm thuỷ sản của doanh nghiệp được hưởng lợi thông qua giá rẻ, chất lượng cao cho lợi thế tương đối.
Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản là vấn đề phức tạp, có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoạt động và nhiều vùng địa phương cũng như các quốc gia khác nhau trên thế giới. Đầu ra của hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản chính là các mặt hàng thuỷ sản. Để có được các mặt hàng thuỷ sản này thì doanh nghiệp phải sử dụng các nguồn lực đầu vào của sản xuất thông qua hoạt động khai thác, nuôi trồng, chế biến để tạo ra sản phẩm đem đi xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
Áp dụng lý thuyết chuỗi giá trị của Michael Porter: Chuỗi giá trị là chuỗi của các hoạt động, trong đó sản phẩm đi qua tất cả các hoạt động đó theo thứ tự và tại mỗi hoạt động sản phẩm thu được một số giá trị nào đó. Hiện nay, chuỗi giá trị hình thành theo sản phẩm trong suốt quá trình từ sản xuất đến thương mại, không bị giới hạn bởi ranh giới quốc gia. Như vậy, về tổng thể có thể chia Chuỗi giá trị của hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản thành 4 công đoạn chính như sau: Khâu tạo nguồn nguyên liệu (khâu sản xuất), khâu thu mua, khâu chế biến bảo quản, và khâu thương mại xuất khẩu [60].
Hình 1.1 Mô hình chuỗi giá trị của Micheal Poster
+ Các yếu tố trong chuỗi: các hộ khai thác thuỷ sản, các hộ hoặc doanh nghiệp nuôi trồng thuỷ sản, các chủ nậu vựa, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản.
Về khâu sản xuất hay còn gọi là khâu tạo nguồn nguyên liệu: bao gồm các hoạt động khai thác thuỷ sản và nuôi trồng thuỷ sản.
Về khâu thu mua: thu mua thuỷ hải sản thông qua các chủ nậu vựa, các thương lái.
Về khâu chế biến bảo quản: hoạt động chế biến của doanh nghiệp thuỷ sản
Về khâu xuất khẩu: là khâu cuối cùng của hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản
+ Các yếu tố ngoài chuỗi: Hệ thống luật pháp trong nước và quốc tế, các chính sách của chính phủ, hạ tầng cơ sở, đất đai, công nghệ.
Năng lực xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản thể hiện qua khả năng điều chỉnh linh hoạt các yếu tố đầu vào (giống, đất đai, lao động, khoa học công nghệ…), các yếu tố đầu ra (chất lượng sản phẩm…) cũng như mô hình tổ chức, quản lý để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Trong chuỗi giá trị của hoạt động xuất khẩu của các DN thuỷ sản thì lợi nhuận thu được ở công đoạn sản xuất là thấp nhất, khâu thương mại xuất khẩu là cao nhất. Đây chính là nguyên nhân mà thông thường rất ít nhà đầu tư bỏ vốn vào sản xuất mà chỉ tập trung cho thu mua và thương mại xuất khẩu. Do vậy, chính sách tài chính của chính phủ nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản cần phải theo hướng hỗ trợ theo chuỗi giá trị tạo ra mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu từ các yếu tố ngoài chuỗi đến các yếu tố trong chuỗi.
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản
Thứ nhất, hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản mang tính thời vụ do thuỷ sản là hàng hoá mang tính thời vụ, phụ thuộc vào thời tiết, ngư trường…
Sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản chủ yếu là những sinh vật sống dưới biển nhưng sản lượng là bao nhiêu chúng ta không thể xác định cụ thể, chính vì vậy chúng ta vừa khai thác vừa không quên nuôi trồng và tái tạo nguồn nguyên liệu của biển. Chỉ có như vậy mới đảm bảo nguyên liệu cho chế biến và xuất khẩu. Thời tiết, khí hậu, dòng nước chảy là những điều kiện ảnh hưởng đến các sinh vật sống trong môi trường nước nên chúng di chuyển theo quy luật sinh tồn từ vùng này sang vùng khác, điều đó muốn nói rằng xuất khẩu thuỷ sản cũng mang tính thời vụ. Như vậy, về nguồn cung thuỷ sản phụ thuộc rất lớn vào thời vụ, nhưng nhu cầu tiêu dùng lại quanh năm nên để các doanh nghiệp thuỷ sản chủ động nguồn hàng và đảm bảo chất lượng hàng thì các công đoạn chế biến và bảo quản thuỷ sản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đặc điểm này đặt ra rằng: chính sách tài chính đối với các doanh nghiệp thuỷ sản không chỉ khuyến khích tăng năng suất, chất lượng thuỷ sản mà còn phải quan tâm đầu tư công nghệ chế biến và bảo quản thuỷ sản.
Thứ hai, hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản đòi hỏi tính liên ngành cao, có mối liên hệ chặt chẽ đồng bộ các khâu: khai thác, nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu [35].
Khi trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, các hoạt động sản xuất cụ thể nói trên chưa có sự tách biệt rõ ràng, thậm chí còn lồng vào nhau sản xuất thủ công. Trong điều kiện như vậy, sản lượng sản xuất ra còn ít và chất lượng thấp, chủ yếu đáp ứng thị trường nhỏ hẹp. Ngày nay, với sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế làm cho hoạt động sản xuất thuỷ sản phục vụ xuất khẩu được chuyên môn hoá ngày càng cao. Các hoạt động chuyên môn hoá khai thác, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản có trình độ và quy mô phát triển tuỳ thuộc vào nhu cầu thị trường và mỗi hoạt động lại dựa trên những ngành chuyên môn hoá hẹp có tính độc lập tương đối. Tuy vậy, do đặc điểm của sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm thuỷ sản, tính liên kết vốn có của các hoạt động khai thác, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ thuỷ sản lại đòi hỏi phải gắn bó các ngành chuyên môn hẹp trong một thể thống nhất, ở trình độ cao hơn mang tính liên ngành. Tính hỗn hợp và tính liên ngành cao của các hoạt động sản xuất có tính chất tương đối khác nhau làm cho ngành thuỷ sản xuất khẩu vừa có tính chất của một ngành sản xuất công nghiệp, vừa có tính chất của ngành sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, việc quản lý vĩ mô cũng như quản lý kinh doanh trong hoạt động xuất khẩu của DN thuỷ sản mang tính liên ngành.
Cho nên chính sách tài chính cũng phải tác động tới từng khâu của chuỗi hoạt động xuất khẩu của DN thuỷ sản.
Thứ ba, hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản chịu sự kiểm soát chặt chẽ về tiêu chuẩn kỹ thuật và các quy định về bảo vệ môi trường.
Thuỷ sản xuất khẩu là một loại hàng hoá được bán ra thị trường nước ngoài. Vì vậy nó cần phải đáp ứng được các yêu cầu của nước nhập khẩu và người tiêu dùng tại nước nhập khẩu về các tiêu chuẩn kỹ thuật như: vệ sinh an toàn thực phẩm, chỉ số dinh dưỡng, môi trường, nhãn mác…Thuỷ sản chủ yếu là hàng tiêu dùng thiết yếu, việc xuất khẩu nông sản chịu sự kiểm soát chặt chẽ về chất lượng. Bên cạnh đó, người tiêu dùng rất khó tính. Ngay cả khi đã quen dùng một loại sản phẩm thuỷ sản nào đó, nhưng chỉ cần một thông tin không tốt về sản phẩm hoặc sản phẩm đó ảnh hưởng tới sức khoẻ, khách hàng có thể từ chối ngay và sử dụng sản phẩm khác để thay thế. Ngoài ra, tâm lý bảo hộ có tính phổ biến thông qua chính sách ưu tiên tiêu dùng sản phẩm nội địa của chính phủ nước nhập khẩu thuỷ sản.
Nhiều nước đưa ra các tiêu chí khắt khe về bảo vệ môi trường, và quy trình kiểm soát hàng thuỷ sản nhập khẩu. Một số nước sử dụng các quy định này để thực hiện chính sách phân biệt đối xử thương mại với các đối tác của họ.
Hàng thuỷ sản xuất khẩu có đặc điểm là cầu ít co giãn, do đó chính sách tài chính đối với hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản có xu hướng hướng tới việc ổn định nguồn cung.
Thứ tư, hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản chứa đựng độ rủi ro cao.
Hầu hết, chuỗi hoạt động sản xuất thuỷ sản cho doanh nghiệp xuất khẩu bao gồm: khai thác, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến thuỷ sản xuất khẩu đều đòi hỏi đầu tư ban đầu tương đối lớn. Trong hoạt động khai thác thuỷ sản, nhất là đánh bắt xa bờ đòi hỏi vốn đầu tư lớn để để hiện đại hoá tàu thuyền, ngư cụ và thiết bị hàng hải. Trong nuôi trồng thuỷ sản thì hầu hết các hoạt động đầu tư nuôi thuỷ sản đều cần vốn đầu tư lớn như chi phí đào ao, thả cá trên đất canh tác hiệu quả thấp được chuyển đổi mục đích sử dụng, chi phí đóng bè nuôi, chi phí cải tạo đầm nuôi thuỷ sản ở ven biển, cửa sông…
Đặc biệt, thuỷ sản là mặt hàng tươi sống, nếu bảo quản không tốt sẽ dẫn đến tình trạng ươn hỏng vì vậy công nghệ bảo quản rất quan trọng. Sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu khó bảo quản, khó vận chuyển. Chính vì vậy, các doanh nghiệp phải quan tâm đến việc bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm để đảm bảo yêu cầu về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Thứ năm, hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản phải chịu mức độ cạnh tranh cao.
Tính chất cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu thuỷ sản rất phức tạp. Trên thế giới có rất nhiều quốc gia sản xuất thuỷ sản xuất khẩu, cho nên đối thủ cạnh tranh đông đảo và khá khác biệt nhau. Hơn nữa, cạnh tranh giữa các nước bán cùng một loại sản phẩm, nhất là giữa các nước đang phát triển cạnh tranh bán thuỷ sản trên thị trường của nước phát triển. Do nhiều quốc gia đang phát triển phụ thuộc vào xuất khẩu nông sản nói chung và thuỷ sản nói riêng nên các quốc gia phát triển thường có lợi thế hơn trong thoả thuận thương mại. Các nước đang phát triển vừa ở vị thế yếu, vừa có nhu cầu cấp bách về ngoại tệ nên tìm mọi cách tranh thủ bạn hàng dẫn đến cạnh tranh gay gắt với nhau, thậm chí chơi xấu các đối thủ cạnh tranh.
1.1.3 Vai trò của hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản trong nền kinh tế
Mặt hàng thuỷ sản là loại hàng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, phục vụ nhu cầu tiêu dùng của mọi tầng lớp xã hội, và đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.
– Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thủy sản góp phần thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế.
Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thủy sản đóng vai trò quan trọng trong quá trình thúc đẩy công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Hàng năm, các phương tiện, thiết bị tiên tiến phục vụ cho phát triển thủy sản không ngừng được nâng cao, điều đó giúp cho quá trình đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy sản được thuận lợi hơn, góp phần lớn trong việc tăng năng suất và kim ngạch xuất khẩu. Bên cạnh đó, hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thủy sản sẽ giúp tạo ra nguồn vốn lớn góp phần xây dựng nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa như: nhập khẩu các máy móc, thiết bị và công nghệ tiên tiến, hiện đại; xây dựng cơ sở vật chất cho xã hội, phát triển kinh tế đất nước và nâng cao đời sống xã hội.
– Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thủy sản làm tăng nguồn thu ngoại tệ, góp phần làm cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.
Kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp thủy sản không ngừng tăng lên qua các năm sẽ mang lại lượng ngoại tệ lớn cho đất nước, góp phần làm cân bằng cán cân thanh toán quốc tế của đất nước. Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản mang lại nguồn thu đáng kể đối với các quốc gia chủ yếu là nông nghiệp. Việc tăng cường xuất khẩu các mặt hàng thuỷ sản không những nâng cao được uy tín của xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước mà còn phản ánh được năng lực sản xuất hiện đại của chính nước đó. Bên cạnh đó, nhờ đẩy mạnh tăng thu nhập ngoại tệ, góp phần tăng khả năng nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu và công nghệ tiến tiến, thực hiện cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghiệp hoá ở các nước chậm phát triển và đang phát triển, góp phần cải thiện tình hình mất cân đối về thu chi tài chính quốc tế, giảm bớt sự vay nợ nước ngoài.
– Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thủy sản tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp của đất nước.[14]
Hàng năm, các doanh nghiệp thủy sản thu hút một lực lượng lớn lao động tham gia trong tất cả các lĩnh vực: nuôi trồng, đánh bắt, chế biến xuất khẩu, dịch vụ hậu cần thủy sản… Điều đó đã mang lại hiệu quả thiết thực, phát huy được vai trò tích cực của nông dân, ngư dân, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp của đất nước. Sự gia tăng đầu tư trong ngành sản xuất hàng thuỷ sản xuất khẩu đã tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước tăng lên về cả quy mô và tốc độ phát triển, các ngành nghề cũ được khôi phục, các ngành nghề mới ra đời, sự phân công lao động mới đòi hỏi lao động được sử dụng nhiều hơn, đặc biệt là các ngành sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu, đang trực tiếp là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp. Ngoài ra, trong suốt quá trình thực hiện hoạt động xuất khẩu thuỷ sản, lực lượng lao động tham gia dịch vụ hậu cần, xuất khẩu cũng không hề nhỏ.
– Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thủy sản đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản còn tạo điều kiện cho nhiều thành phần kinh tế tham gia như doanh nghiệp nhà nước, các công ty tư nhân, các liên doanh… Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác cùng phát triển. Khi xuất khẩu các mặt hàng này thì các ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi, các ngành công nghiệp chế biến, dịch vụ xuất khẩu liên quan cũng phát triển lên theo quy mô sản xuất của mặt hàng này. Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm xuất khẩu các mặt hàng thuỷ sản… có thể kéo theo sự phát triển của các ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó như: hoá chất, chất bảo quản, bao bì… Chính điều này làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi một cách đồng bộ không có sự mất cân đối giữa các ngành với nhau. Như vậy, hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp thuỷ sản đã góp phần tạo ra một cơ cấu kinh tế phù hợp với xu thế phát triển của quốc gia cũng như của thế giới.
– Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thủy sản góp phần mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế.
Trong kinh tế, xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại khác có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại đã làm cho nền kinh tế mỗi nước gắn chặt với phân công lao động quốc tế. Thông thường, hoạt động xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các mối quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu và sản xuất hàng hoá thúc đẩy các quan hệ tín dụng đầu tư, mạo hiểm, thanh toán, vận tải quốc tế…Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề, điều kiện để mở rộng xuất khẩu. Khi các hoạt động trên phát triển và ngày càng hiện đại, sẽ tạo ra sự tiện lợi, nhanh chóng và dễ dàng hơn cho hoạt động xuất khẩu, do đó xuất khẩu thuỷ sản sẽ ngày càng được mở rộng cũng như phát triển.
Như vậy, hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thủy sản đã giúp cho quốc gia mở rộng giao thương với rất nhiều các quốc gia trên thế giới, góp phần thúc đẩy nền kinh tế hội nhập sâu, rộng vào khu vực và thế giới.
– Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản góp phần thúc đẩy cải tiến cơ chế quản lý, chính sách kinh tế của nhà nước cho phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.
Toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại đã và đang là xu thế phát triển chung của toàn thế giới, nó tác động sâu sắc và toàn diện đối với mọi lĩnh vực của đời sống KTXH của các quốc gia, làm cho nền kinh tế mỗi quốc gia ngày càng gắn bó chặt chẽ với nền kinh tế toàn cầu. Chính vì vậy, mỗi quốc gia, mỗi ngành khi tham gia vào thương mại quốc tế là đã tham gia vào một sân chơi chung, sức ép cạnh tranh lớn song cũng rất bình đẳng. Tuy nhiên, việc tham gia sẽ trở nên khó khăn, bất cập với những quốc gia có hệ thống quản lý thương mại hoạt động chưa bài bản, thiếu tính thực tiễn. Do đó, để xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu thuỷ sản nói riêng ngày một phát triển thì việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành cho phù hợp với những cam kết quốc tế, phù hợp với quy định của tổ chức WTO, cũng như với các FTAs sẽ là vấn đề cần giải quyết cấp bách và đồng bộ hiện nay.
Tóm lại, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thuỷ sản được coi là một trong những vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế, đặc biệt đối với những quốc gia có lợi thế so sánh trong việc phát triển ngành thuỷ sản.