LA17.060_Chính sách nhập khẩu dịch vụ giáo dục đại học trong thời kỳ hội nhập quốc tế ở Việt Nam
Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thƣơng mại thế giới WTO và bắt đầu thực hiện các cam kết GATS, trong đó giáo dục là một trong mƣời hai ngành dịch vụ mà Việt Nam có cam kết. Trên thực tế, khi đƣa ra bản chào dịch vụ đa phƣơng, mức cam kết của Việt Nam là khá sâu và rộng đối với GDĐH. Theo đó, ta mở cửa cho phép các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đƣợc tiếp cận thị trƣờng GDĐH trong các lĩnh vực kỹ thuật, khoa học tự nhiên và công nghệ, quản trị kinh doanh và khoa học kinh doanh, kinh tế, kế toán, ngôn ngữ và luật quốc tế. Sự hiện diện thƣơng mại của các CSGD nƣớc ngoài là không hạn chế đối với các CSLK kể từ ngày Việt Nam gia nhập WTO và cũng không hạn chế đối với các cơ sở 100% vốn nƣớc ngoài kể từ sau ngày 1/1/2009.
Việt Nam có một thị trƣờng DV GDĐH khá hấp dẫn với các nƣớc XK GDĐH, với khoảng trên dƣới 1 triệu học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông hàng năm. Hiện nay, hệ thống GDĐH trong nƣớc chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu về các DV GDĐH, nhất là chất lƣợng GDĐH; chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu học tập đa dạng về hình thức, về chất lƣợng cho nhiều nhóm ngƣời học khác nhau, nhất là đối với nhóm đối tƣợng có khả năng chi trả. Số lƣợng HS, SV Việt Nam đi du học nƣớc ngoài ngày càng tăng, đặc biệt là khoảng 15 năm trở lại đây. Bên cạnh đó, các nhà cung cấp DV GDĐH nƣớc ngoài cũng đang hƣớng đến thị trƣờng Việt Nam qua phƣơng thức 3 và 4 trong cam kết GATS. Với chính sách mở cửa về kinh tế, với sự bùng nổ về nhu cầu NNL chất lƣợng cao cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nƣớc, nhiều hoạt động NKNV GDĐH đã đƣợc thực thi.
Hàng năm, ƣớc tính Chính phủ và ngƣời dân Việt Nam chi hàng nghìn tỉ đồng để NKDV GDĐH từ các nƣớc Mỹ, Úc, Anh, Pháp, Canada, Đức, Nhật, Hàn Quốc, Nga, Singapore, Malaysia, Trung Quốc…. cho khoảng 70,000 SV Việt Nam du học nƣớc ngoài. Nguồn kinh phí này chủ yếu là tƣ nguồn kinh phí tự túc của ngƣời học. Bên cạnh đó, Việt Nam NK khá nhiều các CTĐT, mời các giáo sƣ, nhà nghiên cứu, chuyên gia và triển khai hoạt động đào tạo tại Việt Nam. Hoạt động NK này đƣợc tiến hành bởi CSĐT Việt Nam gồm cả công lập, tƣ nhân, và nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Một số hoạt động NK nằm ngoài, một phần thậm chí có thể là hoàn toàn, sự kiểm soát của Nhà nƣớc. Tuy nhiên, nhiều chính sách quản lý NK GDĐH Việt Nam vẫn xem DV GDĐH không phải là một ngành dịch vụ và đặc biệt chính sách NKDV GDĐH ở Việt Nam không phải là chính sách chuyên biệt. Hệ thống các định chế pháp lý chƣa đầy đủ và chƣa phản ánh hết thực tiễn sinh động của hoạt động NK này. Cơ chế quản lý còn quá tập trung, quan liêu, xin cho và thiếu hệ thống giám sát chất lƣợng một cách hiệu quả. Cơ chế và các chính sách quản lý hoạt động NKDV GDĐH còn nhiều bất cập trong bối cảnh toàn cầu hóa HNQT.
Bên cạnh các hoạt động NK có sự điều tiết và kiểm soát bởi Nhà nƣớc, còn có nhiều hoạt động diễn ra tự phát, bị động bởi nhà XK vì mục tiêu lợi nhuận, có các hành vi “lừa đảo” ngƣời học… Do vậy, đã xảy ra không ít sự việc đáng tiếc, gây hậu quả cho ngƣời học, làm nhiễu loạn thị trƣờng DV GDĐH.
Mặc dù đã có nhiều Hội thảo, Hội nghị, tọa đàm xung quanh những cơ hội và thách thức đặt ra cho nền GDĐH khi Việt Nam gia nhập WTO, đã có nhiều diễn đàn trên các trang thông tin điện tử thảo luận về vấn đề này, nhƣng đến nay vẫn chƣa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu nào về chính sách NKDV GDĐH của các quốc gia và bài học khả năng áp dụng cho Việt Nam, vẫn vắng bóng những nghiên cứu đủ sâu để đo lƣờng những tác động của WTO/GATS đối với hệ thống GDĐH Việt Nam. Do vậy, Việt Nam cần nhiều hơn nữa các nghiên cứu chuyên sâu để từ đó đề xuất các chính sách hữu hiệu, phù hợp, góp phần tăng cƣờng quản lý các hoạt động NKDV GDĐH trong bối cảnh đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH Việt Nam, đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Những phân tích trên là lý do để tôi chọn đề tài luận án tiến sỹ về “Chính sách khẩu dịch vụ giáo dục đại học trong thời kỳ hội nhập quốc tế ở Việt Nam”.