LA02.152_Ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống và tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của luận án là xác định ảnh hưởng của dòng tiền, độ bất ổn (với đại diện là rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống) và tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam. Và mục tiêu kế tiếp là xem xét ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống và tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư của doanh nghiệp hạn chế tài chính, cũng như đến đầu tư của các doanh nghiệp có sự kiểm soát Nhà nước. Cụ thể, nghiên cứu của luận án sẽ tập trung trả lời ba câu hỏi chính sau:
(1) Câu hỏi thứ nhất, ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống và tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam như thế nào?.
(2) Câu hỏi thứ hai, ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống và tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư của doanh nghiệp ít hạn chế tài chính có khác với doanh nghiệp nhiều hạn chế tài chính hay không?.
(3) Câu hỏi thứ ba, ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống và tính thanh khoản đến đầu tư của doanh nghiệp không có kiểm soát Nhà nước có khác với những doanh nghiệp có kiểm soát Nhà nước hay không?.
4. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả sử dụng số liệu nghiên cứu thu thập từ các báo cáo tài chính đã được kiểm toán, tỷ lệ chi trả cổ tức, giá trị thị trường vốn cổ phần, của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2013, với tiêu chí tối đa số quan sát. Tác giả đã thu thập được báo cáo tài chính của 211 doanh nghiệp và đã tính toán các chỉ số sau từ báo cáo tài chính thu thập từ năm 2007 – 2013:
(1) Các chỉ tiêu để tính chỉ số KZ (1997) nhằm xác định doanh nghiệp hạn chế tài chính: Tài sản cố định thuần (TSCĐ thuần); tỷ lệ dòng tiền nội bộ trên TSCĐ thuần; Tobin’ Q, tỷ lệ nợ; tỷ lệ cổ tức chi trả trên TSCĐ thuần; tiền
mặt; tỷ lệ tiền mặt trên TSCĐ thuần.
(2) Các chỉ tiêu dùng trong mô hình hồi quy để tính rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống: giá chứng khoán đóng cửa, mở cửa theo từng ngày từ năm 2008 đến 2013 của 211 doanh nghiệp; chỉ số VN-index từng ngày của thị trường từ năm 2008 – 2013; lãi suất kỳ hạn 90 ngày của tín phiếu kho bạc từ năm 2008 – 2013.
(3) Các chỉ tiêu dùng trong mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dòng tiền, độ bất ổn và tính thanh khoản đến đầu tư: Tỷ lệ đầu tư trên TSCĐ thuần; dòng tiền nội bộ trên TSCĐ thuần, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống, tỷ lệ cổ phiếu giao dịch trên số lượng cổ phiếu đang lưu hành, Q, tỷ lệ nợ, tốc độ tăng trưởng doanh thu; quy mô tổng tài sản; tỷ suất sinh lời của chứng khoán; số năm thành lập doanh nghiệp cổ phần. Các chỉ tiêu này được lấy số liệu từ năm 2008 đến 2013, ngoại trừ chỉ tiêu đầu tư phải sử dụng thêm số liệu TSCĐ thuần năm 2007, để tính giá trị đầu tư năm 2008, tương tự chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng doanh cũng sử dụng doanh thu năm 2007 để tính tốc độ tăng trưởng doanh thu năm 2008. Số năm thành lập doanh nghiệp cổ phần có thời gian xa nhất là năm 1993, tương ứng với số tuổi doanh nghiệp tính đến năm 2013 là 19 năm.